Kinh tế tư bản quốc gia là thành phần kinh tế do nhà tư bản ( kể cả trong nước và ngoài nước) và Nhà nước “ hùn vốn” với nhau để kinh doanh trong đó Nhà nước giữ vai trò lãnh đạo. Đây là thành phần kinh tế mà Lênin rất coi trọng trong điều kiện của một nước kém phát triển đi lên. Theo Lênin, thành phần kinh tế này là “ nửa Xã hội chủ nghĩa” và sẽ còn tồn tại lâu dài trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Ở đó giai cấp công nhân phải chấp nhận để giai cấp tư sản bóc lột đến một mức độ nào đó để học hỏi kinh nghiệm của nó. Lênin coi đó là “trả học phí” cho tư sản. Ở nước ta, Hồ Chí Minh rất coi trọng thành phần kinh tế này. Theo Người “Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột nhưng Chính phủ ngăn cấm họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân”
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2495 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tại sao Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ mâu thuẫn biện chứng, tức là mối quan hệ thống nhất của hai xu hướng có khả năng vận động trái ngược nhau. Sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là đi từ sự thổng nhất đến những khác biệt căn bản và dẫn đến sự xung đột giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển đó, khi đó bắt đầu nhu cầu những cuộc cải cách, hoặc cao hơn là một cuộc cách mạng, nhằm thực hiện sự cải biến những quan hệ sản xuất hiện thời theo hướng làm cho nó phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, nhở đó tái thiết lập một sự phù hợp mới. Sở dĩ mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là mối quan hệ thống nhất của các mặt đối lập vì lực lượng sản xuất có xu hướng “động”, còn quan hệ sản xuất có xu hướng “tĩnh”. Như vậy sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là đi từ sự thống nhất đến mâu thuẫn và một khi mâu thuẫn được giải quyết thì lại tái thiết lập một sự thống nhất mới; quá trình này lặp đi lặp lại trong lịch sử tạo ra quá trình vận động và phát triển của phương thức sản xuất – của nền sản xuất xã hội và sự phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Thực tiễn kinh nghiệm của Liên Xô với chính sách kinh tế mới NEP:
Hoàn cảnh lịch sử:
Cuối năm 1920, nội chiến kết thúc, nước Nga chuyển sang thời kỳ kiến thiết trong hoà bình. Do đó chính sách “ Kinh tế cộng sản thời chiến” đã làm xong vai trò lịch sử bất đắc dĩ của nó, giờ đây không cho phép nó dẫn đi xa hơn nữa vì nông dân quá nhiều nơi tỏ ra bất mãn với chính sách cộng sản thời chiến( thể hiện ở các cuộc bạo loạn Cron-stat gần Lêningrat); khối liên minh công nông có nguy cơ tan vỡ; nền kinh tế rơi vào khủng hoảng. Do đó cần phải trở lại thực hiện kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội do Lênin đề ra năm 1918, phải trở lại những quan hệ kinh tế khách quan giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa thành thị và nông thôn. Do những yêu cầu đó, Đại hội X Đảng cộng sản Bônsêvich Nga( họp từ ngày 8 đến 16/3/1921) đã chủ trương thay “Chính sách cộng sản thời chiến” bằng chính sách “Kinh tế mới” – NEP.
Nội dung cơ bản của chính sách kinh tế mới – NEP mà Lênin thực hiện:
Bãi bỏ chế độ trưng thu lương thực của nông dân thay vào đó là thuế lương thực.
Chủ trương thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần trong đó thành phần kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Những xí nghiệp nhỏ trước đây bị quốc hữu hoá, nay cho tư nhân thuê hoặc mua lại để kinh doanh tự do( chủ yếu là các xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng).
Cho phép mở rộng trao đổi hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, cho thương nhân được tự do hoạt động – chủ yếu trên lĩnh vực bán lẻ - để góp phần khôi phục kinh tế, củng cố lại lưu thông tiền tệ trong nước.
Thực hiện chính sách hạch toán kinh tế trong các xí nghiệp quốc doanh.
Kêu gọi nước ngoài đầu tư.
Qua các nội dung trên, chính sách kinh tế mới NEP đã tạo điều kiện phát triển lực lượng sản xuất ở cả thành thị và nông thôn, vì nó đáp ứng được yêu cầu của quy luật kinh tế của nến sản xuất xã hội chủ nghĩa còn có nhiều tính chất hàng hoá và có nhiều thành phần.
Thành tựu mà chính sách kinh tế mới NEP đã đạt được:
Về thực tiễn, nhờ việc thực hiện chính sách kinh tế mới NEP cùng với việc vận dụng nguyên tắc liên minh công nông, quan hệ hàng hoá tiền tệ và sử dụng nền kinh tế hàng hoá nhiều hành phần mà trong một thời gian ngắn, Nhà nước Liên Xô đã khôi phục được nền kinh tế quốc dân bị chiến tranh tàn phá, đã tiến được một bước dài trong việc củng cố khối liên minh công nông; một nhà nước công nông nhiều dân tộc lần đầu tiên trên thế giới được thành lập – Liên bang cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết (30/12/1922).
Đến cuối năm 1922, Liên Xô đã vượt qua được nạn đói và đến mức trước chiến tranh. Tổng sản lượng lương thực của Liên Xô đã tăng từ 41,2 triệu tấn (năm 1921) lên đến 74,6 triệu tấn (năm 1925). Tổng sản lượng công nghiệp tăng. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá năm 1926 đã bằng 2 lần năm 1924. Mở rộng quan hệ buôn bán với hơn 40 nước – thực hiện nguyên tắc độc quyền ngoại thương…
Về lý luận, nó phát triển nhận thức sâu sắc về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sự đúng đắn áp dụng nhiều thành phần trong cơ cấu kinh tế. Ở nước ta từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, những quan điểm kinh tế của Đảng ta đã thể hiện sự nhận thức và vận dụng “ chính sách kinh tế mới” của V.I.Lênin phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của thời kỳ quá độ ở nước ta.
Tình hình thực tiễn ở Việt Nam khi Hồ Chí Minh thực hiện chính sách đó.
Kinh tế Việt Nam trước năm 1954
Giai đoạn trước 1945
Trước năm 1945, sau khi xác lập được hệ thống cai trị, thực dân Pháp bắt tay vào quá trình khai thác qui mô nhằm vơ vét khoáng sản và nhân công rẻ mạt ở Việt Nam. Kinh tế Việt Nam chịu tác động mạnh mẽ của những chính sách khai thác bóc lột của Pháp. Nền nông nghiệp nhỏ bé, manh mún, lạc hậu; công nghiệp kém phát triển, thực dân Pháp chỉ tập trung vào phát triển những nngành công nghiệp khai khoáng nhằm phục vụ cho mục đích vơ vét tài nguyên của chúng. Tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp hầu như không được quan tâm phát triển. Do đó cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải và các dịch vụ xã hội cũng vô cùng thiếu thốn và lạc hậu.
Từ năm 1930 - 1945, thực dân Pháp đã tập trung khai thác tài nguyên của nước ta: 2765,7 nghìn tấn than, 217,3 nghìn tấn kẽm, chì; 598 nghìn tấn sắt, măng gan, 1384 kg vàng, 315,5 nghìn tấn phốt pho.
Trong nông nghiệp, năng suất lúa bình quân 1 ha thời kỳ 1930 - 1944 là 12 tạ, trong khi đó Thái Lan là 18 tạ, Nhật Bản là 34 tạ.
Ruộng đất phần lớn tập trung trong tay giai cấp địa chủ phong kiến và thực dân Pháp. Nhân dân lao động chiếm 97% số hộ nhưng chỉ sử dụng 36% ruộng đất. Trong nông thôn có tới 59,2% số hộ không có ruộng đất phải sống bằng cày thuê, cuốc mướn. Nghịch cảnh sâu sắc diễn ra dưới thời thực dân Pháp chiếm đóng: hàng năm Việt Nam xuất khẩu trên 1 triệu tấn gạo trắng, nhưng nông dân Việt Nam, người làm ra lúa gạo, lại luôn luôn phải chịu cảnh đói nghèo. Năm 1945 ở miền Bắc có trên 2 triệu người chết đói.
Thực dân Pháp đã thực hiện một nền giáo dục nô dịch, trên 90% dân số nước ta bị mù chữ. Thời kỳ 1931 - 1940 trong 100 người dân chưa được 3 người đi học, trên 3 vạn dân mới có một học sinh cao đẳng hoặc đại học.
Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954
Năm 1945, với sự thành công của Cách mạng tháng 8 (19/8/1945), sau khi chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, dân tộc Việt Nam tập trung xây dựng đất nước trong tình hình mới. Năm 1946, tiến hành bầu cử toàn dân trong cả nước, chứng minh đất nước là của nhân dân. Tuy nhiên với mưu toan xâm lược nước ta một lần nữa, thực dân Pháp xâm phạm chủ quyền và định chiếm các thành phố, thị trấn của ta. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn dân kháng chiến của Đảng và Chính phủ, nhân dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến đầy gian khổ nhưng rất anh hùng.
Cùng với nhiệm vụ thực hiện cuộc kháng chiến chống chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, chúng ta đã thực hiện chuyển nền kinh tế đầy dãy tàn tính thực dân, phong kiến và thấp kém thành nền kinh tế dân chủ, độc lập phục vụ nhu cầu kháng chiến và kiến quốc. Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định rõ nhiệm vụ quan trọng của miền Bắc là phát triển kinh tế. Đó là đường lối đúng đắn, thể hiện mục đích của cách mạng, quyết tâm của Đảng cũng như tư tưởng độc lập, tự chủ của Bác Hồ và của Đảng ta.
Đảng và Chính phủ đã chú trọng trước hết đến sản xuất nông nghiệp, không ngừng động viên nông dân ra sức tăng gia sản xuất, đồng thời tiến hành từng bước chính sách ruộng đất để giải phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn, cải thiện đời sống cho nông dân, góp phần nâng cao sức chiến đấu của quân đội. Sản lượng lương thực quy thóc đạt 2,95 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946, trong đó 2,3 triệu tấn thóc tăng 15,9%.
Công nghiệp và thủ công nghiệp kháng chiến được xây dựng, đặc biệt là công nghiệp quốc phòng đã góp phần không nhỏ đáp ứng nhu cầu chiến đấu và tiêu dùng. Ngoài số lượng lớn về vũ khí đạn dược, các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu được sản xuất ngày càng nhiều. Từ năm 1946 - 1950 đã sản xuất 20 nghìn tấn than cốc, 800 kg ăngtimon. Từ năm 1950 đến cuối năm 1952 sản xuất được 29,5 tấn thiếc, 43,0 tấn chì. Những năm 1950 - 1954 đã sản xuất được 169,3 triệu mét vải, 31,7 nghìn tấn giấy.
Cùng với nỗ lực đẩy mạnh sản xuất, sự nghiệp giáo dục - chống giặc dốt được coi là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, đi đôi với chống giặc ngoại xâm, giặc đói. Từ 1946 đến 1954 có 10,5 triệu người thoát nạn mù chữ.
Ngay từ năm 1953, khi đang tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, Người đã chỉ rõ những thành phần kinh tế cần được phát triển ở nước ta. Sau đó, Người tiếp tục nêu rõ các thành phần kinh tế khác nhau được tạo điều kiện để phát triển và phải được đối xử bình đẳng, có sự quan tâm của Nhà nước và có nghĩa vụ, đóng góp thiết thực cho sự phát triển của đất nước.
Với đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế, Đảng đã chỉ ra cơ cấu kinh tế nước ta hiện nay gồm có 6 thành phần; kinh tế nhà nước kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư ở nước ngoài và khẳng định các thành phần kinh tế ở trên, đều bình đẳng, được tạo điều kiện ổn định và phát triển lâu dài. Điều này chính là chúng ta đã trở lại đúng với tư tưởng phát triển kinh tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở nước ta.
Thực trạng kinh tế đất nước từ sau 1954
Đánh dấu bằng chiến thắng Điện Biên Phủ 7/5/1954, miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng và bắt đầu thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong khi miền Nam vẫn tiếp tục với cuộc đấu tranh dân tộc, dân chủ nhân dân nhằm thống nhất đất nước, toàn vẹn lãnh thổ. Đặc điểm cơ bản của miền Bắc trong thời kỳ này là: nền kinh tế từ sản xuất nhỏ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; nền kinh tế chủ yếu là một nền nông nghiệp lạc hậu, tự cung tự cấp, vừa mới thoát thai từ xã hội thuộc địa nửa phong kiến lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản để lại hết sức kém cỏi, non yếu. Công nghiệp mới phôi thai. Năm 1954, sản lượng công nghiệp chỉ chiếm khoảng 1,5% tổng sản lượng công nông nghiệp.Trong điều kiện đó Đảng chủ trương nhanh chóng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,tiếp tục thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần đã được chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra từ giai đoạn trước đồng thời hình thành cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung bao cấp. Theo đó các nguồn lực chủ yếu của quá trình sản xuất (đất đai, vốn và lao động) được công hữu hoá với hai thành phần cơ bản là quốc doanh và tập thể. Các vấn đề: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai đều do nhà nước quyết định.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần.
Hoàn cảnh lịch sử hình thành tư duy kinh tế của Hồ Chí Minh.
Những năm 1954-1969 nằm trong giai đoạn mà nước ta phải tiến hành đồng thời 2 nhiệm vụ cách mạng: Miền Bắc tiến lên CNXH và miền Nam tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ. Bởi vậy, việc sản xuất ở miền Bắc không chỉ hướng vào việc xây dựng tiền đề vật chất - kỹ thuật cho CNXH và nâng cao đời sống của nhân dân mà còn làm cơ sở cho công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Trên trường quốc tế lúc đó hệ thống XHCN thế giới còn tồn tại và lớn mạnh, đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, khoa học kỹ thuật; so sánh lực lượng trên thế giới có lợi cho CNXH và mô hình CNXH theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung chưa bộc lộ các khuyết tật của nó, vẫn đang còn sức hấp dẫn các nước đi sau trong đó có Việt Nam .
Cùng với bối cảnh lịch sử đó và trên cơ sở tiếp thu tư tưởng Chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội với đặc điểm kinh tế cơ bản là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, Hồ Chí Minh đã tổng hợp, phân tích một cách đúng đắn các hiện tượng và quá trình kinh tế, từ đó mới hiểu được quy luật phát triển kinh tế của Việt Nam.
Tính tất yếu của việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam.
Nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp, phải trải qua nhiều sự tàn phá của chiến tranh xâm lược, tàn tích phong kiến còn nhiều, nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển do đó một yêu cầu bức thiết là phải nhanh chóng tìm cách phát triển lực lượng sản xuất và phát triển kinh tế.
Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành phần kinh tế. Chúng cùng tồn tại và phát triển như một tổng thể, giữa chúng có quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau. Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng trong thời kỳ quá độ lên CNXH, là một tất yếu khách quan. Bởi vì:
Thứ nhất, một số thành phần kinh tế của phương thức sản xuất cũ như: kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân... để lại chúng đang còn có tác dụng đối với sự phát triển LLSX.
Thứ hai, một số thành phần kinh tế mới hình thành trong quá trình cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới như: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản Nhà nước. Các thành phần kinh tế cũ và các thành phần kinh tế mới tồn tại khác quan, có quan hệ với nhau cấu thành cơ cấu kinh tế, trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Sự tồn tại nền nhiều thành phần kinh tế là một hiện tượng khách quan cho nên chúng đều có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của LLSX. Những thành phần kinh tế đặc trưng cho PTSX cũ chỉ mất đi khi không còn tác dụng đối với sự phát triển LLSX.
Nguyên nhân cơ bản của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá lên CNXH, suy cho dến cùng là do quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX quy định. Thời kỳ quá độ ở nước ta do trình độ LLSX còn thấp, lại phân bố không đều giữa các ngành, vùng, nên tất yếu còn tồn tại nhiều loại hình, hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
Nội dung chính sách mà chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện.
Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta trong suốt thời kỳ quá độ. Trong “ Thường trực chính trị” viết vào năm 1953, Hồ Chí Minh cho rằng nước ta ( vùng tự do) nền kinh tế còn tồn tại nhiều thành phần: Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô; Kinh tế quốc doanh có tính chất Chủ nghĩa Xã hội; Kinh tế hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã xung cấp, các hội đổi công nông thôn, có tính chất Xã hội chủ nghĩa; Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công mĩ nghệ; Kinh tế tư bản của tư nhân; Kinh tế tư bản quốc gia.
Theo Người, Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô là thành phần kinh tế đã lỗi thời. Tuy nhiên để thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, thu hút một số địa chủ vừa và nhỏ theo cách mạng, ủng hộ kháng chiến, Hồ Chí Minh không chủ trương xoá bỏ thành phần kinh tế này một cách giản đơn mà chỉ thực hiện giảm tô, giảm tức. Từ đó tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này đóng góp cho kháng chiến thắng lợi.
Kinh tế quốc doanh tồn tại các cơ sở sản xuất kinh doanh của Nhà nước, là của chung của nhân dân, phục vụ lợi ích của xã hội. Đây là thành phần kinh tế mới ra đời trong chế độ dân chủ mới, chỉ có nó mới đáp ứng được những yêu cầu to lớn của cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta. Theo Hồ Chí Minh “ nó là nền tảng và sức mạnh lãnh đạo của nền kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó”.
Kinh tế hợp tác xã, theo Hồ Chí Minh đã có tính chất nửa Xã hội Chủ Nghĩa. Ở đó, “ nhân dân góp nhau để mua những thứ mình cần dùng, hoặc để bán những thứ mình sản xuất chứ không phải kinh doanh qua các con buôn. Ở nông thôn, những người nông dân có các hội đổi công. Họ giúp nhau sản xuất, khắc phục những khó khăn lúc thời vụ, lúc thiếu lao động, lúc chống lại thiên tai …. Cũng từ đó mà tăng cường tình làng nghĩa xóm, đoàn kết cộng đồng. Thành phần kinh tế này sẽ ngày càng củng cố và phát triển cùng với sự đi lên của xã hội.
Kinh tế cá nhân của nông dân và thợ thủ công là thành phần kinh tế cá thể tự cấp tự túc. Họ sở hữu một ít tư liệu sản xuất nhỏ bé, lạc hậu, và do đó năng suất lao động rất thấp, “ ít có gì bán và cũng ít khi mua gì”. Tuy nhiên trong điầu kiện kháng chiến, đất nước còn nghèo nàn lạc hậu, lại đang bị kẻ thù bao vây tứ phía, thì đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế của giai cấp tư sản dân tộc. Mặc dù giai cấp tư sản có bóc lột giai cấp công nhân nhưng đồng thời họ cũng góp phần vào phát triển kinh tế đất nước. Giai cấp tư sản nước ta cũng là mới ra đời, còn non yếu. Trả lời báo nước ngoài năm 1947, Hồ Chí Minh nói rõ: “Chúng tôi không chủ trương giai cấp tranh đấu vì một lẽ tầng lớp tư sản Việt Nam đã bị kinh tế thực dân đè nén không cất đầu lên được, khiến cho kinh tế Việt Nam đã bị tiêu diệt, dân bần cùng tài tận. Trái lại tôi chủ trương làm cho tư sản Việt Nam phát triển. Họ có nhiều kinh nghiệm sản xuất, sử dụng vốn, sử dụng khoa học kỹ thuật,… nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đa số nhân dân.”.
Kinh tế tư bản quốc gia là thành phần kinh tế do nhà tư bản ( kể cả trong nước và ngoài nước) và Nhà nước “ hùn vốn” với nhau để kinh doanh trong đó Nhà nước giữ vai trò lãnh đạo. Đây là thành phần kinh tế mà Lênin rất coi trọng trong điều kiện của một nước kém phát triển đi lên. Theo Lênin, thành phần kinh tế này là “ nửa Xã hội chủ nghĩa” và sẽ còn tồn tại lâu dài trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Ở đó giai cấp công nhân phải chấp nhận để giai cấp tư sản bóc lột đến một mức độ nào đó để học hỏi kinh nghiệm của nó. Lênin coi đó là “trả học phí” cho tư sản. Ở nước ta, Hồ Chí Minh rất coi trọng thành phần kinh tế này. Theo Người “Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột nhưng Chính phủ ngăn cấm họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân”
Như vậy, ngay trong điều kiện kháng chiến, Hồ Chí Minh đã thấy được tính tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thủ công lạc hậu, manh mún hiện có. Phát triển kinh tế lúc đó vừa để kiến thiết đất nước, vừa là để kịp thời phục vụ cho cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ của nhân dân.
Khi chế độ dân chủ mới ở nước ta ra đời và phát triển, giai cấp địa chủ phong kiến sẽ ngày càng bị thu hẹp, thành phần kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô ngày càng mất dần vị trí và sẽ bị thủ tiêu trong xã hội. Vì vậy theo Hồ Chí Minh, trong chế độ dân chủ mới sẽ có 5 thành phần kinh tế chính được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên sau:
Kinh tế quốc doanh ( thuộc Chủ nghĩa Xã hội, vì nó là của chung của nhân dân);
Các hợp tác xã ( nó là nửa chủ nghĩa Xã hội và sẽ tiến đến Chủ nghĩa Xã hội);
Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ ( có thể tiến dần vào hợp tác xã nghĩa là nửa Chủ nghĩa xã hội);
Tư bản của tư nhân;
Tư bản của nhà nước ( như nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh).
Trong 5 loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mạnh hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không phải theo hướng chủ nghĩa tư bản.
Tính đúng đắn của luận điểm.
Việc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời ỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta đã được chủ tịch Hồ Chi Minh đưa ra từ những năm 1946. Trải qua nhiều Đại Hội Đảng, chủ trương đó vẫn được vận dụng để phát triển kinh tế đất nước tương ứng với những điều kiện lịch sử khác nhau. Đặc biệt phải nói tới Đại hội Đảng cộng sản toàn quốc lần thứ VI (1986) đã có bước đột phá quan trọng, đổi mới nhận thức về thành phần kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhờ có thành công của Đại hội VI, các kỳ Đại hội VII, VIII, quan niệm về nền kinh tế nhiều thành phần dần dần có sự đổi mới, các thành phần được khuyến khích phát triển, cùng với quá trình "sản xuất bung ra", kinh tế thị trường được hình thành, khách quan đòi hỏi tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước và vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa được nhấn mạnh. Tuy nhiên, tư duy về sở hữu vẫn nằm trong khuôn khổ của chế độ sở hữu với 5 thành phần kinh tế. Đến Đại hội IX, nhận thức về hình thức sở hữu mới có một bước đột phá mới, đó là đa dạng hoá các hình thức sở hữu, theo đó các thành phần kinh tế cũng được khái quát lại cho phù hợp hơn với thực tiễn đang vận động.
Hoàn cảnh diễn ra Đại hội VI.
Sau 10 năm nước ta giành được độc lập (1975), thống nhất đất nước và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong quy mô cả nước, để phát triển kinh tế đất nước, khôi phục nền kinh tế bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, Đảng và Nhà nước đã vận dụng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở các nước XHCN đi trước ( Liên Xô) để xây dựng mô hình kinh tế cho Việt Nam. Tuy nhiên, đến 1986, Đảng và Nhà nước đã nhận thấy những khuyết điểm của nền kinh tế tập trung bao cấp, và cảm thấy nó không còn phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của thế giới trong thời kỳ mới. Tình hình kinh tế - xã hội có những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn…
Theo những điều trên, Đảng thấy cần thiết phải tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI để đề ra chiến lược phát triển mới cho đất nước.
Nội dung Đại hội Đảng VI.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm khuyết điểm, đổi mới tư lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội đề ra đường lối đổi mới:
Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công – nông nghiệp; cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng; cơ cấu kinh tế huyện).
Tiếp theo là thực hiện ba chương trình kinh tế bao gồm chương trình lương thực, thực phẩm; chương trình hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu.
Cuối cùng xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế.
Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc: (1) Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp. (2) Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. (3)Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chính sách xã hội, kế hoạch hoá dân số và giải quyết việc làm cho người lao động. Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân. Trên lĩnh vực đối ngoại nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta là ra sức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý đã được Đại hội lần thứ VI xác định là “cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”. Phương thức vận động quần chúng phải được đổi mới theo khẩu hiệu: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đó là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình.
Thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng và kinh tế Việt Nam sau 1986.
Đại hội VI của Đảng tháng 12/1986 đã quyết định thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, nhất là đổi mới về mặt tư duy kinh tế.
Trong công nghiệp, Quyết định 217 HĐBT tháng 11/1987 trao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện hạch toán kinh tế, lấy thu bù chi, xóa dần bao cấp, giảm bớt các chỉ tiêu pháp lệnh, khuyến k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25408.doc