Trong những năm gần đây, vấn đề xã hội dân sự được giới nghiên cứu lý luận quan tâm, chú ý. Nhiều ý kiến cho rằng, trong thời đại ngày nay, xã hội dân sự là một trong ba khu vực cơ bản của xã hội, là “một đỉnh của tam giác” phát triển xã hội. Theo đó, kinh tế thị trường là điều kiện cần thiết cho sự phát triển, nhà nước pháp quyền là yếu tố quyết định trực tiếp đến sự phát triển và xã hội dân sự đảm bảo cho sự phát triển cân bằng và bền vững của xã hội.
Nội dung, phạm vi và các yếu tố cấu thành của xã hội dân sự hiện vẫn được hiểu theo nhiều cách khác nhau, nhưng nội dung cốt lõi nhất của nó chính là hệ thống các tổ chức xã hội của công dân được gắn kết bởi những nhu cầu, lợi ích chung, các giá trị hoặc truyền thống chung để tiến hành nhiều hoạt động khác nhau nhằm phối hợp với nhà nước, bổ sung cho những khiếm khuyết của nhà nước, đảm bảo sự ổn định, cân bằng và phát triển bền vững của xã hội. Xã hội dân sự là một khu vực “phi nhà nước”, bao gồm các liên hiệp, hiệp hội, hội, tổ chức cộng đồng, nhóm tình nguyện, tổ chức phi chính phủ, thực hiện các chức năng, vai trò xã hội hoặc mục đích nghề nghiệp, từ thiện, nhân đạo nhất định; hoạt động chủ yếu dựa trên tính tự chủ về tài chính, tự quản trong tổ chức quản lý và sự tự nguyện của các thành viên, hội viên với mục tiêu phi lợi nhuận, đa dạng về hình thức tổ chức, phong phú về mục tiêu cụ thể.
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3216 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Sự xuất hiện, phát triển và nhận thức về vai trò của Xã hội dân sự ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lại tất cả”], cho rằng nhà nước có sứ mệnh khắc phục trạng thái đó bằng cách thiết lập một sự thỏa thuận giữa tất cả các thành viên của xã hội. Xã hội dân sự nảy sinh trên cơ sở thỏa thuận ấy được coi là đồng nghĩa với nhà nước và luật pháp do nhà nước đặt ra.
Đến thế kỷ XVIII, J. J. Rousseau, một trong những nhà Khai sáng xuất sắc nhất, đã phát triển quan điểm của Hobbes. Đối với ông, con người vì mất đi sự tự do tự nhiên của mình và cũng vì sợ mất đi cả các quyền tự nhiên của mình nên đã đi tới một khế ước xã hội. Nhờ có sự liên hiệp này mà người ta thống nhất lại với nhau trên cơ sở phục tùng những thể thức chung, nhưng mỗi người vẫn có tự do như trước đây.
T. Hobbes, J. Locke, J. J. Rousseau, Montesquieu đều có chung quan điểm là tự do cá nhân của con người độc lập với nhà nước. Chẳng hạn, theo Locke, xã hội có trước nhà nước, nó tồn tại một cách “tự nhiên”, còn nhà nước là một “vật mới”. Nếu nhà nước vì một lý do nào đó bị xóa bỏ đi thì xã hội vẫn được duy trì bằng tất cả các luật và quyền tự nhiên của nó. Người dân hợp thành xã hội, nó là tối thượng và khi thiết lập nhà nước, tuy tính tối thượng chuyển sang nhà nước nhưng nhà nước không thể nuốt mất xã hội. Hơn thế nữa, mục đích chủ yếu của nhà nước là bảo vệ xã hội. Do đó, nhà nước không thể thay thế được xã hội, chính là nhờ có xã hội mà nhà nước có thể hoạt động được.
Cả Hobbes, Locke, Montesquieu và Rousseau đều cho rằng dân chủ chỉ có thể nảy nở trên một sự thỏa thuận mang tính khế ước giữa công dân và nhà nước, về việc hạn chế và phân chia quyền lực nhà nước để quyền lực ấy thực chất thuộc về nhân dân. Chừng nào, sự thỏa thuận ấy bị phá vỡ, chừng ấy nhân dân có quyền xác lập một khế ước mới bằng nhiều cách khác nhau, và đó cũng hoàn toàn là quyền tự nhiên của con người.
Mở đầu Khế ước xã hội, Rousseau đã phải thốt lên đau đớn rằng, “con người sinh ra là tự do, vậy mà ở khắp nơi, con người lại bị cùm kẹp”. Do vậy, cách tốt nhất để lấy lại sự tự do như là quyền tự nhiên của con người đó chính là việc cần phải tổ chức thiết chế xã hội sao cho quyền tự nhiên ấy không bị xâm phạm và tước đi một cách tùy tiện từ phía nhà nước và bộ máy công quyền.
Đối với Hobbes và Rousseau đó là sự thỏa thuận bằng khế ước xã hội, đối với Locke và Montesquieu, đó là sự phân chia quyền lực nhà nước một cách độc lập và chế ước lẫn nhau. Do đó, dân chủ gắn liền với nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Nền dân chủ không thể sản sinh trong một xã hội mà ở đó nguyên tắc cai trị do các cá nhân tùy tiện và thao túng. Trái lại, dân chủ là kết quả trong một xã hội được tổ chức, thiết chế, và vận hành trên nguyên tắc luật pháp và phân chia quyền lực, cũng như có sự tham gia mạnh mẽ của các thiết chế phi chính trị và phi nhà nước đóng vai trò là lực lượng xã hội đối trọng nhằm giám sát và cân bằng với thiết chế chính trị và nhà nước trong việc thực thi dân chủ.
Hegel - Nhà triết học Đức vĩ đại đầu thế kỷ XIX - đã tiếp nhận và hệ thống hóa tư tưởng xã hội - chính trị của Pháp, Anh, Mỹ và Đức trong vấn đề này. Tác phẩm Triết học pháp quyền của ông đã chứng minh rằng xã hội dân sự là một giai đoạn phát triển lịch sử mà đỉnh cao của nó là sự xuất hiện nhà nước hiện đại. Nói chính xác hơn, Hegel coi xã hội dân sự là một giai đoạn đặc biệt trong sự vận động biện chứng từ gia đình đến nhà nước, diễn ra trong quá trình biến đổi lịch sử phức tạp và lâu dài từ Trung Cổ đến Cận đại. Theo ông, đời sống xã hội hoàn toàn khác với đời sống đạo đức của gia đình và cũng khác với đời sống công cộng của nhà nước. Nó là một yếu tố cần thiết trong toàn bộ cộng đồng chính trị được tổ chức một cách hợp lý. Theo Hegel, kinh tế thị trường, các giai cấp xã hội, các nghiệp đoàn, các định chế có nhiệm vụ bảo đảm sức sống của xã hội và thực hiện các quyền công dân. Như vậy, xã hội dân sự là tập hợp của những tư nhân, tầng lớp, những nhóm và những định chế mà sự tác động qua lại của chúng được điều chỉnh bằng qui tắc của dân luật và với tư cách đó, nó không phụ thuộc trực tiếp vào nhà nước chính trị.
K. Marx, trong các tác phẩm đầu tay, đặc biệt trong Hệ tư tưởng ÐĐức và vấn đề Do Thái, đã bàn nhiều về xã hội dân sự. Một mặt, kế thừa những luận điểm “hợp lý” của Hegel; mặt khác, ông phê phán Hegel một cách quyết liệt. Cũng như Hegel, ông từng coi xã hội dân sự là một hiện tượng lịch sử, là kết quả của sự phát triển lịch sử mà không phải là “vật ban tặng” của tự nhiên. Và cũng như Hegel, ông coi xã hội dân sự có tính chất tạm thời. Sự khác nhau cơ bản giữa Marx và Hegel là điểm xuất phát khi phân tích về bản chất của xã hội dân sự và nhà nước, về những quan hệ giữa xã hội dân sự với nhà nước. Trong khi Hegel lấy “tinh thần phổ biến” và “ý niệm tuyệt đối ” làm điểm xuất phát thì Marx lấy đời sống hiện thực, trước hết là phương thức sản xuất của xã hội, làm điểm xuất phát. “Sự giải phóng chính trị là đưa con người, một mặt, trở thành thành viên của xã hội thành cá nhân vị kỷ và độc lập, và mặt khác, trở thành công dân, thành cá nhân đạo đức”. Ông cho rằng chỉ khi nào sức mạnh con người được tổ chức thành sức mạnh xã hội và chính trị, khi đó sự giải phóng con người mới hoàn thành.
Sau một giai đoạn dường như bị “chìm” đi, hoặc có chăng, cũng chỉ là sự nghiên cứu mang tính tản mạn của các nhà khoa học, thời gian gần đây, khái niệm xã hội dân sự như được “hồi sinh” và là một phương cách trung tâm để lý giải các quá trình chính trị - xã hội diễn ra ở khắp nơi trên thế giới, kể cả các nước phương Tây cũng như các nước phương Đông.
Quá trình dân chủ hóa ở các nước phát triển phương Tây đã đi tới một giai đoạn mới: chế độ dân chủ đại diện đang mất đi sức sống và những tiền đề cho một chế độ dân chủ trực tiếp, dân chủ tham gia đang dần dần xuất hiện. Khách quan mà nói, dân chủ đại diện là một thành quả rất lớn của dân chủ, của sự phát triển xã hội về mặt chính trị và bản thân chế độ dân chủ đại diện cũng chính là một trong nhũng thành quả to lớn của xã hội dân sự, nhưng đến giai đoạn này, do nhiều lý do khác nhau, nó bắt đầu xơ cứng, kém hiệu lực. Ở một mức độ nào đó, trở thành kém dân chủ, thậm chí trở thành tấm “bình phong” và là công cụ của các nhà tư bản. Sự quan liêu trong bộ máy nhà nước không những không giảm mà còn có xu hướng tăng lên. Mặt khác, đời sống chính trị - xã hội càng phức tạp, nhà nước tư sản càng phải đặt ra nhiều qui định vi phạm quyền tự do dân chủ. Đặc biệt trong thời gian gần đây, với danh nghĩa chống bạo loạn, khủng bố, nhiều nhà nuớc tư sản ban hành các qui định, có thể nói là vi phạm nghiêm trọng các quyền con người, quyền công dân.
1.2.Xã hội dân sự xuất hiện ở Việt Nam.
Việt Nam có Xã hội dân sự chưa?
Xã hội dân sự là xã hội của tổ chức. Phải chăng trên một ý nghĩa như vậy ở Việt Nam đã có Xã hội dân sự rồi. Thời Bác hồ đã có quy định về lập hội. Nhà nước của dân… là thừa nhận đã có Xã hội dân sự rồi. Nếu hiểu Xã hội dân sự theo nghĩa đầy đủ, thì chúng ta mới có ở mức sơ khai, còn khi nào có nhà nước pháp quyền thật sự thì Xã hội dân sự mới phát triển. Không có nhà nước pháp quyền mạnh không có Xã hội dân sự mạnh và ngược lại. Cũng nên hiểu như giữa Xã hội dân sự và kinh tế thị trường.
Xã hội dân sự trên thế giới có từ rất lâu nhưng ở Việt Nam, khái niệm này còn mơ hồ mà có lý do khách quan là Việt Nam trải qua chiến tranh nhiều năm nên mối quan hệ dân sự trong xã hội bị giảm sút. Tuy nhiên, XHDS bây giờ đang nổi lên hỗ trợ cho nhà nước mà ta thường hiểu là chủ trương “xã hội hóa”.
Ở nước ta với đặc thù tiến lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa , bởi vậy , chúng ta không có cơ hội thừa hưởng những “gia tài” do CNTB để lại . Một trong những “thiệt thòi” lớn nhất đối với chúng ta là quan hệ phong kiến, những quan hệ này đáng lí đã bị CNTB loại bỏ, song trên thực tế vẫn tồn tại dai dẳng và níu kéo, cẩn trở chúng ta trên con đường phát triển và hội nhập quốc tế. Bởi thế, từ trong nhận thức và trong thực tiễn, quá trình xây dựng chế độ Nhà nước pháp quyền còn gặp nhiều trở ngại, khó khăn. Tương ứng với nó là việc nhận thức và xây dựng Xã Hội dân sự cũng không ít những cản trở.
Ở nước ta quá trình xây dựng XHDS còn nhiều bất cập, tự phát. Có nhận xét rằng dân sự mà không hoàn toàn dân sự, dân chủ nhưng không hoàn toàn dân chủ, không dộc quyền mà độc quyền. Từ nhà nước, kinh tế thị trường với những nhược điểm của nó mà xuất hiện XHDS. Nhưng XHDS ở Việt Nam đã xuất hiện tự phát. Chúng ta chưa ai có đủ khung pháp lý và không gian cho xã hội dân sự hình thành tự giác.
2. Sự phát triển Xã hội dân sự ở Việt Nam.
Từ những năm 90 của thế kỉ XX trên phạm vi toàn cầu, cùng với việc tăng lên đáng kể vai trò của nhà nước trong đời sống xã hội, vai trò của các CSO cũng ngày càng được khẳng định, đặc biệt trong thực hiện hóa các mục tiêu phát triển thiên niên kỉ. Phối hợp cùng với nhà nước, CSO hoạt động thực sự có hiệu quả trong việc thực hiện các mục tiêu xóa đói giảm nghèo, thực hiện sự bình đẳng giới, tăng tính minh bạch dân chủ và nhất là khuyến khích sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định và thực thi các chính sách phát triển kinh tế- xã hội.
Ở Việt nam, từ sau ngay miền nam hoàn toàn giải phóng, nhà nước thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, cùng với mặt trận và các đoàn thể quần chúng, các nhóm và các các tổ chức xã hội nghề nghiệp hợp thành các CSO đã và đang đóng vai trò ngày càng tăng trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa, đặc biệt trong việc thực hiện quyền dân chủ nhân dân.
Từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, bắt đầu từ đổi mới tư duy chính trị, việc nhìn nhận và đánh giá các tổ chức chính trị xã hội cũng ngày càng cởi mở và thực chất hơn. Và do đó CSO cũng có cơ hội phát triển và phát huy vai trò to lớn của mình không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, chính trị.
Mặc dù, ở Việt nam, các tổ chức có thể gọi là xã hội dân sự đã có từ trong xã hội truyền thống ( dòng họ, phường hội, nghề nghiệp …) song quan niệm về thuật ngữ này không phải rõ ràng và xác thực mà trải qua một quá trình thay đổi về nội hàm khái niệm, cách diễn giải. Nhờ quá trình đổi mới, xã hội dân sự từ chỗ là một thuật ngữ, các tổ chức xã hội dân sự như NGO, NPO ra đời và tăng lên nhanh chóng về số lượng. Có thể nói quá trình hình thành và phát triển của xã hội dân sự ở Việt nam diễn ra trong bối cảnh môi trường ngày càng được thuận lợi hơn bởi sự ra đời của hệ thống luật hỗ trợ ( Luật Doanh nghiệp, Nghị định dân chủ, Nghị định về hội, … ), sự phát triển nhanh chóng của kĩ thuật thông tin mạng, sự hội nhập nghiên cứu về lĩnh vực này. Có thể nói, tính đặc thù của xã hội dân sự ở Việt nam là các tổ chức xã hội dân sự đều có liên quan phụ thuộc trực tiếp và gián tiếp với Đảng và nhà nước.
Nước ta có 6 tổ chức mà đảng cầm quyền và tuy nhà nước chi phối trực tiếp qua đường lối và kinh phái tài chính như Mặt trận tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ, Công đoàn, Hội nông dân, Hội nhà báo nhưng nó vẫn thuộc xã hội dân sự.
Ở Việt Nam ta xã hội dân sự trong quá trình hình thành của nó sẽ thể hiện thể hiện khá rõ mạnh:
- Thấm nhuần về mặt văn hóa cộng đồng, tính đoàn kết, tương trợ và tính đồng thuận xã hội, có mầm mống trong xã hội làng xã xưa.
- Trong xã hội thực dân phong kiến cũng hình thành nên những tổ chức xã hội, hoặc để đấu tranh chính trị hoặc để bảo vệ các quyền lợi xã hội trong đời sống bình thường trước các thế lực cường quyền.
- Nhưng xã hội học dân sự ở Việt nam ngày nay còn là xã hội trong thể chế một đảng cầm quyền, nhất nguyên chính trị nên xã hội dân sự ở đây có thể cơ cấu tổ chức chính trị xã hội trong xã hội dân sự và trong hệ thống chính trị sẽ mang tính trung gian 2 mặt.
- Xã hội dân sự ở Việt nam ngày nay sẽ là dựa trên nền kinh tế nhiều thành phần cả công và cả tư, định hướng xã hội chủ nghĩa, chứ không phải xã hội dân sự mang tính chất tư bản chủ nghĩa.
- Xã hội dân sự ở Việt nam cơ bản không mang tính đối kháng trong nó và với nhà nước. Tính đồng thuận và đoàn kêt xã hội của xã hội dân sự khá cao, nhưng các tiổ chức hoạt đỘng còn phân tán, tính pháp lý chưa đủ và cần thiết.
Ở nước ta, trong công cuộc đổi mới, cùng với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và dân chủ hoá đời sống xã hội, Nhà nước đã từng bước chuyển sang thực hiện chức năng định hướng, bảo trợ, tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi cho người dân được tự do phát triển sản xuất kinh doanh, tổ chức cuộc sống. Nhờ đó, khu vực xã hội dân sự ngày càng có điều kiện phát triển, quan hệ xã hội của người dân được tự do, cởi mở hơn; nhu cầu giao tiếp, liên hệ giữa các cá nhân có điều kiện được thoả mãn; tính tích cực xã hội của người dân, của các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ, các nhóm xã hội có tư cách pháp nhân và không có tư cách pháp nhân được phát huy mạnh mẽ, góp phần vào sự phát triển của đất nước
Mặt khác, xu thế đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ quốc tế đòi hỏi các quan hệ đối ngoại không chỉ được thực hiện theo con đường của Nhà nước, mà còn bằng các hình thức đối ngoại nhân dân thông qua các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ.
Hiện nay, ở nước ta, bên cạnh các đoàn thể nhân dân có truyền thống lịch sử gắn với quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, các hội, tổ chức phi chính phủ đã, đang được thành lập và hoạt động trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội với nhiều mô hình rất đa dạng, phong phú. Tính đến tháng 6 – 2005, đã có 320 hội hoạt động trên phạm vi toàn quốc, hơn 2.150 hội có phạm vi hoạt động tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và hàng chục vạn hội, tổ chức cộng đồng tự quản, tổ hoà giải có phạm vi hoạt động tại các quận, huyện, thị xã, thị trấn, xã, thôn, làng, ấp, bản… Đồng thời, hiện có khoảng 600 tổ chức phi chính phủ nước ngoài có quan hệ với Việt Nam, trong đó có gần 350 tổ chức có chương trình, dự án đối tác với Việt Nam. Nhiều tổ chức đang đề nghị Chính phủ Việt Nam cho lập các văn phòng đại diện, văn phòng dự án…
Ngoài các hội, tổ chức phi chính phủ được thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, còn có các hội quần chúng, tổ chức cộng đồng có tính truyền thống hoặc do người dân tự nguyện thành lập, không có tư cách pháp nhân (hay còn gọi là hội không chính thức), như tổ, nhóm tự quản, hội đồng hương… và các câu lạc bộ.
Để có thể thúc đẩy sự phát triển của xã hội dân sự ở nước ta hiện nay, trước hết cần nhận thức đúng về vai trò, vị trí của của các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3. Nhận thức về vai trò của xã hội dân sự hiện nay
Trong những năm gần đây, vấn đề xã hội dân sự được giới nghiên cứu lý luận quan tâm, chú ý. Nhiều ý kiến cho rằng, trong thời đại ngày nay, xã hội dân sự là một trong ba khu vực cơ bản của xã hội, là “một đỉnh của tam giác” phát triển xã hội. Theo đó, kinh tế thị trường là điều kiện cần thiết cho sự phát triển, nhà nước pháp quyền là yếu tố quyết định trực tiếp đến sự phát triển và xã hội dân sự đảm bảo cho sự phát triển cân bằng và bền vững của xã hội.
Nội dung, phạm vi và các yếu tố cấu thành của xã hội dân sự hiện vẫn được hiểu theo nhiều cách khác nhau, nhưng nội dung cốt lõi nhất của nó chính là hệ thống các tổ chức xã hội của công dân được gắn kết bởi những nhu cầu, lợi ích chung, các giá trị hoặc truyền thống chung để tiến hành nhiều hoạt động khác nhau nhằm phối hợp với nhà nước, bổ sung cho những khiếm khuyết của nhà nước, đảm bảo sự ổn định, cân bằng và phát triển bền vững của xã hội. Xã hội dân sự là một khu vực “phi nhà nước”, bao gồm các liên hiệp, hiệp hội, hội, tổ chức cộng đồng, nhóm tình nguyện, tổ chức phi chính phủ,… thực hiện các chức năng, vai trò xã hội hoặc mục đích nghề nghiệp, từ thiện, nhân đạo… nhất định; hoạt động chủ yếu dựa trên tính tự chủ về tài chính, tự quản trong tổ chức quản lý và sự tự nguyện của các thành viên, hội viên với mục tiêu phi lợi nhuận, đa dạng về hình thức tổ chức, phong phú về mục tiêu cụ thể.
Trong lịch sử, các hình thức liên hiệp đã xuất hiện từ xa xưa, thậm chí còn có trước khi xuất hiện nhà nước. Nhưng phải đến thời đại tư bản chủ nghĩa, khi mối quan hệ giữa các cộng đồng đó được xác lập trên cơ sở chính trị - pháp lý nhất định, lúc đó xã hội dân sự mới thực sự ra đời.
Ngày nay, kinh tế thị trường đã tỏ rõ ưu thế và trở thành khuynh hướng chủ đạo trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Mặc dầu vậy, nền kinh tế thị trường không phải là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi vấn đề của sự phát triển xã hội. Do bản chất của nó, kinh tế thị trường có những nhược điểm và giới hạn nhất định, nhất là trong các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường sống. Vì vậy, để khắc phục những hạn chế đó, cần phải có sự tham gia phối hợp của nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự.
Nhà nước pháp quyền trong xu thế phát triển ngày càng có tính phổ biến của nền chính trị hiện đại đã thể hiện những ưu thế, tính hiệu quả trong việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, dân chủ hóa xã hội. Nhưng, nhà nước cũng không phải là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi vấn đề của sự phát triển xã hội. Bản thân nhà nước pháp quyền cũng gặp phải những giới hạn và thách thức nhất định, như nguồn lực cần thiết để tổ chức và vận hành khá lớn, phải có những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định và việc xây dựng nhà nước đó là một quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp. Mâu thuẫn giữa tính bắt buộc, quy chuẩn có giới hạn của pháp luật và sự phong phú, sinh động, đa dạng của nhu cầu mọi mặt của cá nhân cũng như của xã hội bắt đầu xuất hiện. Pháp luật là tối thượng, nhưng trong không ít trường hợp, khi đã nắm được quyền lực công, các tổ chức và cá nhân được trao quyền trở nên quan liêu, tha hóa, tự đặt mình lên trên xã hội. Thậm chí, những người cai trị "bảo đảm quyền này của họ bằng những đạo luật đặc biệt, những đạo luật khiến cho họ trở thành đặc biệt thần thánh và đặc biệt bất khả xâm phạm. Trong tình huống này, tính tối thượng của pháp luật có thể lại là mối nguy hiểm cho xã hội.
Quá trình phát triển của xã hội hiện đại cho thấy một thực tế hiển nhiên là các cơ quan nhà nước và đội ngũ công chức nhà nước, dù hết sức tận tụy cống hiến hay có tinh thần vì công chúng như thế nào đi chăng nữa, thì cũng không thể dự kiến trước được tất cả các hàng hoá công cộng và dịch vụ mà các công dân muốn có. Việc xuất hiện những biện pháp thay thế của các tổ chức quần chúng, tổ chức phi chính phủ và tư nhân có thể giúp lấp đi những khoảng trống trong việc cung cấp hàng hoá công cộng, cũng như cung cấp những hàng hoá và dịch vụ công nào mà các cá nhân muốn trả bằng tiền của riêng họ. Các đoàn thể nhân dân, các hội có thể vừa là những cộng sự, vừa là những đối thủ cạnh tranh trong việc cung cấp các dịch vụ công.
Hơn nữa, trong điều kiện ngày nay, do nhu cầu cá nhân tăng lên, sự liên kết giữa các cá nhân và cộng đồng trở nên đa dạng hơn, phạm vi hoạt động của xã hội ngày càng phát triển phong phú và mở rộng. Nhà nước không thể và không nên trực tiếp đáp ứng tất cả nhu cầu đó, mà cần phải chuyển giao dần một phần công việc này cho các tổ chức thuộc khu vực xã hội dân sự. Trên thực tế, nhiều việc giao cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp quản lý lại có hiệu quả hơn vì tính chất linh hoạt, năng động, sát thực tế công việc và đảm bảo tính khách quan hơn, ví dụ như chức năng tư vấn, phản biện, giám định xã hội đối với các lĩnh vực chuyên môn nghề nghiệp…
Những giới hạn của nhà nước nêu trên chỉ có thể được khắc phục một cách hiệu quả khi xây dựng và phát triển xã hội dân sự, tức là phát huy vai trò của xã hội dân sự, huy động sự tham gia rộng rãi của người dân và cộng đồng vào công việc xã hội, mà tựa hồ như đã trao cho nhà nước và được coi là chức năng cơ bản, cơ sở của sự thống trị chính trị của nhà nước.
Chức năng của xã hội dân sự bao gồm: thứ nhất, là cầu nối, kênh truyền dẫn tiếng nói, nguyện vọng của người dân đến với nhà nước hay nói cách khác, là xã hội hóa các cá nhân, nối cá nhân với hệ thống xã hội; thứ hai, tham gia hoạch định các chủ trương, chính sách của nhà nước, phối hợp với nhà nước trong hoạch định, thực hiện và giám sát thực hiện các chính sách, góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý: thứ ba, tổ chức phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách cũng như việc thực hiện chính sách, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, kiểm soát và giám sát phẩm chất, hành vi của đội ngũ công chức nhằm góp phần chống quan liêu, tham nhũng, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của nhà nước: thứ tư, phát huy các nguồn lực và tính năng động, sáng kiến của các tầng lớp dân cư, tham gia hoạt động cung cấp dịch vụ công như giáo dục, y tế, văn hoá, khoa học, bảo vệ môi trường, xoá đói giảm nghèo,… tạo điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi người và của toàn xã hội.
Cả bốn chức năng trên đều quan trọng và có quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc xem nhẹ một trong các chức năng đó biểu hiện sự nhận thức không đúng về vai trò, chức năng của xã hội dân sự và ảnh hưởng đến sự ổn định, phát triển của xã hội.
Mục tiêu của xã hội dân sự hiện đại là phát triển và hoàn thiện con người, coi đó là điều kiện để phát triển cộng đồng, xã hội và nhân loại. Sự phát triển của xã hội dân sự hướng tới những giá trị tiến bộ chung của nhân loại; đồng thời, phụ thuộc vào tính giai đoạn, đặc điểm lịch sử cụ thể của từng nước cũng như hình thức, kiểu nhà nước và hệ thống chính trị của mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, xã hội dân sự là một khu vực không thuần nhất, tính đồng thuận không cao và thiếu tính nhất quán. Mặt khác, bản thân xã hội dân sự cũng có những giới hạn và gặp phải một số thách thức nhất định, đó là khi các hiệp hội, hội, tổ chức cộng đồng chỉ chăm lo đến lợi ích cục bộ của mình mà không quan tâm đến lợi ích toàn xã hội. Khi đó, tính tự chủ, tự nguyện và tự quản của xã hội dân sự sẽ có nguy cơ tạo ra các “lệ” riêng, cản trở việc thực thi chính sách và pháp luật của Nhà nước, hạn chế sự phát triển chung của xã hội. Vì vậy, các thể chế của xã hội dân sự cần phải được quản lý và định hướng bằng pháp luật của nhà nước, nhằm tạo ra một môi trường dân chủ, lành mạnh cho sự phát triển hài hoà của toàn xã hội. Nói cách khác, điều kiện để hình thành một xã hội dân sự lành mạnh là phải có một nhà nước pháp quyền vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả để xây dựng khung pháp luật, tạo môi trường thuận lợi, bảo vệ và trợ giúp cho xã hội dân sự, phục vụ xã hội dân sự.
Ở nước ta, trong công cuộc đổi mới, cùng với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và dân chủ hoá đời sống xã hội, Nhà nước đã từng bước chuyển sang thực hiện chức năng định hướng, bảo trợ, tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi cho người dân được tự do phát triển sản xuất kinh doanh, tổ chức cuộc sống. Nhờ đó, khu vực xã hội dân sự ngày càng có điều kiện phát triển, quan hệ xã hội của người dân được tự do, cởi mở hơn; nhu cầu giao tiếp, liên hệ giữa các cá nhân có điều kiện được thoả mãn; tính tích cực xã hội của người dân, của các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ, các nhóm xã hội có tư cách pháp nhân và không có tư cách pháp nhân được phát huy mạnh mẽ, góp phần vào sự phát triển của đất nước.
Mặt khác, xu thế đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ quốc tế đòi hỏi các quan hệ đối ngoại không chỉ được thực hiện theo con đường của Nhà nước, mà còn bằng các hình thức đối ngoại nhân dân thông qua các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ.
Nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức quần chúng, các hội trong sự nghiệp đổi mới đất nước, ngay từ năm 1990, trong Nghị quyết số 8B-NQ/ HNTW (khoá VI), Đảng ta đã chủ trương: “Trong giai đoạn mới, cần thành lập các hội đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống nhân dân hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà, tương thân, tương ái. Các tổ chức hội quần chúng được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài chính trong khuôn khổ pháp luật”. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hoá, hữu nghị, từ thiện - nhân đạo…
4. Những bất cập, vấn đề đáng quan tâm nhất.
Không thể có “xã hội dân sự” nếu không có “Nhà nước pháp quyền”, ngược lại, “nhà nước pháp quyền”không thể hoạt động tốt, nếu không có “xã hội dân sự”.
Phải mất một thời gian dài, ở nước ta “nhà nước pháp quyền” mới được dần dần nói đến và rồi định hình với Đại hội VIII. Nhưng ngay khi “Nhà nước pháp quyền” đã được khẳng định bằng cách thêm vào đó một cái đuôi “xã hội chủ nghĩa” cho an tâm, thì cái “nhà nước pháp quyền XHCN” ấy vẫn còn kiêng dè, e ngại với cái gọi là “xã hội dân sự”.
Xã hội dân sự nổi bật lên với nhiều tác dụng nhưng tóm tắt lại, điều quan trọng nhất cần hiểu rõ, thì đó chính là đối tác bình đẳng của Nhà nước chứ không phải là cái đuôi của Nhà nước. Nó giữ vai trò là “đối quyền của quyền lực Nhà nước”, mà về thực chất, là tạo điều kiện để người dân thực sự tham gia vào việc hoạch định, thực hiện
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Xã hội học dân sự.doc