Việc nghiên cứu và vận dụng TBNN đã được đặt ra ở Việt nam từ những năm 50 (ở miền Bắc) và cả nước từ sau năm1975. Trong quá trình đổi mới chúng ta đặt kinh tế TBNN ở vị trí thứ ba trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, đánh dấu bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta. Kinh tế TBNN không chỉ được coi như là một thành phần kinh tế cùng tồn tại bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, mà nó còn mang những ý nghĩa như những “nấc thang trung gian cần thiết” để liên các thành phần kinh tế tư bản tư nhân trong nước, kể cả tầng lớp tiểu tư sản hướng sự phát triển đó theo tay lái nhà nước XHCN.
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1815 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự vận dụng lý luận của lê nin về CNTBNN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c cách mạng XHCN chỉ có thể thắng lợi triệt để với hai điều kiện: Điều kiện thứ nhất là có sự ủng hộ kịp thời của cách mạng XHCN ở một số nước tiên tiến. Điều kiện thứ hai: Là sự thoả thuận giữa giai cấp vô sản đang thực hiện sự chuyên chính của mình hoạc đang nắm chính quyền nhà nước với đại đa số nông dân. Lê nin khẳng định: chừng nào cách mạng chưa nổ ra ở các nước khác thì chỉ có thoả thuận với nông dân mới có thể cứu vãn được cuộc cách mạng XHCN. Đó là lý do phải quay về tư bản nhà nước.
Sự thoả thuận giữa hai giai cấp này sau khi kết thúc nội chiến đã trở nên không vững chắc vì nông dân không hài lòng với hình thức quan hệ hiện có, không muốn có hình thức quan hệ ấy nữa và không muốn tiết tục sống mãi như thế. Do đó phải thiết lập những mối quan hệ mới thông qua các hoạt động kinh tế và phải thoả mãn được những yêu cầu của nông dân. về thực chất có thể thoả mãn tiểu nông bằng hai việc: Phải có sự tự do trao đổi nhất định và phải kiếm ra hàng hoá và lương thực.
Chính sách tự do trao đổi là nhằm “kiếm ra hàng hoá” căn cứ vào tâm lý của người tiêu dùng. Nhờ chính sách tự do buôn bán mà kích thích người nông dân, vì lợi ích của bản thân mà tạo ra nhiều nông sản, hàng hoá, chính sách tự do buôn bán là sự thoả thuận với nông dân một cách thực tế, khéo léo, khôn ngoan và mềm dẻo. Cũng chính từ chính sách tự do trao đổi trong nông dân và chính sách đó mà xuất hiện hai vấn đề dẫn đến CNTBNN.
Trước hết, tự do trao đổi là tự do buôn bán , mà tự do buôn bán tức là lùi lại CNTB. Lê nin đã dự kiến trước như vậy nhưng không phải vì thế mà ta có thể ngăn cấm được. Từ đó thấy được sự cần thiết phải “dung nạp” CNTB. ở đây diễn ra một điều mà chính Lê nin cũng phải nói “ hình như là ngược đời: CNTB tư nhân lại đóng vai trò trợ thủ cho CNXH, có thể sử dụng CNTB tư nhân để xúc tiến CNXH”. Muốn không để thay đổi bản chất của mình, nhà nước vô sản chỉ có thể thừa nhận cho CNTB được phát triển trong một chừng mực nào đó và tư bản tư nhân phải phục tùng sự điều tiết của nhà nước, phải tìm cách hướng chúng vào con đường của CNTBNN bằng một tổ chức của nhà nước và những biện pháp có tính chất nhà nước từ bên trên. Vậy, trong điều kiện nhà nước vô sản, tự do trao đổi, tự do buôn bán tất dẫn đến sự phục hồi của CNTB dưới hình thức chủ yếu là CNTBNN.
Trong điều kiện một nước mà CNTB tư sản chiếm ưu thế, hàng hoá chỉ có thể có được từ nông dân, từ nông nghiệp, như vậy, phạm vi trao đổi chỉ diễn ra trong phạm vi hàng hoá nông sản điều đó sẽ kích thích nông dân, nông nghiệp phát triển .Do đó, phải có những hàng hoá mà nông dân cần đó là những sản phẩm công nghiệp và thủ công nghiệp. Nhưng tình hình trong nước không thể giải quyết ngay vấn đề này “nếu không có sự giúp đỡ của tư bản nước ngoài...”. theo Lê nin cần phải “du nhập” CNTB từ bên ngoài bằng những hợp đồng buôn bán với nước tư bản lớn, bằng chính sách tô nhượng tóm lại bằng những hình thức khác nhau của CNTBNN.
2.2. Vai trò của CNTBNN trong nền kinh tế Nga.
Bản thân CNTBNN là sự “kết hợp, liên hợp, phối hợp Nhà nước Xô viết, nền chuyên chính vô sản với CNTB”, là “ một khối với CNTB ở bên trên” và đương nhiên sẽ không có CNTBNN, nếu không có những điều kiện cho họ, điều kiện ấy theo Lênin, chính là những “cống vật”. Trong điều kiện trên thế giới chỉ có mình chính quyền Xô viết, xung quanh là cả 1 hệ thống các nước tư bản, muốn tồn tại, chính quyền Xô viết không thể bỏ qua sự thật ấy. Khi thực hiện CNTBNN, nhà tư bản được lập lại, được “du nhập” “không phải vì lợi ích củng cố chính quyền Xô viết, mà vì lợi ích của bản thân họ”. Chính Lênin còn dự kiến cả khả năng sự phân chia lợi ích đó thoạt đầu có lợi nhiều cho các nhà tư bản dưới hình thức “trả giá” cho sự lạc hậu, cho sự kém cỏi của mình. Vấn đề là không cần che giấu sự thật: phải nộp “cống vật”. Nhưng đối với nhà nước vô sản thì sự dung nạp và du nhập CNTB sẽ mang lại nhứng lợi ích cơ bản và lâu dài.
Sự phát triển của CNTB do nhà nước vô sản kiểm soát và điều tiết có thể đẩy nhanh sự phát triển ngay tức khắc nền nông nghiệp. Nhờ việc tăng nhanh lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mà ổn định xã hội, thoát khỏi khủng hoảng, thoát khỏi tình cảnh giảm sút tín nhiệm của nông dân đối với chính quyền Xô viết, khắc phục tình trạng trộm cắp của công...
Bằng sự “du nhập” chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài mà tăng nhanh lực lượng sản xuất, tăng lên ngay hoặc trong một thời gian ngắn. Cải thiện đời sống công nhân và nông dân, nền đại công nghiệp sẽ được phục hồi.
CNTBNN là công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ lại, khắc phục tình trạng phân tán và đấu tranh chống tính tự phát tiểu tư sản và TBCN. CNTBNN là một bước tiến lớn, nhờ nó mà chiến thắng được tình trạng hỗn độn, tình trạng suy sụp về kinh tế, hiện tượng lỏng lẻo, nhứng thói quen, địa vị kinh tế của giai cấp. Cũng chính vì thế mà CNTBNN sẽ đưa nước Nga lên CNXH bằng con đường chắc chắn nhất.
CNTBNN là công cụ để khắc phục được “kẻ thù chính trong “nội bộ” đất nước, kẻ thù của các biện pháp kinh tế” của chính quyền Xô viết. Đó là bọn đầu cơ, gian thương, bọn phá hoại độc quyền của nhà nước. CNTBNN còn được xem là công cụ đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu và những lệch lạc quan liêu chủ nghĩa.
Thông qua CNTB và CNTBNN mà giai cấp công nhân có thể học tập được cách quản lý một nền sản xuất lớn, tổ chức một nền sản xuất lớn. CNTBNN thông qua sự “du nhập” của tư bản từ bên ngoài là hình thức du nhập tiến bộ kỹ thuật hiện đại, qua đó có được trình độ trang bị cao của CNTB.
CNTBNN thông qua sự phát triển của nó mà phục hồi được giai cấp công nhân. Nếu CNTB được lợi thế thì sản xuất công nghiệp cũng sẽ tăng lên và giai cấp vô sản cũng theo đó mà lớn mạnh lên.
2.3 Điều kiện cần có để vận dụng các hình thức kinh tế TBNN:
Để sử dụng CNTBNN: Để sử dụng CNTBNN cần có những giới hạn, điều kiện để sự phát triển của các quan hệ thị trường và các quan hệ TBCN nói chung và các quan hệ CNTBNN nói riêng không nguy hại cho định hướng XHCN cần có những giới hạn và điều kiện then chốt là:
Chính quyền nhà nước phải nằm trong tay giai cấp công nhân và nhà nước quy định khuôn khổ cho sự phát triển của CNTBNN.
Nhà nước phải nắm các đỉnh cao kinh tế để điều tiết nền kinh tế. Chấp nhận điều kiện của CNTB để tạo điều kiện cho CNTBNN phát triển và phát huy tác dụng. Sử dụng sức mạnh của nền kinh tế nhiều thành phần từ đó vận dụng tất cả các hình thức kinh tế TBNN.
Kiên định về định hướng CNXH và độc lập kinh tế trong quan hệ với CNTB nước ngoài.
2.4 Các hình thức kinh tế TBNN vận dụng ở Nga:
2.4.1 Tô nhượng
Tô nhượng là một giao kèo, một sự liên kết, liên minh giữa chính quyền nhà nước Xô viết, nghĩa là nhà nước vô sản với CNTBNN, chống lại thế lực tự phát tiểu tư hữu. Tô nhượng là chính quyền Xô viết ký hợp đồng với nhà tư bản. Chính quyền XHCN giao cho nhà tư bản tư liệu sản xuất của mình. Nhà tư bản tiến hành kinh doanh với tư cách là một bên ký kết, là người thuê tư liệu sản xuất xã hội chủ nghĩa, và thu được lợi nhuận của tư bản mà mình bỏ ra, rồi nộp cho nhà nước XHCN một phần sản phẩm ,tô nhượng là hình thức kinh tế mà hai bên cùng có lợi. Nhà tư bản thu được lợi nhuận bất thường, siêu ngạch hoặc để có được loại nguyên liệu không tìm được hoặc khó tìm được. Chính quyền Xô viết cũng có lợi: lực lượng sản xuất phát triển, số lượng sản phẩm tăng lên.
Hình thức tô nhượng là sự “du nhập” chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài vào. Tất cả khó khăn trong nhiệm vụ này là phải suy nghĩ, phải cân nhắc hết mọi điều khi ký hợp đồng tô nhượng và sau đó phải biết theo dõi việc chấp hành nó. Lê nin đã nêu ra những vấn đề cần chú ý:
- Để thực hành tô nhượng cần phải từ bỏ chủ nghiã ái quốc địa phương của một số người cho rằng, tự mình có thể làm lấy, không chấp nhận trở lại chịu ách nô dịch của tư bản.
- Người nhận tô nhượng có trách nhiệm cải thiện đời sống công nhân trong xí nghiệp tô nhượng sao cho đạt tới mức sống trung bình của nước ngoài. Ngoài ra, người nhận tô nhượng phải bán thêm cho chính quyền Xô viết từ 50 -> 100 % số lượng sản phẩm tiều dùng (nếu được yêu cầu để cải thiện đời sống công nhân khác).
- Vấn đề trả lương cho cống nhân ở các xí nghiệp tô nhượng sẽ được quy định riêng trong từng hợp đồng. Điều kiện về thuê mướn, về sinh hoạt vật chất, về trả lương cho các công nhân và nhân viên nước ngoài được quy định theo sự thoả thuận tự do giữa người nhận tô nhượng với những loại công nhân viên nói trên. Công đoàn không có quyền đòi áp dụng các mức lương của Nga, cũng như các luật lệ của Nga về thuê mướn nhân công đối với những công nhân đó.
- Đối với những công dân Nga, chuyên gia Nga có trình độ cao, nếu các xí nghiệp tô nhượng muốn mời thì phải được sự đồng ý của các cơ quan chính quyền trung ương.
- Phải tôn trọng pháp luật của nước Nga.
- Phải nghiêm chỉnh tuân theo những quy tắc khoa học và kỹ thuật phù hợp với pháp luật của nước Nga và của nước ngoài.
2.4.2. Các hợp tác xã.
Những xí nghiệp hợp tác xã được coi là một hình thức của CNTBNN. Đặc trưng của xí nghiệp này là sự kết hợp của những xí nghiệp tư bản tư nhân với những xí nghiệp kiểu CNXH chính cống. Những xí nghiệp hợp tác xã này là bước chuyển từ một hình thức đại sản xuất này sang hình thức đại sản xuất khác. Hình thức này có thể là hình thức hợp doanh (công tư hợp doanh) theo khái niệm thường ngày nay với cách diễn đạt của Lê nin.
2.4.3. Hình thức đại lý uỷ thác.
Theo hình thức này thì nhà nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách một nhà buôn, trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ.
2.4.4 Cho tư bản trong nước thuê xí nghiệp, vùng mỏ, rừng, đất. Cho nông dân thuê những hầm mỏ nhỏ:
Cho tư bản trong nước thuê xí nghiệp... giống hình thức tô nhượng, nhưng đối tượng tô nhượng không phải là tư bản nước ngoài mà là tư bản trong nước.
Cho nông dân thuê những hầm mỏ là một hình thức nữa của CNTBNN. Chính ở những hầm mỏ nhỏ cho nông dân thuê, sản xuất lại đặc biệt phát triển hơn là những xí nghiệp lớn nhất trước kia là của tư bản. Những nông dân này hoạt động theo kiểu nộp tô cho nhà nước. Đây cũng là kiểu cho thuê, nhưng đối tượng thuê là những tiểu tư bản.
2.5 Kết quả đạt được và ý nghĩa:
2.5.1 kết quả đạt được:
Sự thực hành chế độ CNTBNN ở thời Lê nin đã mang lại những kết quả to lớn. Đến tháng 11 năm 1922, Lê Nin đã trình bày khái quát nhũng thành tựu của chính sách kinh tế mới nói chung, CNTBNN nói riêng:
Tình hình giai cấp nông dân, từ chỗ đói kém, một bộ phận rất lớn trong nông dân bất bình đến chỗ trong vòng một năm, nông dân đã thoát khỏi được nạn đói và còn nộp được thuế lương thực hàng trăm triệu rúp. Nông dân đã hài lòng với tình hình của họ.
Công nghiệp nhẹ đang có đà phát triển, đời sống của công nhân được cải thiện, tình trạng bất mãn của công nhân không còn nữa.
Công nghiệp nặng tuy vẫn còn khó khăn nhưng đã có sự thay đổi nhất định.
Riêng về chính sách CNTBNN, nhìn chung đã mang lại cho nước Nga những tác dụng tích cực nhất định, góp phần làm sống động nền kinh tế nước Nga đã bị suy sụp sau chiến tranh. Nhờ tô nhượng với nước ngoài, nhiều ngành công nghiệp quan trọng đã phát triển, nhiều kinh nghiệm tiên tiến với kỹ thuật, thiết bị hiện đại của nền sản xuất lớn TBCN đã được đưa vào quá trình sản xuất, mang lại hiệu quả cao. Tô nhượng cùng các công ty hợp doanh đã góp phần phát triển sản xuất hàng hoá, tăng thêm dự trữ ngoại tệ cho đất nước, mở rộng các quan hệ liên doanh, liên kết kinh tế trong các lĩnh vực đầu tư sản xuất, chuyển giao công nghệ tiên tiến và phát triển ngoại thương với các nước tư bản phương tây. Thông qua các hoạt động của công ty hợp doanh, những người cộng sản Nga có thể thực sự học cách buôn bán, điều mà bấy giờ Lê nin thường nói là nhiệm vụ quan trọng. Hoạt động của các xí nghiệp cho thuê, các xí nghiệp hỗn hợp góp phần giúp nhà nước Xô viết duy trì hoạt động sản xuất bình thường ở các cơ sở kinh tế, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, việc làm cho người lao động. Hình thức đại lý thương nghiệp và các hợp tác xã TBCN trong các lĩnh vực sản xuất, tín dụng đã góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ thương nghiệp XHCN đẩy nhanh qúa trình trao đổi và lưu thông hàng hoá tiền tệ, làm sống động nền sản xuất hàng hoá nhỏ, qua đó cải biến những người tiểu nông, nối liền quan hệ trao đổi công - nông nghiệp, thành thị - nông thôn.
Những kết quả ấy có ý nghĩa tích cực đối với nước Nga Xô viết. Nó góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển nền kinh tế nước Nga sau chiến tranh. Tuy nhiên so với sự mong muốn và mục tiêu đặt ra của Lê nin thì kết quả thực hành chế độ này vẫn còn rất thấp. Nguyên nhân quan trọng nhất là CNTB đế quốc vẫn còn tìm cách bóp chết chính quyền Xô viết, vì thế sự hợp tác, đầu tư của tư bản nước ngoài vào Liên Xô không đạt sự mong muốn.
Tuy nhiên, kết quả lớn nhất là bắt đầu hình thành một khái niệm mới, và CNTBNN đã thực sự là một phần đặc trưng của chính sách kinh tế mới. Và nhờ chính sách kinh tế mới mà chính quyền Xô viết đã giữ được những vị trí vững chắc trong nông nghiệp và công nghiệp ,có khả năng tiến lên được. Nông dân vừa lòng, công nghiệp cũng như thương nghiệp đang hồi sinh và phát triển. Đó là một thắng lợi của chính quyền Xô viết.
2.5.2. ý nghĩa của NEP và CNTBNN.
Chính sách kinh tế mới của Lê nin có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, trước hết nó khôi phục được nền kinh tế sau chiến tranh. Từ đó nó khắc phục khủng hoảng chính trị, củng cố lòng tin cho nhân dân vào sự thắng lợi tất yếu và bản chất tốt đẹp của CNXH theo những nguyên lý mà Lê nin vạch ra.
Chính sách kinh tế mới của Lê nin đánh dấu một bước phát triển mới về lý thuyết nền kinh tế XHCN. Theo tư tưởng này, nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ, việc duy trì và phát triển quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan tâm tới lợi ích kinh tế cá nhân trước hết là của nông dân là những vấn đề có tính nguyên tắc trong việc xây dựng mô hình kinh tế XHCN.
Chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với các nước phát triển theo định hướng XHCN, trong đó có Việt nam
II. Sự vận dụng lý luận của Lê nin về CNTBNN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt nam
1.1. Cơ sở lý luận cho việc vận dụng lý luận về CNTBNN ở Việt nam; và quan điểm của Đảng cộng sản Việt nam.
1.1.1. Tính tất yếu khách quan của việc vận dụng CNTBNN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt nam
Đặc trưng của thời đại ngày nay: loài người đã bước vào một thời đại phát triển mới, chuyển từ nền văn minh máy móc, hoá chất và dầu lửa sang nền văn minh sinh học và thông tin, nền kinh tế thế giới đang bước vào một nền kinh tế được gọi là kinh tế trí tuệ. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới đang tạo ra một lực lượng sản xuất mới có tính chất và trình độ cao hơn lực lượng sản xuất cũ và quốc tế hoá rất cao. Tính quốc tế cao của nền kinh tế đang làm cho tất cả các nước trên thế giới ngày càng phụ thuộc và hợp tác chặt chẽ với nhau. Bất cứ một nước nào muốn tách biệt khỏi nền kinh tế thế giới là một điều tự sát. Đấu tranh và hợp tác giữa các nước là điều kiện tồn tại của tất cả các nước, của mỗi nước. Vì vậy, trong thời đại ngày nay nước ta không thể tách rời khỏi nền kinh tế thế giới mà phải hoà nhập vào và muốn như thế thì trong các thành phần kinh tế của nước ta phải có thành phần kinh tế TBNN để có thể hợp tác kinh tế với tất cả các nước trên thế giới (phần đa là các nước tư bản hoặc trung lập).
Việt nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Theo lý luận của Lê nin thì thời kỳ quá độ bao gồm rất nhiều bước trung gian mà CNTBNN là một trong những trung gian quan trọng nhất vì vậy để có thể tiến lên CNXH nước ta không thể nào bỏ qua các hình thức kinh tế TBNN.
1.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt nam về việc vận dụng CNTBNN ở Việt nam.
Mô hình kinh tế TBNN đã được báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VIII xác định “ kinh tế TBNN bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản nước ngoài. Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công cuộc xây dựng và phát triển đất nước...”
Kinh tế TBNN trong thời kỳ quá độ ở nước ta là một thành phần kinh tế, một kiểu tổ chức kinh tế gắn bó giữa một bên là nhà nước của dân, do dân, vì dân, đại biểu cho sự sở hữu toàn dân đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu và lợi ích xã hội, với một bên là nhà nước tư bản; là hệ thống các quan hệ hợp đồng kinh tế giữa nhà nước của giai cấp công nhân và nhà tư bản. Do đó, kinh tế TBNN ở nước ta hiện nay vừa là một thành phần kinh tế, vừa là con đường, hình thức, phương tiện thu hút, liên kết các nguồn lực để phát triển đất nước. Chính vì vậy mà trong các mục tiêu về quan hệ sản xuất ở nước ta, Đại hội VIII của Đảng đã xác định: đến năm 2020 bên cạnh kinh tế nhà nước cùng kinh tế hợp tác đóng vai trò nền tảng trong nền kinh tế, kinh tế TBNN dưới các hình thức khác nhau tồn tại phổ biến.
Việc nghiên cứu và vận dụng TBNN đã được đặt ra ở Việt nam từ những năm 50 (ở miền Bắc) và cả nước từ sau năm1975. Trong quá trình đổi mới chúng ta đặt kinh tế TBNN ở vị trí thứ ba trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, đánh dấu bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta. Kinh tế TBNN không chỉ được coi như là một thành phần kinh tế cùng tồn tại bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, mà nó còn mang những ý nghĩa như những “nấc thang trung gian cần thiết” để liên các thành phần kinh tế tư bản tư nhân trong nước, kể cả tầng lớp tiểu tư sản hướng sự phát triển đó theo tay lái nhà nước XHCN.
2. Vận dụng CNTBNN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt nam
2.1. Khả năng vận dụng các hình thức kinh tế TBNN ở nước ta
Đối với nước ta, sử dụng kinh tế TBNN sẽ là điều kiện cần thiết để khắc chế tính tự phát trong sản xuất và chế độ sản xuất phân tán kém hiệu quả của kinh tế sản xuất nhỏ, nhằm khai thác tối đa tiềm năng để tập trung cho các nguồn lực hướng về mục tiêu kinh tế - xã hội cao nhất như công nghiệp hoá, hiện đại hoá và các chương trình kinh tế lớn khác. Sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung và việc thực hành đường lối CNTBNN nói riêng ở nước ta phải được đặt trong cục diện chung của thế giới từ đó nhận thức được những thuận lợi và khó khăn.
Những nét đặc trưng mới của thời đại đã tạo ra những khó khăn, những thuận lợi mới trong việc thực hành CNTBNN ở nước ta khác với thời Lê nin. Nét nổi bật nhất hiện nay là sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ ở cuối thế kỷ XX đến nay đã mang đến những đảo lộn lớn lao trong mọi mặt của đời sống, kinh tế - chính trị. Vì quá trình đang diễn ra, cho nên khó có thể khẳng định kết cục sẽ như thế nào, song những biến đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống, kể cả lĩnh vực tư duy là điều cần khẳng định. Đó là một sức mạnh của thời đại. Sức mạnh này có thể đưa một nền kinh tế kém phát triển cất cánh lên một cách nhẹ nhàng nếu nước đó biết nắm bắt thời cơ và biết đi đúng hướng phát triển của thời đại. Trái lại sức mạnh đó cũng có thể trở thành cơn bão tố vùi lấp thảm hại những cái gì đi ngược lại hoặc tự tách mình khỏi xu thế chung, không biết đến những quy luật chung của nền kinh tế hiện nay. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày nay tạo ra cho đất nước ta thời cơ lẫn thách thức.
Với xu thế đối thoại và hợp tác, trong cục diện vừa hợp tác vừa đấu tranh, đất nước ta có được hoàn cảnh thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trong đó có sự “du nhập” CNTB từ bên ngoài, từ các nước tư bản phát triển. Mặc dù vậy chủ nghĩa đế quốc vẫn chưa từ bỏ ý định xiết chặt vòng vây kinh tế, chưa từ bỏ mưu toan “diễn biến hoà bình” đối với nước ta bằng mọi thủ đoạn.
Nước ta nằm ngay giữa khu vực phát triển năng động nhất của thế giới ngày nay, do vậy chỉ cần có một chính sách hợp tác khu vực đúng đắn cùng với một chính sách quốc tế mền dẻo, chúng ta có thể thu hút được vốn đầu tư nước ngoài từ những hình thức khác nhau của CNTBNN.
Với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trong một nền sản xuất toàn cầu hoá, trong một nền kinh tế thế giới đang chuyển hoá thành một thể thống nhất, tính phụ thuộc giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng lên. Điều đó cũng tạo ra một số thuận lợi nhất định cho chúng ta trong việc thu hút những kỹ thuật và các nguồn vốn gắn với kỹ thuật từ các nước tư bản phát triển về công nghiệp. Nhưng đây chỉ là một cơ hội thuận lợi vì nếu việc nắm cơ hội không đúng thì sẽ đưa đến một sự lạc hậu về kinh tế kỹ thuật hoặc một sự lệ thuộc mới, một kiểu chủ nghĩa thực dân mới: sự phụ thuộc về kỹ thuật và công nghệ.
Đất nước ta có sức thu hút đối với tư bản nước ngoài. Nước ta có một số tài nguyên quý giá, là một thị trường không nhỏ. Đặc biệt là sự ổn định chính trị là cái mà người nước ngoài có thể tin cậy trong việc đầu tư lâu dài.
Đồng thời chúng ta cũng đang đứng trước những khó khăn hết sức to lớn: chỉ nguyên với thực trạng một nước nghèo, kém phát triển, bên ngoài đang bị chính sách bao vây cấm vận đè nặng chúng ta đang ở vị trí xuất phát không thuận lợi trong cuộc chạy đua kinh tế. Bên cạnh đó hiện nay CNXH đang ở vào thế bất lợi trong cuộc đấu tranh với nội dung mới và hình thức mới giữa CNTB và CNXH vì CNXH thế giới trước đây lạc hậu so với yêu cầu của sự phát triển. Đó là sự lạc hậu về năng suất lao động, về chất lượng sản phẩm, về tiến bộ kỹ thuật.
Mặc dù nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường song sự chuyển biến ấy lại xuất phát từ một nền kinh tế chủ yếu là tự nhiên, tự cung cấp, hiện vật do vậy chưa có thói quen “làm ăn kiểu buôn bán”, thiếu tri thức và đội ngũ kinh doanh hiện đại. Mặc dù đất nước ta có một số tài nguyên có sức hấp dẫn đối với người nước ngoài song trước sự tác động của cách mạng khoa học thì các nước buộc phải lao vào ngành kỹ thuật cao do đó chúng ta vấp phải vấn đề vốn và đội ngũ khoa học kỹ thuật không có hoặc yếu kém.
Một khó khăn nữa là sự chống phá con đường đi lên CNXH ở nước ta của các thế lực phản động trong và ngoài nước. Những mặt trái của quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trương, thực hiện CNTBNN là những vấn đề xã hội hết sức phức tập, đến mức có thể gây ra sự bất bình của một tầng lớp dân cư nào đó trước sự dung nạp, du nhập CNTB. Mặt trái của nó có thể biểu hiện bởi sự xâm lăng của các tập đoàn tư bản nước ngoài đối với thị trường nội địa dẫn tới co hẹp hoặc bóp nghẹt thị phần của sản xuất trong nước. Đó cũng có thể là một tâm lý phụ thuộc kinh tế nước ngoài ngày càng gia tăng mà thường sẽ dẫn hậu quả khủng hoảng nếu nước ngoài cắt các khoản đầu tư.
Nhìn chung lại, việc thực hành CNTBNN ở nước ta sẽ có cả thuận lợi và khó khăn. Nhưng trước mắt khó khăn sẽ không nhỏ.
2.2. Các hình thức kinh tế TBNN vận dụng ở Việt nam
Xét về phương diện vật chất, kinh tế nước ta hiện nay, ở mức độ nhất định, cũng như nước Nga thời NEP, chưa có điều kiện để trực tiếp xây dựng CNXH. Vì vậy, chúng ta cần suy nghĩ thấu đáo quá trình đi lên CNXH thông qua CNTBNN. Từ quan điểm của Lê nin và căn cứ vào thực tiễn của nước ta, trong bối cảnh hiện nay, có thể xác định các hình thức CNTBNN cần vận dụng ở nước ta là:
2.2.2.Liên doanh, liên kết giữa nhà nước với các nhà tư bản trong nước
Trước đây, hình thức này được gọi là công tư hợp doanh nhưng chúng ta mới chỉ áp dụng một cách hạn chế với chủ trương cốt để cải tạo XHCN nhằm sớm đi đến xoá bỏ kinh tế tư bản tư nhân. Nay, trên cơ sở quan điểm thừa nhận các thành phần kinh tế còn tồn tại và phát triển lâu dài trong thời kỳ quá độ lên CNXH, hình thức này cần được sử dụng và phát triển đa dạng hơn.
Để phát huy sức mạnh của thành phần kinh tế này, bên cạnh việc tạo điều kiện cho kinh tế tư bản tư nhân phát triển cần khuyến khích họ liên doanh, liên kết với kinh tế nhà nước qua đó mà tăng vốn, đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, tăng sức cạnh tranh và tăng khả năng hợp tác với nước ngoài.
2.2.2. Tô nhượng và liên doanh giữa nhà nước với các tư bản và các tổ chức kinh tế nước ngoài
Lê nin rất coi trọng việc sử dụng các chuyên gia tư sản nước ngoài vào phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Hình thức tô nhượng được Lê nin coi là rành mạch và dễ hiểu nhất để sử dụng các chuyên gia tư sản.
Ngày nay, theo kinh nghiệm các nước, việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới hình thức liên doanh và công ty 100% vốn nước ngoài (thực chất là một kiểu tô nhượng ) là hấp dẫn và có hiệu quả hơn so với việc vay vốn và tiếp nhận viện trợ của các nước trong quá trình hiện đại hoá nền kinh tế. Thông qua các hình thức này, nhà nước thu hút và cho phép các nhà tư bản và công ty nước ngoài đầu tư vào trong nước để phát triển sản xuất kinh doanh. Hiện nay ở nước ta, các hình thức này đang được triển khai tích cực.
2.2.3. Cho thuê kinh doanh
Thông qua đấu thầu một số cơ sơ vật chất của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, thực hiện các hợp đồng ký kết giữa nhà nước ta với các nhà tư bản trong và ngoài nước để triển khai hình thức này. So với tô nhượng, hình thức này khác ở hai điểm: Thời gian hợp đồng thường ngắn hơn, và đối tượng cho thuê kinh doanh không phải chủ yếu là quyền sử dụng đất mà chủ yếu là hầm mỏ, rừng, cửa hàng... Thông qua phát triển hình thức này mà mở rộng một số ngành và lĩnh vực kinh tế, đồng thời nhà nước có điều kiện để tập trung vốn vào các ngành, lĩnh vực trọng yếu, then chốt nhằm tăng cường vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.
2.2.4. Đại lý kinh danh
Hình thức này áp dụng ở các ngành kinh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50023.doc