Trong lý luận hàng hóa sức lao động có thể thấy thị trường sức lao động với quan hệ cung cầu về lao động và giá cả hàng hóa sức lao động chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu,.
Việc phát triển thị trường sức lao động nước ta trong thời gian qua đã thu được những thành quả nhất định, làm cơ sở cho việc hoàn thiện quan hệ lao động, phát triển kinh tế-xã hội. Nhưng nước ta đang trong thời kỳ quá độ, hơn nữa nước ta là một nước nông ngiệp lạc hậu và đã trải qua nhiều năm chiến tranh trình độ lao động còn thấp kém. Hiện nay mới bước vào những năm đầu tiên của thời kỳ mới- thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước vì vậy lao động nước ta đang mang những sắc thái đặc thù, gắn chặt với trình độ phát triển của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Về mặt phát triển kinh tế nước ta đang chuyển từ sản xuất hàng hóa giản đơn lên sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa có vận dụng những thành tựu của sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa.
7 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 20418 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Sự vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động của C.Mác vào thị trường hàng hóa sức lao động ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Theo C.Mác hàng hóa sức lao động chỉ hình thành sau khi chủ nghĩa tư bản tiến hành cuộc cách mạng về công nghệ sản xuất, nhằm xây dựng một nền sản xuất đại công nghiệp. Nước ta là một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa tức là tiến tới xây dựng một nền đại công nghiệp với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất vì thế thị trường hàng hóa sức lao động nước ta cũng đang trên đà phát triển để đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi của nền kinh tế hiện nay. Vậy muốn biết thị trường lao động nước ta hiện nay đang phát triển theo chiều hướng nào:tích cực hay tiêu cực thì chúng ta phải đối chiếu thực tế thị trường lao động nước ta với lí luận về thị trường hàng hóa sức lao động của chủ nghĩa Mác-Lênin.
NỘI DUNG
I Lý luận về hàng hóa sức lao động của C.Mác
1 Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa.
Theo C.Mác: “sức lao động, đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể một con người,trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”
Trong bất cứ xã hội nào,sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất nhưng không phải trong bất kì điếu kiện nào, sức lao động cũng trở thành hàng hóa.Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa trong những điều kiện lịch sử sau đây:
Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của mình tức là có khả năng chi phối sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa.
Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, tức là họ không còn tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình thực hiện lao động và cũng không của cải nào khác, họ trở thành người “vô sản”, để tồn tại buộc người đó phải bán sức lao động của mình để sống.
2 Hai thuộc tính cơ bản của hàng hóa sức lao động
Giống như hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.
a Giá trị của hàng hóa sức lao động
Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định. Nhưng sức lao động của công nhân có hạn, nó chỉ tồn tại như năng lực sống của con người. Vì vậy muốn tái tạo lại sức lao động công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định về ăn, mặc, ở, học nghề... Ngoài ra, người lao động còn phải thỏa mãn những nhu cầu của gia đình và con cái họ nữa. Thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất sức lao động sẽ được quy thành thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt hay nói cách khác giá trị sức lao động được quy về giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của công nhân làm thuê và gia đình họ.
Tuy nhiên, giá trị hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ nó bao hàm cả yếu tố lịch sử, tinh thần. Nhưng đối với mỗi quốc gia và một thời kỳ nhất định thì quy mô những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định do đó có thể xác định được lượng giá trị hàng hóa sức lao động do những bộ phận sau đây hợp thành:
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động, duy trì đời sống cá nhân để tái sản xuất sức lao động,duy trì đời sống của bản thân người công nhân.
Hai là,phí tổn đào tạo người công nhân.
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái, gia đình người công nhân.
b Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động thể hiện ở quá trình tiêu dùng sức lao động tức là quá trình lao động của công nhân để sản xuất ra một hàng hóa, một dịch vụ nào đó. Nhưng quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa sức lao động khác với quá trình tiêu dùng hàng hóa thông thường ở chỗ: hàng hóa thông thường sau quá trình tiêu dùng hay sử dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời gian, trái lạitrong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, phần dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể sinh ra giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó chính là đặc điểm riêng có của giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động.
II Sự vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động của C.Mác vào thị trường hàng hóa sức lao động ở Việt Nam hiện nay
1 Thực trạng
Trong lý luận hàng hóa sức lao động có thể thấy thị trường sức lao động với quan hệ cung cầu về lao động và giá cả hàng hóa sức lao động chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu,...
Việc phát triển thị trường sức lao động nước ta trong thời gian qua đã thu được những thành quả nhất định, làm cơ sở cho việc hoàn thiện quan hệ lao động, phát triển kinh tế-xã hội. Nhưng nước ta đang trong thời kỳ quá độ, hơn nữa nước ta là một nước nông ngiệp lạc hậu và đã trải qua nhiều năm chiến tranh trình độ lao động còn thấp kém. Hiện nay mới bước vào những năm đầu tiên của thời kỳ mới- thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước vì vậy lao động nước ta đang mang những sắc thái đặc thù, gắn chặt với trình độ phát triển của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Về mặt phát triển kinh tế nước ta đang chuyển từ sản xuất hàng hóa giản đơn lên sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa có vận dụng những thành tựu của sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Yếu tố cơ bản để phân biệt sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa với sản xuất hàng hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa là khả năng phát huy vai trò tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân của hàng hóa sức lao động. Đây là vấn đề then chốt trong việc vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động của C.Mác để có thể xây dựng một quan hệ lao động tốt đẹp hơn.
Nền kinh tế thị trường nước ta vận động và phát triển gắn liền với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa vì vậy khi vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động vào thị trường lao động nước ta chính là giải quyết vấn đề nguồn lao động chất lượng cao cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Mặt khác, trong nền xu thế hội nhập quốc tế nền kinh tế các nước phát triển là nền kinh tế tri thức. Đây là nền kinh tế đòi hỏi trí tuệ cao vì vậy người lao động phải biết nắm bắt và xử lí nhanh nhạy đặc biệt là trong ngành công nghiệp mới vì vậy cần nâng cao giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động. Tuy nhiên quá trình nhận thức và vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động của C.Mác vẫn còn những giới hạn nhất định, chưa đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình toàn cầu hóa kinh tế cụ thể là: về giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động còn thấp hạn chế phần nào sự cạnh tranh của nước ta trên thị trường thế giới, giá trị hàng hóa sức lao động còn bất cập, chưa bao quát hết những yếu tố đáp ứng yêu cầu tái sản xuất mở rộng sức lao động cho một bộ phận lớn những người làm công ăn lương, hệ thống thông tin lao động việc làm chưa được quản lí chặt chẽ, hệ thống giáo dục-đào tạo chưa đủ khả năng cung ứng nguồn lao động chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
Theo quan điểm của C.Mác cần phải chăm lo cho công nhân và người thân của họ, về việc này thì nước ta cũng đã làm được: đời sống công nhân ngày càng được nâng lên nhất là về đời sống tinh thần công nhân được Công Đoàn tổ chức các hoạt động giao lưu văn nghệ, trao đổi kinh nghiệm lao động, khuyến khích, khen thưởng các công nhân có thành tích tốt trong lao động, có nhiều sáng kiến trong việc sản xuất...Đời sống của người thân công nhân cũng được chú trọng hơn. Trong các khu công nghiệp, đã xây dựng các trường học cho con em các công nhânnhư các trường mầm non, nhà giữ trẻ, khu vui chơi dành cho thiếu nhi...Đời sống của công nhân và người thân của họ được đáp ứng đầy đủ hơn về các dịch vụ khác. Việc làm này giúp cho công nhân có thể yên tâm làm việc, cống hiến hết mình cho công việc
Nhà nước ta cũng nhận thức rõ tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực, trình độ cho người công nhân. Ngày càng có nhiều trường đào tạo nghề được thành lập nhằn phục vụ cho việc học nghề của nhân dân và nâng cao tay nghề của công nhân. Các nhà máy, xí nghiệp cũng tạo điều kiện cho công nhân nâng cao trình độ của mình như cử một số công nhân đi học tiếp thu khoa học kĩ thuật tiên tiến, tổ chức các lớp tập huấn cho công nhân, nhằm nâng cao tay nghề từ đó tăng năng suất lao động.
Tuy nhiên, thị trường lao động nước ta vẫn còn nhiều điểm hạn chế. Lực lượng công nhân Việt Nam dù là dồi dào nhưng tay nghề chưa cao lao động chủ yếu bằng cơ bắp, ít lao động trí óc. Mặc dù các trung tâm, các trường đào tạo nghề được thành lập nhiều nhưng có một số cơ sở vẫn hoạt động không có hiệu quả công nhân học xong không thể làm việc có hiệu quả, hơn nữa chi phí học tập còn cao nên không phải ai cũng có điều kiện để có thể theo học được. Công nhân và gia đình họ cũng còn gặp khó khăn trong việc thỏa mãn các nhu cầu cá nhân chính đáng của mình như khó tiếp cận với các dịch vụ, việc đăng kí học cho con cái. Và một điều đáng lưu ý đó là lao động nước ta tập trung chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp. Cụ thể theo FAO số lao động 2010 của nước ta trong nông nghiêp là 29,63 triệu trong tổng số 46,91 triệu lao động ở Việt Nam. Trong giai đoạn 2005-2010 mức tăng toàn bộ lực lượng lao động là 1,9%/năm trong đó nông nghiệp là 1,22%/năm. Cơ cấu nông nghiệp tính bằng phần trăm của tổng lao động vẫn ở mức cao và giảm rất chậm từ 69,37% năm 1995 giảm xuống 67,33% năm 2005 và đến năm 2010 là 63,17%. Nói cách khác, suốt các thời kỳ này cơ cấu lao động nông nghiệp nước ta giảm cao nhất ở mức 0,66%/năm.
2 Nguyên nhân
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do nền kinh tế nước ta còn lạc hậu nên công nhân cũng hạn chế về tay nghề vì họ xuất thân từ nông dân nên tính kỉ luật chưa cao, manh mún, nhỏ lẻ. Các cơ sở đào tạo nghề hoat động chưa có hiệu quả và chi phí học nghề còn cao. Chúng ta chưa vận dụng được các phương tiện thông tin đại chúng để giới thiệu việc làm, trở thành trung gian giữa người sử dụng lao động và người lao động, là nơi phản ánh những hạn chế và ưu điểm của thị trường hàng hóa sức lao động. Những quy định của nhà nước về thi trường lao động vẫn còn những hạn chế nhất định. Việc chi trả tiền lương còn thiếu sự công bằng, bình đẳng giữa các công nhân. Nhiều cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp chưa đủ điều kiện để xây dựng các khu vui chơi, giải trí cho công nhân và người thân của họ do thiếu vốn đầu tư.
3 Giải pháp
Để khắc phục tình trạng trên và đưa thị trường lao động Việt Nam phát triển ổn định thì chúng ta phải thực hiện một số biện pháp sau.
Khi vận dụng lí luận hàng hóa sức lao động phải phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế và xu hướng phát triển của nền kinh tế tri thức. Tôn trọng nhân cách, phát huy vai trò làm chủ, năng động sáng tạo, tinh thần yêu nước, yêu dân tộc của người lao động. Vận dụng lí luận hàng hóa sức lao động phải gắn liền với việc hình thành đội ngũ lao động có trình độ và cơ cấu hợp lí đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề tay nghề về mọi mặt của người lao động, tạo cho họ những khả năng lao động tự giác và sáng tạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Tổ chức tốt việc đào tạo, bồi dưỡng tại trường, tại chức và nhiều hình thức phương pháp khác để nâng cao tay nghề, mở rộng đào tạo nghề: bồi dưỡng nhiều người giỏi về khoa học công nghệ, kinh doanh, về quản lí kinh tế - xã hội. Trước mắt cần giáo dục mọi người yêu quý lao động, yêu quý nghề nghiệp, lao động có kỉ luật, chống mọi thói xấu lười biếng ỷ lại, khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi người tự tìm tòi, tự tạo việc làm cho mình và cho người khác.
Cần phải chú trọng công tác chăm lo cho các nhu cầu vật và tinh thần cho công nhân và gia đình họ vì khi làm tốt vấn đề này thì người công nhân mới toàn tâm toàn ý cho công việc. Chú trọng về chính sách tiền lương, tạo các khu vui chơi giải trí có chất lượng và hoạt động có hiệu quả, tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động đoàn thể cho công nhân.
Thúc đẩy giao dịch trên thị trường lao độngbằng các hình thức như phát triển hệ thống thông tin, giới thiệu việc làm, tăng cường quản lí của nhà nước, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, hoàn thiện hệ thống pháp luật về thị trường lao động, hoàn thiện bộ máy quản lí và vận hành nó có hiệu quả. Thay đổi cơ cấu lao động, hạn chế thành phần lao động ở lĩnh vực nông nghiệp.
KẾT LUẬN
Mặc dù thị trường hàng hóa sức lao động Việt Namnhững năm gần đây phát triển mạnh nhưng vẫn còn nhiều vấn đề bất cập với lại thị trường hàng hóa nước ta đang trên đà phát triển với nguồn lực lao động trẻ và dồi dào hiện nay thì sự vận dụng lý luận về hàng hóa sức lao động của C.Mác vào việc phát triển thị trường hàng hóa sức lao động là một việc làm hết sức cần thiết vì lý luận của C.Mác là cơ sở, tiền đề, là định hướng cho sự phát triển thị trường hàng hóa sức lao động một cách ổn định, bền vững. Muốn vận dụng được lý luận đó thì không những phải nắm vững lý luận đó mà còn phải nhận thức một cách đúng đắn, không hiểu sai lệch vấn đề. Có như thế thì thị trường lao động Việt Nam mới có thể phát triển mạnh, nhanh và bền vững được.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập mác K36- Sự vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động của CMác vào thị trường hàng hóa sức lao động ở Việt Nam hiện nay.doc