Tiểu luận Tại sao Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam?

ĐỀ CƯƠNG.

1. Xuất phát lí luận của Chủ nghĩa Mac- Lênin.

1.1. Lí luận.

1.2. Thực tiễn.

1.2.1. Chính sách kinh tế NEP của Liên Xô.

1.2.1.1. Xuất phát.

1.2.1.2. Nội dung.

1.2.1.3. Tư tưởng.

1.2.1.4. Thành tựu.

1.2.2. Cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc.

1.2.2.1 Hoàn cảnh.

1.2.2.2 Nội dung cải cách.

1.2.2.3 Thành tựu.

 

2. Thực tế Việt Nam.

2.1 Kinh tế.

2.2 Chính trị.

3. Nội dung chính sách.

3.1 Đối với Kinh tế quốc doanh.

3.2 Đối với Kinh tế Hợp tác xã.

3.3 Đối với Người làm thủ công và lao động riêng lẻ.

3.4 Đối với Những nhà tư sản công thương.

3.5 Đối với Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

4. Tính đúng đắn của luận điểm.

4.1 Sự thay đổi trên nhiều mặt cuộc sống.

4.1.1 Giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực

4.1.2 Tạo ra cạnh tranh - động lực của tăng trưởng

4.1.3 Thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, huy động sức mạnh tổng hợp để phát triển kinhtế - xã hội

4.1.4 Là con đường xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

4.2 Những tác động cụ thể của chính sách

 

 

doc13 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1681 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tại sao Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu hỏi: Tại sao Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam? ĐỀ CƯƠNG. 1. Xuất phát lí luận của Chủ nghĩa Mac- Lênin. 1.1. Lí luận. 1.2. Thực tiễn. 1.2.1. Chính sách kinh tế NEP của Liên Xô. 1.2.1.1. Xuất phát. 1.2.1.2. Nội dung. 1.2.1.3. Tư tưởng. 1.2.1.4. Thành tựu. 1.2.2. Cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc. 1.2.2.1 Hoàn cảnh. 1.2.2.2 Nội dung cải cách. 1.2.2.3 Thành tựu. 2. Thực tế Việt Nam. 2.1 Kinh tế. 2.2 Chính trị. 3. Nội dung chính sách. 3.1 Đối với Kinh tế quốc doanh. 3.2 Đối với Kinh tế Hợp tác xã. 3.3 Đối với Người làm thủ công và lao động riêng lẻ. 3.4 Đối với Những nhà tư sản công thương. 3.5 Đối với Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. 4. Tính đúng đắn của luận điểm. 4.1 Sự thay đổi trên nhiều mặt cuộc sống. 4.1.1 Giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực 4.1.2 Tạo ra cạnh tranh - động lực của tăng trưởng 4.1.3 Thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, huy động sức mạnh tổng hợp để phát triển kinhtế - xã hội 4.1.4 Là con đường xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất... 4.2 Những tác động cụ thể của chính sách BÀI LÀM. 1. Lý luận của chủ nghĩa Mac – Lênin 1.1, Lý luận: Các Mac và Ph. Anghen xuất phát từ giả thiết chủ nghĩa xã hội tương lai sẽ thắng lợi đồng thời ở các nước tư bản có trình độ phát triển cao (ít nhất là ở các nước văn minh). Tiểu sản xuất của nông dân và thợ thủ công đã căn bản bị chủ nghĩa đại tư bản xoá bỏ. Do đó, sau khi cách mạng vô sản thành công, chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa được xây dưng trên một hình thức công hữu toàn dân duy nhất, sẽ không có sản xuất và lưu thông hàng hoá, lao động dùng vào việc tạo ra sản phẩm sẽ không biểu hiện ra là giá trị hàng hoá nữa vì lao động cá nhân đã trở thành lao động xã hội trực tiếp. Thực tế, cách mạng vô sản lại nổ ra trước tiên ở Nga, khi đó không phải là nước có nền phát triển cao nhất mà là nền kinh tế với nền công nghiệp mới, phát triển trung bình và nền kinh tế tiểu nông còn rộng khắp . Trong tình hình đó, không thể quốc hữu hoá tất cả mà phải hướng nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể; do đó trong nền kinh tế hình thành các hình thức sở hữu: toàn dân, tập thể, tư nhân, tức còn cơ sở của kinh tế hàng hoá. Bản chất kinh tế hàng hoá của một chế độ kinh tế – xã hội không những gắn với chế độ sở hữu tư nhân mà còn chế độ sở hữu công cộng khác nhau như đã từng diễn ra trong lịch sử. (Phân công xã hội và sở hữu khác nhau giữa các cộng đồng nguyên thuỷ đẻ ra tất yếu kinh tế của sự trao đổi sản phẩm và biến sản phẩm thành hàng hoá). Trong chủ nghĩa xã hội còn tồn tại một cách khách quan phân công xã hội và hai hình thức sở hữu công cộng thống trị, nên tất yếu còn sản xuất và trao đổi hàng hoá. Nói cách khác bản chất kinh tế hàng hoá của chế độ xã hội chủ nghĩa nằm ngay trong cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Cơ sở kinh tế là sự tồn tại của phân công xã hội và của hai hình thức công hữu xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, tức là còn tồn tại những hình thức sở hữu khác nhau nên tất yếu còn sản xuất và lưu thông hàng hoá ( sản xuất và lưu thông hàng hoá trong thời kỳ quá độ còn có th gọi là kinh tế thị trường định hướng XHCN). Quan hệ hàng hoá – tiền tệ là tất yếu của nền kinh tế XHCN và của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do cơ sở kinh tế của CNXH và thời kỳ quá độ đã bao hàm tính tất yếu đó. 1.2, Thực tiễn: 1.2.1 Chính sách kinh tế NEP ở Liên Xô: 1.2.1.1 Xuất phát: Từ đại hội X của đảng cộng sản Nga (15/3/1921) trở đi Lênin đã nhận ra sai làm trong việc chuẩn bị xoá bỏ tiền tệ, đình chỉ lưư thông hàng hoá từ đó Lênin khẳng định tính tất yếu của thương nghiệp. Mà sự phát triển của thương nghiệp có nghĩa là tự do phát triển sản xuất hàng hoá và khôi phục chủ nghĩa tư bản. Điều đó đòi hỏi phải hướng dẫn sự phát triển tất yếu của nghĩa tư bản dưới sự kiểm soát của nhà nước và sử dụng nó vì lợi ích của CNXH. 1.2.1.2 Nội dung : 1, Áp dụng những hình thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản nhà nước, coi đó là mắt xích trung gian để xây dựng chủ nghĩa xã hội; 2, Sử dụng các các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, thực hiện khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần đối với mọi người lao động, khai thác mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; 3, Củng cố Chính quyền Xô viết, tăng cường vai trò của quản lý, kết hợp chặt chẽ các biện pháp hành chính, tổ chức và kinh tế; thực hiện chế độ kiểm kê kiểm soát của nhà nước chuyên chính vô sản đối với đời sống kinh tế - xã hội, trên cơ sở liên minh kinh tế để tăng cường củng cố liên minh công nông về chính trị. 1.2.1.3 Tư tưởng: 1, Tất cả những tư tưởng của Lênin về NEP đều đã có tiềm tàng trong lý luận của Mác và Ăngghen. Tư tưởng ấy không xa rời luận điểm nền tảng của Mác: tính chất phổ biến do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mang đến cho thế giới. Theo Mác: bất cứ ở đâu, giai cấp tư sản giành được chính quyền thì ở đó nó sẽ phá vỡ được mọi quan hệ và mối liên hệ phức tạp phong kiến lạc hậu, gia trưởng, đập tan được “tính đa cảm tiểu tư sản xuống dòng nước giá lạnh của tính toán ích kỷ”. 2, Xét một cách tổng quát, NEP chính là sự thực hiện những nguyên lý của chủ nghĩa Mác về cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện của một nước tiểu nông, ở đó những quan hệ kinh tế tư sản tuy đã hình thành nhưng chưa đạt đến độ chín muồi để chiến thắng các quan hệ kinh tế cũ, các quan hệ kinh tế của nền sản xuất tiểu nông còn chiếm đại bộ phận trong nền sản xuất xã hội. Muốn thực hiện tư tưởng xoá bỏ chế độ tư hữu với tính cách là "chế độ sở hữu cổ truyền" không thể "tiến công trực diện", phải có cách làm khác. Theo cách diễn đạt của V.I.Lê-nin, đó là "thực hiện những bước lùi cần thiết". Bước lùi đó chính là việc thiết lập một hệ thống sở hữu hợp quy luật làm cơ sở cho các thành phần kinh tế còn tồn tại khách quan, giải phóng tối đa sức sản xuất của xã hội đang bị kìm hãm… 1.2.1.4 Thành tựu: Nhờ NEP, Liên Xô được giải thoát khỏi một cuộc khủng hoảng để thực hiện những công việc của một đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh bắt tay vào công việc cải tạo và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chế độ mới, xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản, củng cố liên minh công nông… những công việc chủ yếu của một đất nước khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 1.2.2, Cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc: 1.2.2.1 Hoàn cảnh: Về kinh tế: Từ 1958 Trung Quốc thựa hiện đường lối 3 ngọn cờ hồng làm cho nền kinh tế khủng hoảng, trì trệ… Về chính trị: Sự bất đồng gay gắt trong nội bộ lãnh đạo Trung Quốc dẫn tới sự tranh chấp quyền lực ( biểu hiện bằng cuộc cách mạng Đại cách mạng văn hoá vô sản…) Trung Quốc rối loạn. 1.2.2.2 Nội dung cải cách: Hội nghị Trung ương 3 khóa XI (năm 1978), Đặng Tiểu Bình đã chỉ rõ: "Muốn phát triển sức sản xuất, phải cải cách thể chế kinh tế". Mục tiêu và thực chất của cuộc cải cách này là thay đổi cơ chế quản lý kinh tế cũ (cơ chế kinh tế kế hoạch) sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, giải phóng và phát triển sức sản xuất để thực hiện hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa. Những nội dung chủ yếu: 1, Lấy phát triển kinh tế làm trung tâm. 2, Kiên trì 4 nguyên tắc cơ bản: + Kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa. + Kiên trì chuyên chính dân chủ nhân dân. + Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. + Kiên trì chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Mao Trạch Đông. 3, Cải cách toàn diện, trong đó cải cách thể chế kinh tế là trọng điểm cải cách toàn diện trên tất cả các phương diện về kinh tế - từ chế độ sở hữu, chính sách giá cả, ngân hàng….cải cách cả về chính trị, văn hóa, chú trọng văn minh tinh thần, làm cho xã hội Trung Quốc phát triển một cách hài hòa, cân đối. Cải cách toàn diện nhưng phải có trọng điểm để tập trung sức lực.Trọng điểm chính là cải cách thể chế kinh tế.Trọng điểm đó được xây dựng bởi phương châm chung là “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm”, nhằm không ngừng phát triển sức sản xuất nâng cao mức sống của nhân dân, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước. 4, Tiến hành cải cách và mở cửa, chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa linh hoạt hơn nhằm hiện đại hóa và xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc với mục tiêu biến Trung Quốc thành quốc gia giàu mạnh, dân chủ và văn minh. 1.2.2.3 Thành tựu: Những thành tựu mà nhân dân các dân tộc Trung Quốc giành được là rất đáng khâm phục: kinh tế tăng trưởng tăng liên tục, giai đoạn 1978 – 2007, GDP bình quân tăng hơn 9%, thực lực kinh tế từ vị trí thứ 10 tăng lên thứ 4, ngoại thương từ thứ 32 vươn lên thứ 3, thu hút đầu tư nước ngoài đứng thứ 2 và dự trữ ngoại tệ đứng đầu thế giới. Đời sống nhân dân đã từ chỗ chưa giải quyết được vấn đề no ấm, nay về tổng thể đã bước vào giai đoạn khá giả, thu nhập bình quân đầu người tăng trưởng nhanh. Vị thế của Trung Quốc trên trường quốc tế cũng được nâng cao. 2. Thực tiễn Việt Nam: Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện nước ta sản xuất nhỏ lạc hậu, có chiến tranh cho nên phải phát triển nhiều thành phần kinh tế. Tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển ở nước ta lúc này trước hết để tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Trong khi đó, kẻ thù lại đánh phá ác liệt, bao vây cô lập cách mạng Việt Nam. Để đảm bảo cuộc sống của nhân dân, để cung cấp kịp thời cho cuộc kháng chiến ngày càng phát triển và mở rộng, tất yếu chúng ta phải phát triển nhiều thành phần kinh tế. Hơn nữa, mối thành phần kinh tế bao giờ cũng có một giai cấp, tầng lớp xã hội đại diện. Quan tâm và phát triển các thành phần kinh tế cũng có nghĩa là quan tâm đến lợi ích của các giai cấp và tầng lớp xã hội. Từ đó mới có thể đoàn kết được mọi lực lượng trong dân tộc, cô lập kẻ thù, tăng cường sức mạnh cho cuộc kháng chiến. Như vậy phát triển nhiều thành phần kinh tế ở nước ta lúc này không chỉ để tạo ra nhiều sản phẩm, đáp ứng yêu cầu đa dạng phức tạp trong xã hội, mà điều quan trọng hơn là để đoàn kết tất cả các lực lượng trong mặt trận dân tộc thống nhất nhằm đẩy mạnh sản xuất, phục vụ đắc lực cho cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Phát triển các thành phần kinh tế là để thực hiện chính sách kinh tế của Đảng và chính phủ ta lúc đó là: “ Công tư đều lợi, chủ thợ đều lợi, công nông giúp nhau, lưu thông trong ngoài”. Như vậy ngay trong điều kiện kháng chiến, Hồ Chí Minh đã thấy được tính tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần bảo đảm sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX còn là thủ công, lạc hậu manh mún hiện có. Phát triển kinh tế nhiều thành phần lúc đó vừa là để kiến thiết đất nước vừa là để phục vụ kịp thời cho cuộc kháng chiến gian khổ lâu dài của nhân dân. Nó vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt đoàn kết tất cả các lực lượng có thể đoàn kết được trong dân tộc, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi vừa đáp ứng yêu cầu lâu dài của cách mạng Việt Nam là xây dưng chế độ dân chủ mới tạo tiền đề từng bước tiến lên theo định hướng XHCN. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước , tư tưởng xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần của Hồ Chí Minh vẫn là tư tưởng chỉ đạo rất quan trọng để đưa nền kinh tế đất nước từng bước đi lên CNXH. Từ sản xuất nhỏ đi lên, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần sẽ còn là lâu dài của đất nước ta. Đã có một thời, do nóng vội, chủ quan, chúng ta đã cố tình dùng biện pháp hành chính, cưỡng bức để xoá đi các thành phần kinh tế ‘phi XHCN’, và tưởng rằng như thế là sớm có CNXH. Chúng ta không hiểu rằng làm như vậy là trái với quy luật khách quan, là triệt tiêu cả nhiều mặt tích cực của các thành phần kinh tế mà lẽ ra nó phải được nuôi dưỡng, khuyến khích để phục vụ xã hội, để hỗ trợ cho thành phần kinh tế XHCN mới ra đời còn rất non yếu. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn nước ta lâm vào thời kì khủng hoảng KT-XH nghiêm trọng. Như vậy, sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế ở nước ta là khách quan. Chúng vẫn còn rất cần cho sự phát triển của LLSX đang trong quá trình từ sản xuất thủ công tiến lên cơ khí hoá và tự động hoá ở nước ta. 3. Nội dung chính sách: Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Người xác định rõ vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế: 3.1 Nước ta cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh để tạo ra nền tảng vật chất cho CNXH thúc đẩy việc cải tạo XHCN. 3.2 Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của người dân lao động, nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn giúp đỡ nó phát triển. Về tổ chức HTX, HỒ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc dần dần từ thấp đến cao tự nguyện cùng có lợi chống chủ quan, gò ép, hối thúc. 3.3 Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn khuyến khích đi vào con đường hợp tác. 3.4 Với những nhà tư sản công thương, vì họ đã tham gia ủng hộ cách mạng dân tộc dân chủ có đóng góp nhất định trong khôi phục kinh tế và sẵn sàng tiếp thu, cải tạo để góp phần xây dựng nước nhà, xây dựng CNXH nên Nhà nước không xoá bỏ quyền sở hữu về TLSX và của cải khác của họ mà hưỡng dẫn họ làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp kinh tế nhà nước, khuyến khích, giúp đỡ họ cải tạo theo CNXH bằng các hình thức tư bản nhà nước. Sự phân định các ngành kinh tế một cách cụ thể là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng để từ đó căn cứ đề ra những chính sách kinh tế, chính trị, xã hội thích hợp tạo điều kiện cho kinh tế xã hội phát triển. Tại Đại hội VIII Đảng ta cho rằng ở nước ta tồn tại 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã; Kinh tế tư bản nhà nước; Kinh tế cá thể tiểu chủ; Kinh tế tư bản tư nhân. 3.5 Ngoài 5 thành phần kinh tế đã nói ở Đại hội VIII, Đảng ta còn đề cập đến một thành phần kinh tế nữa đó là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là một thành phần kinh tế quan trọng mới phát triển trong điều kiện nước ta mở cửa hội nhập. 4, Tính đúng đắn của luận điểm: 4.1 Sau hơn 20 năm đổi mới, luận điểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam đã đã ngày càng chứng tỏ sự đúng đắn của mình qua những tác động trên nhiều mặt: 4.1.1 Giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực 4.1.2 Tạo ra cạnh tranh - động lực của tăng trưởng 4.1.3 Thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, huy động sức mạnh tổng hợp để phát triển kinhtế - xã hội 4.1.4 Là con đường xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất... 4.2 Những tác động cụ thể của chính sách: Cơ cấu thành phần kinh tế đã tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Trong GDP, xu hướng chung là tỷ trọng kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể giảm, trong khi tỷ trọng kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên. Trước năm 1990, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài gần như chưa có gì, nhưng đến nay đã chiếm trong GDP tương ứng là 8,9% và 15,9%. Trong khi đó, tỷ trọng kinh tế Nhà nước đã giảm từ 40,2% năm 1995 xuống còn 38,4% năm 2005; kinh tế tập thể giảm tương ứng từ 10,1% xuống còn 6,8%; kinh tế cá thể giảm từ 35,9% xuống còn dưới 30%. Xu hướng này sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới, do những doanh nghiệp tư nhân tiếp tục được thành lập nhiều trong những năm qua từ khi Luật Doanh nghiệp ra đời (trong 5 năm đã gấp 2,6 lần về số doanh nghiệp và trên 6 lần về số vốn đăng ký so với 10 năm trước đó); quá trình tác cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh hơn; do năng lực của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được gia tăng sẽ tạo thành làn sóng mới cả về số vốn đăng ký mới, bổ sung vốn và số vốn thực hiện, cả về cơ cấu nước, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO. Trong tổng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp - thủy sản, tỷ trọng kinh tế hộ tự chủ và kinh tế trang trại tăng lên rõ rệt, tương ứng là sự sút giảm tỷ trọng của kinh tế tập thể và quốc doanh. Đây là yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu để tạo nên sự chuyển biến thần kỳ của sản xuất nông, lâm nghiệp - thủy sản, vừa bảo đảm an ninh lương thực, vừa có khối lượng lương thực xuất khẩu lớn (từ 1989 đến nay đã xuất khẩu gần 50 triệu tấn gạo, thu được trên 11 tỉ USD); vừa phát triển nông nghiệp toàn diện, góp phần đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế, tỷ trọng của kinh tế ngoài nhà nước đã đạt gần 30%, tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 43,7%, đều cao hơn tỷ trọng 27,4% của khu vực nhà nước. Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, khu vực nhà nước đã giảm mạnh (từ 30,4% năm 1990 xuống còn 12,9% năm 2005), khu vực ngoài nhà nước đã tăng lên nhanh (tương ứng từ 69,6% lên 87,1%), trong đó cá thể 60,2%, tư nhân 22,1%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 3,8%, tập thể chỉ còn 1%. Trong tổng số lao động đang làm việc của cả nước, khu vực kinh tế ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhất (88,7%), khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng nhỏ (9,7%), còn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng còn chiếm tỷ trọng thấp (1,6%). Trong tổng số lao động đang làm việc tăng thêm, thì khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng mạnh hơn khu vực nhà nước. Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, khu vực nhà nước chiếm 53,6%, khu vực ngoài nhà nước chiếm 30,9%, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm 15,5%; nếu tách riêng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) thì tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 40%. Như vậy, một trong những thành tựu nổi bật nhất của đổi mới là nền kinh tế đã chuyển từ chỗ dựa trên hai loại hình chủ yếu là xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã sang nền kinh tế thị trường với sự phát triển của các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại, từ trên 13 nghìn nay còn trên 4,5 nghìn; riêng trong 5 năm qua đã cổ phần hóa 2.254 doanh nghiệp, giao, bán, khoán, cho thuê 139 doanh nghiệp... Tuy nhiên, trong cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế cũng còn những hạn chế và đặt ra một số vấn đề cần giải quyết. Doanh nghiệp Nhà nước hiệu quả hoạt động còn thấp; việc sắp xếp, đổi mới còn chậm, chủ yếu mới là số doanh nghiệp quy mô nhỏ, mức vốn thấp; độc quyền nhà nước đã được biến thành độc quyền kinh doanh của nhiều tổng công ty nhà nước; doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong một số ngành, lĩnh vực còn rất lúng túng... Kinh tế tập thể về số lượng gần đây tăng lên, nhưng tỷ trọng về nhiều chỉ tiêu chủ yếu còn thấp và giảm. Kinh tế tư nhân đăng ký nhiều về số lượng, nhưng thực tế đưa vào hoạt động còn ít; quy mô còn nhỏ bé nên tỷ trọng về nhiều chỉ tiêu cũng còn thấp; ngay cả về số lượng thì mật độ doanh nghiệp vẫn còn ít (bình quân 800 người dân mới có 1 doanh nghiệp) nên mục tiêu 500 nghìn doanh nghiệp vào năm 2010 cũng không dễ dàng nếu không có chính sách, giải pháp làm cho người có vốn yên tâm bỏ vốn đầu tư thành lập doanh nghiệp, được cạnh tranh bình đẳng... Trong nông nghiệp rộng lớn, động lực phát triển do kinh tế hộ tự chủ tạo ra đã có dấu hiệu chững lại; việc tích tụ ruộng đất, vốn liếng của kinh tế trang trại khá hơn, nhưng chưa có khả năng hoặc chưa muốn nâng lên thành doanh nghiệp...

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25902.doc
Tài liệu liên quan