MỤC LỤC:
I. TỔNG QUAN KINH TẾ 4
1. Kinh tế thế giới 4
2. Tình hình kinh tế Việt Nam 4
3. Các nguyên tắc sử dụng gói kích cầu 9
II. GÓI KÍCH CẦU LẦN 1 12
1. Bù đắp lãi suất 4% cho doanh nghiệp 13
2. Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp 15
3. Hỗ trợ người nghèo ăn tết và kích cầu tiêu dùng 19
4. Tác động
III. GÓI KÍCH CẦU LẦN 2 19
1.Gói kích cầu lần 2 có thật sự cần thiết 24
2.Nội dung của gói kích cầu lần 2 25
3.Kết quả kinh tế 6 tháng đầu năm 2010 .27
IV. MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VỀ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 29
26 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 11491 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tác động của hai gói kích cầu đến nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hất nghiệp. Các nhóm khác nhau trong xã hội sẽ có xu hướng tiêu dùng biên khác nhau. Những người có khoản thu nhập cao sẽ chỉ dùng một phần nhỏ khoản hoàn/miễn thuế ( hoặc khoản tiền trợ cấp) mà họ nhận được sẽ được chi tiêu, trong khi những người có thu nhập thấp và vừa, sẽ có nhu cầu chi tiêu cao hơn tính trên khoản hoàn thuế. Số nhân tổng cầu của nền kinh tế giải thích tại sao các chính sách kích cầu nhắm vào các đối tượng khác nhau lại mang đến những kết quả không giống nhau. Như vậy mức độ thành công của một gói kích cầu đến đâu là phụ thuộc vào đối tượng mà gói kích cầu kinh tế hướng đến. Mức độ “đúng đối tượng” của gói kích cầu chính phủ phụ thuộc vào:
Mức độ chi tiêu của đối tượng nhận được thu nhập nhờ có gói kích cầu thông qua tác động của số nhân tổng cầu.
Mức độ rò rỉ ra hàng ngoại nhập của các chi tiêu ( vì sẽ làm tăng M trong đẳng thức tính tổng cầu Y của nền kinh tế).
Nhìn chung, những người có mức thu nhập thấp thường có mức tiêu dùng cao (tức là mức tiết kiệm thấp) trên 1 đồng thu nhập có thêm được và lại thường tiêu dùng hàng nội. Do vậy nếu kích cầu đúng nhóm đối tượng này, sẽ đạt được đồng thời cả hai mục tiêu là hiệu quả và công bằng, khác với sự đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng mà ta thườn gặp trong kinh tế.
Nguyên tắc 3 - Kích cầu chỉ được thực hiện trong ngắn hạn:
Nguyên tắc ngắn hạn có nghĩa là sẽ chấm dứt kích cầu khi nền kinh tế được cải thiện. Khi thực hiện các biện pháp kích cầu phải đảm bảo rằng các biện pháp giảm thuế tăng chi tiêu của chính phủ đều chỉ có tính tạm thời và sẽ chấm dứt khi nền kinh tế vượt qua suy thoái. Và thông thường, sau khi vượt qua suy thoái, chính phủ sẽ thực hiện các biện pháp để hạn chế và cắt giảm thâm hụt ngân sách. Nguyên tắc ngắn hạn có 2 ý nghĩa:
Ngắn hạn làm tăng hiệu quả của gói kích cầu:
Những chính sách vẫn còn hiệu lực khi nền kinh tế phục hồi, ví dụ như chính sách cắt giảm thuế cố định là những biện pháp kích cầu kém hiệu quả, vì những biện pháp kích thích này sẽ trở thành những khoản chi phí của chính phủ hoặc khoản thất thu khi thời gian kích cầu đã kết thúc. Hon thế nữa các biện pháp tín dụng như đầu tư, hoặc ưu đãi khấu hao tài sản sẽ là những biện pháp kích cầu hiệu quả hơn khi được thực hiện. Điều này là do các biện pháp nếu chỉ được thực hiện trong ngắn hạn sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ đầu tư để tận dụng ưu đãi. Những biện pháp dài hạn như cắt giảm thuế quá lâu sẽ không phải là những biện pháp kích cầu tốt, bởi sẽ tạo cho các doanh nghiệp tín ỷ lại.
Ngắn hạn để bảo đảm không làm ảnh hưởng đến ngân sách trong dài hạn:
Thông thường khi thực hiện các biện pháp kích thích nên kinh tế bằng việc mở rộng chi tiêu tạm thời của chin phủ sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách. Do đó một nguyên tắc vô cùng quan trọng là các chính sách trong ngắn hạn không có tác động xấu đến nền kinh tế trong dài hạn, hoặc gây ra khó khăn cho ngân sách trong dài hạn. Việc bảo đảm rằng trong dài hạn, tình hình kinh tế không kém đi cũng là yếu tố quan trọng để gói kích cầu đạt hiệu quả hơn. Thâm hụt ngân sách lớn trong tương lai cũng có nghĩa là tiết kiệm trong dài hạn giảm đi, dẫn đến đầu tư giảm và ảnh hưởng đến tăng trưởng. Đó là chưa kể đến việc thâm hụt ngân sách sẽ ảnh hưởng đến tài khoản vãng lai và lạm phát.
Khi cân nhắc xem xét các biện pháp kích cầu cụ thể của gói kích cầu, thì cả ba nguyên tắc trên phải được tuân thủ và xem xét một cách đồng thời. Nếu một biện pháp kích cầu mà vi phạm một trong ba nguyên tắc trên thì đó không phải là một biện pháp kích cầu tốt. Để tăng hiệu quả kích cầu cần có các chính sách bổ trợ khác liên quan đến việc định giá đồng tiền trong nước so với ngoại tệ, sao cho tăng tính linh hoạt của tỉ giá, nhằm sử dụng công cụ này như van tự động điều chỉnh thâm hụt thương mại ở mức hợp lí và bền vững.
Đây là lần đầu tiên Chính phủ Việt Nam thực hiện chính sách kích cầu kinh tế, do vậy rất cần sự xem xét và tuân thủ thận trọng các nguyên tắc trên, để có thể đề ra những chính sách, biện pháp đúng đắn nhằm đạt được mục tiêu chống suy thoái kinh tế. Thực hiện các gói kích cầu trong hoàn cảnh Việt Nam có những thuận lợi và khó khăn nhất định sau:
Khó khăn:
khác với nhiều nước khác cũng đang thực hiện kích cầu kinh tế có ngân sách nhà nước thặng dư, trong khi đó thâm hụt ngân sách và thương mại ở mức cao và kéo dài.
lạm phát ở Việt Nam ở trong 2 năm vừa qua rất cao, gây bất lợi về tâm lí, mặc dù nguy cơ lạm phát trong năm 2009 là không cao.
việc hoạch định chính sách nói chung và gói kích cầu nói riêng dược thực hiện trong một môi trường đầy biến động, sẽ gây ra những trở ngại lớn trong việc hoạch định chính sách.
Thuận lợi:
nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng cung như bất động sản ở tất cả các phân khúc còn rất lớn, tạo thuận lợi cho đầu tư công.
tỉ trọng đầu tư công của Việt Nam thuộc loại cao nhất trên thế giới, cùng với sự hiện diện của một số chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo đã được thực hiện khoảng 10 năm nay, cũng là điểm thuận lợi khi thưc hiện các nội dung về an sinh xã hội của gói kích cầu, đặc biệt là trong việc xác định các đối tượng kích cầu.
GÓI KÍCH CẦU LẦN MỘT:
Gói kích cầu kinh tế của Việt Nam được triển khai thành các phần sau:
Gói hỗ trợ lãi suất 4%.
Gói hỗ trợ tiêu dùng, bao gồm miễn thuế thu nhập cá nhân, và hỗ trợ người nghèo ăn tết.
Gói hỗ trợ đầu tư bao gồm miễn, giảm, dãn thuế doanh thu, thuế VAT cho các doanh nghiệp, và nông dân vay vốn không lãi suất để mua thiết bị, máy móc sản xuất công nghiệp.
Đầu tư công bao gồm xây dựng kết cấu hạ tầng, nhà ở cho sinh viên và khu chung cư cho người có thu nhập thấp.
1. Về cấp bù lãi suất 4% cho doanh nghiệp:
Sau khi thảo luận với Ngân hàng Nhà nước, các bộ ngành liên quan, Thường trực Chính phủ đã thống nhất mức lãi suất hỗ trợ là 4%/năm.
Căn cứ vào quyết định 131 của Thủ tướng Chính phủ, kí ngày 23/01/2009, về việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất – kinh doanh. Theo đó, Nhà nước hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh, nhằm giảm giá thành sản phẩm, hàng hóa, duy trì sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm, trong điều kiện nền kinh tế bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới. Các khoản vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam theo các hợp đồng tín dụng được kí kết và giải ngân trong năm 2009 của các tổ chức: doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ gia đình,.., cá nhân để làm vốn lưu động sản xuất kinh doanh, được thống kê tín dụng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về chế độ báo cáo thống kê.
Nguyên tắc hỗ trợ lãi suất là các ngân hàng thương mại cho vay theo nhu cầu vốn lưu động để sản xuất kinh doanh theo cơ chế tín dụng thông thường và thực hiện hỗ trợ lãi suất theo quy định của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; không được từ chối hỗ trợ lãi suất, nếu khoản vay thuộc đối tượng được hỗ trợ lãi suất.
Thời hạn vay được hỗ trợ lãi suất là 08 tháng đối với các khoản vay theo hợp đồng tín dụng được kí kết và giải ngân trong khoảng thời gian từ ngày 01/02 đến 31/12/2009.
Mức lãi suất hỗ trợ cho khách hàng vay là 4%/năm, tính trên số tiền vay và thời hạn cho vay thực tế nằm trong khoản thời gian qui định thuộc quyết định này, khi thu lãi cho vay, các ngân hàng thương mại giảm trừ số tiền lãi phải trả cho khách hàng vay.
Đồng thường áp dụng cơ chế cho vay và lãi suất thông thường khi kí kết hợp đồng tín dụng, đến kì hạn thu lãi tiền vay của khách hàng, các ngân hàng thương mại thực hiện việc giảm trừ số tiền lãi bằng 4%/năm tính trên số tiền vay và thời hạn cho vay thực tê phát sinh trong năm 2009, các ngân hàng thương mại được hoàn trả số tiền lãi giảm trừ này từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trên sơ sở báo cáo định kì hàng quí.
Theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, mục đích của việc cấp bù lãi suất là nhằm hỗ trợ doanh nghiệp giảm bớt khó khăn, tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng với chi phí hợp lí, tạo động lực cho hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng mở rộng hoạt động huy động vốn và cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Rõ ràng, Thủ tướng giao cho Ngân hàng Nhà nước phối hợp vơi Bộ Tài chính triển khai ngay phương án cấp bù lãi suất thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, ngành liên quan khẩn trương nghiên cứu thủ tục cho vay nhanh, đơn giản, hiệu quả đối với các dự án, công trình kinh tế xã hội đang triển khai và có khả năng hoàn thành trong năm 2009 và 2010 cũng như một số công trìn quan trọng khác.
Cùng thời gian đó, Ngân hàng Nhà nước đã giảm lãi suất cơ bản còn 7%/ năm so với mức cũ là 8,5%/năm. Việc ban hành quyết định này sẽ làm cho các ngân hàng thương mại đồng loạt giảm lãi suất huy động xuống còn 5,5 – 7%/năm thay cho mức 7 – 8%/năm. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế thì việc cắt giảm lãi suất cùng với hỗ trợ lãi suất sẽ tạo không khí hưng phấn trong kinh doanh.
Với gói kích cầu kinh tế của Việt Nam, Chính phủ chỉ hỗ trợ lãi suất cho vay chứ không hạ lãi suất tiền gởi để tránh bẫy thanh khoản. Nếu như ở Mỹ cho dù lãi suất hạ xuống bằng “zero” thì dân chúng vẫn gởi tiền vào ngân hàng như thường, không có gì thay đổi, bởi vì tài khoản của người dân trong ngân hàng là để thanh toán, để trả mua sắm hàng ngày,… Hầu như họ không mấy quan trọng đến vấn đề lãi suất. Trong khi ở Việt Nam, nếu hạ lãi suất cho vay xuống còn 5 – 6% thì buộc phải hạ lãi suất tiền gởi xuống 3%, khi đó sẽ chẳng còn ai gởi tiền vào ngân hàng nữa. Người ta sẽ cầm tiền mua vàng, ngoại tệ, chứng khoán, bất động sản, hoặc cho nhau vay để hưởng lãi suất cao hơn. Bẫy thanh khoản là ở chỗ ấy, khi người ta không gởi tiền vào ngân hàng thì hệ thống ngân hàng sẽ sụp đổ nhanh chóng.
Thứ hai, việc hỗ trợ lãi suất cho vay cũng có giá trị kích thích về mặt tâm lí. Tức là các doanh nghiệp sẽ đua nhau vay vốn ưu đĩa để gia tăng sản xuất. Như vậy duy trì được sản xuất, phục hồi sản xuất cho các doanh nghiệp.
Về phía các ngân hàng họ cũng thấy rằng chỉ khi cho vay thì học mới được hưởng 4% đó, chứ không thì không được hưởng. Đồng thời ngân hàng cũng thấy rằng nếu cho vay, doanh nghiệp được phục hồi thì con nợ của họ còn sống, và vẫn có khả năng thu hồi nợ được, …
Như vậy là có hai động lực từ phía người vay và phía người cho vay dẫn đến chuyện đẩy tín dụng ra. Mà kích cầu, mục tiêu chủ chốt là phải đẩy được tín dụng ra, làm cho tín dụng tăng trưởng, phá được băng của tín dụng.
2. Về bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp:
Ngoài cấp bù lãi suất, Thường trực Chính phủ cũng thống nhất thông qua cơ chế bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 20 tỉ đồng và dưới 500 lao động.
Tuy nhiên, đối với các ngành nghề có tính chất dịch vụ, như tư vấn, kinh doanh chứng khoán, vui chơi giải trí,… thì không thuộc diện ưu đãi này.
Đối với thời hạn và mức phí bảo lãnh, Chính phủ quy định: thời hạn bảo lãnh phù hợp với thời hạn cho vay và chu kì sản xuất kinh doanh với mức bảo lãnh tối đa bằng 100% số nợ gốc đã phát sinh. Phí bảo lãnh tối đa bằng 0,5%/năm/số tiền được bảo lãnh.
Đồng thời Thủ tướng giao cho Bộ Tài chính đảm bảo nguồn 200 tỷ đòng cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam để hình thành nguồn vốn ban đầu cho quỹ bù đắp rủi ro bảo hiểm tín dụng.
Ngoài ra, Thường trực Chính phủ cũng có các ý kiến về việc dãn thời hạn nộp thuế thu nhập cá nhân, chính sách thuế để hỗ trợ doanh nghiệp, kích cầu.
Nếu như trước đây DN phải thực hiện nghĩa vụ thuế ngay sau khi phát sinh thu nhập, thì giờ đây, chủ trương của chính phủ giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp, giãn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian 9 tháng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa và các doanh nghiệp trong một số ngành nghề đã góp phần tháo dỡ khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp. Mặc dù chính sách thuế không giải quyết vấn đề cơ bản của doanh nghiệp là thiếu đầu ra cho sản phẩm của doanh nghiệp, nhưng đây vẫn là một chính sách được cộng đồng doanh nghiệp hoan nghênh vì đã cắt giảm chi phí sản xuất cho doanh nghiệp.
Việc giảm 50% thuế giá trị gia tăng đối với 19 nhóm mặt hàng thuộc các ngành hàng mà trước đây có thuế suất là 10% đã tác động trực tiếp đối với các doanh nghiệp để phục vụ cho việc giảm giá sản phẩm, giúp kích thích tiêu dùng trong bối cảnh hiện nay.
Ngoài ra chính sách giãn và miễn nộp thuế thu nhập cá nhân đối với một số loại thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công, từ bản quyền, chuyển nhượng thương mại, đầu tư vốn, kế thừa và quà tặng, nhờ đó tăng thu nhập khả dụng và chi tiêu của hộ gia đình.
Không chỉ thông qua việc giảm, miễn, hoàn thuế cho người nộp thuế mà còn cải cách thủ tục hành chính thuế, nhằm tạo thuận lợi cho người nộp thuế, cũng góp phần tăng hiệu quả của các giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng. Cơ quan thuế cho phép doanh nghiệp có thể chọn tự kê khai đăng ký, giảm, giãn, hoàn thuế hoặc theo tờ khai tự quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008, và tự xác định số thuế, thời hạn giãn nộp thuế và cam đoan trên tờ khai thuế TNDN hàng quý của năm 2009.
Đối với thuế giá trị gia tăng, thời hạn giải quyết tạm hoàn thuế 90% không quá 7 ngày và khi có đủ chứng từ thì hoàn tiếp 10% không quá 4 ngày làm việc; các trường hợp hoàn thuế khác, thời hạn tối đa không quá 8 ngày làm việc. Đối với trường hợp kiểm tra trước hoàn thuế, thời hạn không quá 30 ngày làm việc.
Chính phủ đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu giảm 50% từ ngày 1/2/2009 đối với một số hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp có mức thuế thay đổi so với năm 2008 như than đá, đất, đá, cát, sỏi, sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất; ô tô và linh kiện ô tô như động cơ, hộp số, bộ li hợp, sản phẩm be-tong công nghiệp; sản phẩm luyện, cán, kéo, kim loại đen, kim loại màu, kim loại quý trừ vàng nhập khẩu…
Ngoài ra, cơ quan thuế tiến hành phân loại các đối tượng và tập trung tuyên truyền, hỗ trợ bằng nhiều hình thức phong phú để người nộp thuế biết được quyền và nghĩa vụ, từ đó tự giác kê khai, thực hiện, còn cơ quan thuế chỉ kiểm tra, hậu kiểm tra.
Thêm vào đó, căn cứ theo quyết định 497 của Thủ tướng Chính phủ ra ngày 17/04/2009, về việc hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy mọc thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn.
Theo QĐ, Nhà nước hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay ngắn, trung hạn bằng đồng Viêt Nam của các tổ chức, cá nhân mua máy móc, thiết bị, phương tiện, vật tư phục vụ nông nghiệp và xây dựng nhà ở khu vực nông thôn.
Các khoản vay bằng đồng Việt Nam của các tổ chức, cá nhân vay để mua sắm máy móc, thiết bị, phương tiện, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng ở khu vực nông thôn, trừ các khoản vay đã được hỗ trợ lãi suất theo quy định tại Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 443/QĐ-TTg ngày 04 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ.
Hàng hoá sản xuất trong nước được hỗ trợ lãi suất gồm các danh mục hàng hóa sau:
Sản phẩm máy móc, thiết bị cơ khí, phương tiện phục vụ sản xuất và chế biến nông nghiệp:
a. Các loại động cơ đốt trong: động cơ nhỏ dưới 30 CV, động cơ thuỷ dưới 80 CV.
b. Máy gặt đập liên hợp.
c. Máy kéo, máy cày, máy xới, máy làm đất;
d. Máy gặt, máy tuốt lúa, máy sấy nông sản, máy xát lúa gạo, máy bơm nước, máy phát điện, máy vò chè, máy tẻ ngô, máy gieo hạt.
đ. Máy sục khí ô xy nuôi thuỷ sản, các loại ghe xuồng có gắn động cơ.
e. Máy cắt cỏ, băm cỏ, máy nghiền, trộn, đóng viên, đóng bánh thức ăn cho gia súc, gia cầm, máy vắt sữa, máy ấp, nở gia cầm.
g. Xe tải nhẹ.
h. Máy vi tính để bàn.
Vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp:
a. Phân bón hoá học các loại.
b. Thuốc bảo vệ thực vật.
Các loại vật liệu xây dựng chủ yếu để làm nhà ở khu vực nông thôn.
Các nguyên tắc cho vay theo quyết định 497 như sau:
Các ngân hàng thương mại cho vay theo cơ chế tín dụng thông thường; thực hiện hỗ trợ lãi suất theo quy định tại Quyết định này và theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; thực hiện giảm trừ số tiền lãi được hỗ trợ vào số tiền lãi phải trả cho các tổ chức, cá nhân vay khi đến kỳ hạn thu lãi vay; không được từ chối hỗ trợ lãi suất, nếu khoản vay thuộc đối tượng được hỗ trợ lãi suất.
Điều kiện được vay đối với các tổ chức, cá nhân vay:
a. Thuộc đối tượng theo quy định tại Điều 1 và hàng hoá tại Điều 3 của Quyết định này.
b. Có địa chỉ cư trú hợp pháp và được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là người trực tiếp sản xuất (không phải mua về để bán lại).
c. Có hợp đồng vay vốn với ngân hàng thương mại theo quy định.
Chính phủ cũng quy định cụ thể, rõ rang về mức tiền vay tối đa, mức lãi suất hỗ trợ, thời hạn hỗ trợ:
Mức tiền vay tối đa và mức lãi suất được hỗ trợ:
Đối với các sản phẩm máy móc, thiết bị cơ khí, phương tiện phục vụ sản xuất, chế biến nông nghiệp và máy vi tính: mức tiền vay tối đa bằng 100% giá trị hàng hoá (riêng đối với máy vi tính, mức tiền vay tối đa không quá 05 triệu đồng/chiếc) và được hỗ trợ 100% lãi suất vay;
Đối với các sản phẩm vật tư nông nghiệp: mức tiền vay tối đa bằng 100% giá trị hàng hoá nhưng không vượt quá 07 triệu đồng/ha và được hỗ trợ 4% lãi suất vay;
Đối với vật liệu xây dựng các loại để làm nhà ở: mức tiền vay tối đa bằng 100% giá trị hàng hoá nhưng không vượt quá 50 triệu đồng và được hỗ trợ 4% lãi suất vay.
Thời hạn hỗ trợ lãi suất:
Các khoản vay theo hợp đồng tín dụng được ký kết, giải ngân trong khoảng thời gian từ ngày 01 tháng 5 năm 2009 đến ngày 31 tháng 12 năm 2009 của các tổ chức, cá nhân đối với:
Các sản phẩm máy móc, thiết bị cơ khí, phương tiện phục vụ sản xuất, chế biến nông nghiệp và máy vi tính: thời hạn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 24 tháng.
Các sản phẩm vật tư nông nghiệp và vật liệu xây dựng các loại để làm nhà ở: thời hạn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 12 tháng.
Việc hoàn trả số tiền hỗ trợ lãi suất cho các ngân hàng được thục hiện như sau:
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện hoàn trả số tiền cho các ngân hàng thương mại đã hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân theo định kỳ hàng tháng trên cơ sở báo cáo và đề nghị của các ngân hàng thương mại.
2. Kinh phí hỗ trợ theo các quy định tại Quyết định này lấy từ nguồn hỗ trợ lãi suất của Chính phủ.
Điều kiện để một hàng hóa đuộc xét hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất được quy định là:
1. Sản phẩm được sản xuất trong nước.
2. Sản phẩm phải được đăng ký, niêm yết giá bán và có nhãn hàng hoá theo quy định hiện hành của pháp luật.
3. Hỗ trợ người nghèo đón Tết và kích cầu tiêu dùng:
Tại phiên họp thường kì Chính phủ ra quyết định hỗ trợ cho các hộ nghèo mức 200000 đồng/người nhưng không vượt quá 1 triệu đồng/hộ nghèo.
Việc xác định hộ nghèo được thực hienj theo qiu định tại Quyết định số 170/2005/QĐ-TTTG của Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010.
Đối với các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách, Chính phủ sẽ hỗ trợ 100% từ ngân sách Trung ương để hỗ trợ người nghèo.
Các địa phương có khoản điều tiết các khoản thu phân chia về ngân sách trung ương dưới 50% thì ngân sách trung ương sẽ hỗ trợ 50% kinh phí. Các địa phương còn lại ngân sách do địa phương tự thu xếp.
Theo ước tính, tổng kinh phí hỗ trợ người nghèo ăn tết Kỉ Sửu với mức nêu trên là khoảng 3800 tỉ đồng.
Về kích cầu tiêu dùng, Chính phủ tiếp tục điều hành giá than, điện, nước sạch, cước vận chuyển xe buýt… theo cơ chế thị trường. Trong tháng 1 năm tới, Bộ Tài chính và Công Thương cùng các cơ quan liên quan sẽ báo cáo với Thủ tướng lộ trình thực hiện. Để tăng tiêu dùng của người dân, Bộ Công Thương sẽ trình Thủ tướng đề án về hệ thống phân phối các mặt hàng thiết yếu, và khuyến khích doanh nghiệp tổ chức các đợt hạ giá trong dịp Tết 2009.
Dưới đây là bảng số liệu báo cáo về gói kích cầu 1 vào tháng 5/2009
( Nguồn:
Gói kích cầu lần 1 có hiệu quả rất tích cực. Theo báo cáo của Chính phủ, năm 2009 nước ta cơ bản thực hiện được mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý và bền vững. Khả năng năm 2009 có 7/25 chỉ tiêu không đạt kế hoạch nghị quyết QH đề ra. Tuy nhiên, với 18 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch; trong đó tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 5,2%; chỉ số giá tiêu dùng ở mức 7%; bội chi ngân sách là 6,9%... là thành tích lớn trong bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến phức tạp.
4. Tác động của gói kích cầu lần 1:
Các hoạt động kinh tế đã được thực hiện đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực
Việt Nam - Các biện pháp kích thích chính
Chính sách tài chính
Áp dụng giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp
Gia hạn thêm 9 tháng cho các khoản nợ phải nộp cho năm 2009
Tạm thời hoàn lại 90% thuế giá trị gia tăng cho các sản phẩm xuất khẩu trước khi nộp chứng từ thanh toán hợp lí
Chính sách tiền tệ/ Tài chính
Từ 10/01/2008 đến 01/2009, NHNN Việt Nam cắt giảm lãi suất cơ bản 6 lần từ 14% xuống còn 7%.
Mức dự trữ bắt buộc giảm 1 điểm % đối với đồng Việt Nam và 2 điểm % đối với ngoại tê.
2% + Nới rộng hoạt động tỉ giá USD/VND trong tháng 11/2008, vào tháng 3 năm 2009 là + 3% và tăng lên đến + 5%.
Hỗ trợ lãi suất đối với các khoản tín dụng cấp trong thời gian tối đa là 8 tháng bắt đầu từ 01/02 đến 31/12/2009.
Chính sách xã hội
Bảo hiểm thất nghiệp được đưa ra vào ngày 01/01/2009
Hỗ trợ những khoản vay vốn không tính lãi dành cho các doanh nghiệp trả lương, đóng bảo hiểm xã hội và trợ cấp cho người lao động.
(Nguồn: Báo cáo của Ngân hang ANZ – Tổng hợp từ trang web của các cơ quan Chính phủ Việt Nam)
Các thị trường đồng loạt tăng trưởng, Việt Nam là nước duy nhất có GDP dương năm 2009.
Điều mà Chính phủ quan ngại nhất la việc áp dụng gói kích cầu sẽ làm cho nền kinh tế Việt Nam rơi vào lạm phát, nhưng thực tế đã cho thấy, tỉ lệ lạm phát của nước ta năm 2009 là 7%, một con số không đáng lo ngại lạm phát sẽ tái xảy ra.
Đối với gói bù lãi suất, đã giúp cho nhiều DN, đặc biệt DN nhỏ và vừa giải quyết được vốn, giảm được giá thành, giải quyết hàng tồn kho, nâng sức cạnh tranh. Đây là liều thuốc cứu nguy có hiệu quả và đến rất đúng lúc cho nhiều DN. Việc giãn, hoãn, miễn giảm thuế cũng giúp các DN giảm bớt khó khăn do tác động của suy giảm kinh tế, giúp họ có thể trụ vững rồi vươn lên. Đối với bảo lãnh tín dụng, tuy chưa thực hiện được nhiều nhưng mở ra cơ hội tốt cho nhiều DN không đủ điều kiện vay vốn được bảo lãnh cho vay. Nhìn chung, tất cả những biện pháp kích cầu này đã giúp các DN trụ vững, giúp nền kinh tế vượt qua thời điểm khó khăn nhất.
Chính sách hỗ trợ lãi suất được đánh giá là có tác dụng rất tốt trong việc thúc đẩy các ngân hàng thương mại cung ứng tín dụng cho nền kinh tế, đồng thời giúp các doanh nghiệp thuộc diện hỗ trợ lãi suất tăng cường vay cho quá trình sản xuất. Nhưng luồng ý kiến biểu dương tác dụng tích cực của chính sách cho vay hỗ trợ lãi suất 4% lại chỉ thuộc về một số doanh nghiệp lớn. Còn với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiếp cận được với nguồn vốn vay ưu đãi này lại là việc không dễ dàng.
Xoay quanh vấn đề tác dụng của gói kích cầu 1 cũng có rất nhiều vấn đề đáng thảo luận. Rất khó để đánh giá xem việc thụ hưởng gói kích cầu bao nhiêu phần trăm là đúng đôi tượng, bao nhiêu phần trăm dùng để đảo nợ, bao nhiêu phần trăm dùng tiền vay ưu đãi đi gởi ngân hàng để lấy lãi suất cao hơn.
Theo các đánh giá khác nhau, có tời 80 – 90% số doanh nghiệp không được hưởng chính sách ưu đãi này, và tổng tín dụng ưu đãi lãi suất cũng chỉ chiếm 80% tổng tín dụng. Mức hỗ trợ lãi suất 4% là quá lớn, nên kéo dài chính sách hỗ trợ này sẽ tạo sức ỳ đối với các doanh nghiệp. Hiệu quả của chính sách hỗ trợ lãi suất mang lại là không nhỏ, nhưng những hệ lụy, tồn tại đằng sau nó cũng đang cần sự lưu tâm của Nhà nước.
Quyền Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên, cho rằng gói “cứu trợ” nền kinh tế của Chính phủ là cần thiết. Tuy nhiên, phải chọn đúng điểm rơi và chỉ xem đây là khoản tiền mồi cho nền kinh tế “lấy đà” để “chạy”. Nếu kích không đúng chỗ thì càng tai hại. Nên rót tiền vào các ngành sử dụng nhiều lao động chứ không nên đầu tư vào những ngành thâm dụng vốn. Với khoản bù lãi suất và bảo lãnh vay vốn mà Chính phủ đã thông qua, thì năng lực vốn có thể cho vay lên tới xấp xỉ 20 tỷ USD, bằng nửa tổng giá trị đầu tư của Việt Nam một năm (cụ thể là năm 2008 vừa qua). Lượng 17.000 tỷ đồng, do đó, theo TS Nguyễn Đức Thành (GĐ CEPR) là “thừa đủ để hỗ trợ khối doanh nghiệp. Tuy vậy, vì các DNNN cũng tham gia mạnh mẽ vào chương trình, nên tình hình đã khác. DNNN, với thế mạnh về tài chính và nhất là về quan hệ - những mối liên hệ mật thiết với hệ thống ngân hàng - có thể dễ dàng tận dụng lợi thế để nhận phần lớn khoản hỗ trợ. Số tiền còn lại mới đến tay doanh nghiệp tư nhân. Trong khi trên thực tế, doanh nghiệp tư nhân mới là lực lượng chủ đạo của nền kinh tế. Việt Nam tăng trưởng chủ yếu nhờ khu vực tư nhân. Doanh nghiệp tư nhân cũng là nơi sử dụng nhiều lao động nhất.Tại hội thảo “Biến động kinh tế năm 2008 và dự báo năm 2009: Giải pháp và tầm nhìn cho doanh nghiệp Việt Nam”, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan đã khuyến nghị: “Nhà nước dành khoảng 17.000 tỷ đồng để hỗ trợ các doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế, chủ yếu là hỗ trợ các DNNVV vay đầu tư phát triển, duy trì SXKD, giữ và tạo thêm việc làm”. Do đó các DNNVV “nên chủ động lên tiếng, đừng im lặng”.
Trong các phần của gói kích cầu thứ nhất, dường như chỉ có gói hỗ trợ lãi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tamp193C 2727896NG C7910A HAI Gamp211I Kamp205CH C7846U 2727870N N7872N KIN.doc