Để đưa đất nước thoát dần ra khỏi cuộc khủng hoảng đã kéo dài hàng chục năm, tháng 12-1986, Đại hội VI của Đảng quyết định thực hiện đường lối đổi mới toàn diện , mở ra thời kỳ mới của phát triển kinh tế Việt Nam. Kết quả nổi bật của kinh tế Việt Nam trong gần 20 năm qua là tốc độ tăng trưởng GDP khá cao qua các thời kỳ gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2091 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tại sao Hồ Chí Minh lại chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đổi mới và hội nhâp (1986-2005)-> Đại hội VI của Đảng quyết định đổi mới toàn diện
-> Kế hoạch 5 năm (1986-1990) -> cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng tăng dần
3.Nội dung chính sách
Người nhấn mạnh đến việc tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa -> Người xác định rõ vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế -> Hồ Chí Minh còn rất coi trọng quan hệ phân phối và quản lý kinh tế -> Khoán trong sản xuất.
4.Tính đúng đắn của luận điểm
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã chủ chương phát triển nền kinh kế hàng hóa nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn -> Chính sách kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH ->thực hiện dân giầu nước mạnh, tiến lên hiện đại hoá.
1.Xuất phát lý luận
Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực là hoàn toàn phù hợp với quy luật vận động, phát triển khách quan của lịch sử xã hội, phù hợp với tiến trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội. Cho dù đến nay, chủ nghĩa xã hội vẫn chưa xuất hiện ở những nơi mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến trình độ cao.
Theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác thì lực lượng sản xuất, xét đến cùng, bao giờ cũng là cái đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi phương thức sản xuất, dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội, thay đổi một chế độ xã hội mà Mác gọi là hình thái kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, Mác đi đến kết luận: xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là một hình thái kinh tế - xã hội. Và tiến bộ xã hội chính là sự vận động theo hướng tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Mác khẳng định: “tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.
Mặc dù khẳng định quá trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội là tiến trình bị quy định bởi các quy luật khách quan, nhưng Mác cũng luôn luôn cho rằng, con người “có thể rút ngắn và làm dịu bớt những cơn đau đẻ”. Điều đó có nghĩa là, trong quan niệm của Mác đã hàm chứa tư tưởng: quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những có thể diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn có thể diễn ra bằng con đường bỏ qua một giai đoạn phát triển nào đó, một hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong những điều kiện và hoàn cảnh khách quan cụ thể nhất định. Như vậy về mặt lý luận, chúng ta có thể khẳng định sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay là quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc, phù hợp với quy luật phát triển khách quan của lịch sử và xu thế phát triển của thời đại. Chúng ta đã chứng kiến sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu và đã trải nghiệm những thành công của công cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc. Trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây có nguyên nhân xa rời bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tách rời tính cách mạng với tính khoa học trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm duy vật lịch sử đó của Mác đã cho chúng ta phương pháp nhận thức tổng thể các quan hệ xã hội bằng cách “quy” các quan hệ tư tưởng về các quan hệ vật chất, rồi từ các quan hệ vật chất rút ra các quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là những quan hệ đầu tiên, cơ bản nhất, xét đến cùng, quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác. Những quan hệ đó “hình thành sợi chỉ xuyên qua toàn bộ sự phát triển, sợi chỉ duy nhất có thể làm cho ta hiểu được sự phát triển” của lịch sử xã hội. Nhưng “những quan hệ sản xuất của bất cứ xã hội nào cũng hợp thành một thể thống nhất” nên để hiểu được nó thì phải “viện đến tất cả những quan hệ khác của xã hội”. Chính việc rút ra những quan hệ vật chất, theo Lênin, Mác đã cung cấp cho khoa học xã hội một tiêu chuẩn khách quan để vạch ra ranh giới và phân biệt được cái cơ bản với cái phát sinh trong mạng lưới phức tạp của những hiện tượng xã hội. Con người không thể tiến hành sản xuất vật chất được nếu chỉ quan hệ với nhau (quan hệ sản xuất), mà con người còn phải quan hệ với tự nhiên (nguồn cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho sản xuất) - biểu hiện ở lực lượng sản xuất vật chất của xã hội***. Đó là quan hệ “kép”, hay theo Mác, là “quan hệ song trùng” mang tính khách quan, phổ biến trong lịch sử sản xuất vật chất của nhân loại nhằm mục đích cải biến tự nhiên và xã hội. Trình độ của lực lượng sản xuất nói lên trình độ của người lao động và của công cụ lao động. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất biện chứng trong một phương thức sản xuất nhất định. Trong đó, những quan hệ sản xuất “phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất”. Như thế, quan hệ sản xuất được coi như là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất. Do sự phát triển không ngừng của sản xuất vật chất làm cho lực lượng sản xuất luôn biến đổi cùng với sự biến đổi to lớn về trình độ của người lao động và công cụ sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách thức kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình, mà trước hết là quan hệ sản xuất vật chất. Tính quyết định sự thay đổi của quan hệ sản xuất thuộc về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mác khẳng định: “Khi những tư liệu sản xuất vật chất, những lực lượng sản xuất mà thay đổi và phát triển thì những quan hệ xã hội trong đó những cá nhân sản xuất, tức là những quan hệ sản xuất xã hội, cũng thay đổi, biến đổi theo”. Trong mối quan hệ với lực lượng sản xuất, mặc dù bị quyết định nhưng quan hệ sản xuất, đến lượt mình, lại tác động trở lại làm ảnh hưởng đến sự biến đổicủa lực lượng sản xuất. Điều này được Mác nêu rõ: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay - đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó - mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất vật chất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất”. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn luôn tồn tại sẵn trong mỗi phương thức sản xuất. Nhưng chỉ khi quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích trói buộc và kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất thì mới dẫn đến đòi hỏi tất yếu khách quan là phải thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới cao hơn. “Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.
Thực tiễn kinh nghiệm ở các nước
Thực tiễn kinh nghiệm ở Liên Xô
Công nghiệp quân sự mới là xương sống của nền kinh tế Liên Xô. Do đó, để kích thích và đa dạng hóa nền kinh tế, Liên Xô phải cắt giảm mạnh và cải tổ lĩnh vực sản xuất khí tài với hy vọng giảm dần việc sản xuất tên lửa đạn đạo sang làm giày phụ nữ... Tuy nhiên, kế hoạch này bị giới tướng lĩnh phản đối gay gắt với lý do: Mỹ và Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương là nguy cơ trực tiếp tới an ninh quốc gia.
Chưa dừng lại, chương trình cải tổ ngành nông nghiệp ở Liên Xô cũng gặp khó khăn bởi sau hàng chục năm tồn tại, hệ thống nông trường tập thể quá lạc hậu, giới công chức sơ cứn g, không chịu thay đổi, còn người nông dân không có khát vọng lao động để cải thiện đời sống... Tóm lại, cải cách nền kinh tế dựa vào ngành sản xuất khí tài khó hơn là ngành nông nghiệp.ở phía Bắc, Liên Xô không thể mơ về những sự trợ giúp như vậy từ nước ngoài dù ông Gorbachev nỗ lực dừng cuộc chạy đua vũ trang đang khiến Liên Xô “chảy máu”...cũng như đưa ra nhiều sáng kiến khác.
Hơn nữa sự sụp đổ còn có nguyên nhân là bởi vì nhà lãnh đạo Liên Xô bấy giờ là Gióc ba chốp đã phạm một sai lầm không thể cứu vãn được. Đó là thay đổi hệ tư tưởng thay vì thay đổi nền kinh tế. Trong khi những bất ổn về kinh tế, chính trị kéo dài từ cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 đã đòi hỏi các nước XHCN phải tiến hành thay đổi. Lãnh đạo Liên Xô bấy giờ đã thay đổi bằng biện pháp cải cách, nhưng lại là cải cách về chính trị chứ không phả cải cách về kinh tế. Điều này không những không có ích cho công cuộc cải cách mà còn làm cho những thành quả trước đây trở thành công cốc. Xã hội cứ tiếp tục bất ổn, nền kinh tế tiếp tục suy thoái, thêm vào đó là sự chống phá liên tục từ phái Tây Âu. Tất cả đều dẫn đến một sự tan rã không tránh khỏi.
Thực tiễn kinh nghiệm ở Trung Quốc
Trung Quốc rơi vào hỗn loạn sau Cách mạng văn hóa (1966 – 1976). Tới năm 1978, phần lớn người Trung Quốc hiểu rằng họ cần một cuộc cải tổ triệt để.
Người đứng đầu cuộc cải cách ở Trung Quốc là ông Đặng Tiểu Bình có nhiều kinh nghiệm, được tự do đưa ra những cải tổ sâu rộng.
Trước cải cách, Trung Quốc là quốc gia nông nghiệp, 80% dân số là nông dân, những người khao khát được làm việc trên mảnh ruộng của chính mình. Và khi ông Đặng biến giấc mơ của họ thành hiện thực, tình hình biến chuyển nhanh chóng tới mức ngay cả những người bảo thủ, hoài nghi cũng phải thừa nhận cải tổ thành công. Và với xuất phát điểm thuận lợi là nông nghiệp, ông Đặng có cơ sở để công nghiệp hóa và cải cách các lĩnh vực khác.
Trung Quốc cải cách thành công vì Bắc Kinh khi đó có quan hệ quân sự, chính trị gần với phương Tây trên cơ sở chống Moscow nên được Mỹ và đồng minh nồng nhiệt ủng hộ, giúp đỡ cải cách trong mảng quốc doanh lẫn tư nhân. Cùng với lượng lớn kiều bào ở nước ngoài tích cực góp sức, Trung Quốc cải cách nhanh, mạnh và hiệu quả.
2.Thực tiễn ở Việt Nam
Thực tiễn cho thấy, công cuộc đổi mới đất nước ngày càng đi vào chiều sâu thì chúng ta càng phải đối diện với những vấn đề khó khăn, phức tạp mới. Đất nước hiện đang đứng trước cả cơ hội lớn và thách thức lớn. Tất cả đều đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại cho đúng, vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với bối cảnh mới của thế giới và trong nước hiện nay.
Vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã ngày càng làm sáng tỏ con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới. Đó là con đường “phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền tảng kinh tế hiện đại”. Rõ ràng, chúng ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa với phương thức “phát triển rút ngắn” nhằm đạt tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xây dựng chủ nghĩa xã hội, đương nhiên là một sự nghiệp to lớn, lâu dài, đầy khó khăn phức tạp. Nhưng thực tiễn luôn luôn là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn hai mươi năm đổi mới đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài, đã hoàn thành những nhiệm vụ cơ bản của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ và bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quán triệt bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy tính độc lập, sáng tạo, đồng thời kế thừa tinh hoa trí tuệ dân tộc, những kinh nghiệm và thành tựu khoa học, văn hóa của thế giới, nhất định chúng ta sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của những người cộng sản và nhân dân thế giới.
Với thành công ngày càng to lớn của công cuộc đổi mới, đất nước ta, một lần nữa trở thành nơi gửi gắm niềm tin và sự kỳ vọng của bạn bè quốc tế. Việt Nam hôm nay đang được nhìn nhận một cách đầy ngưỡng mộ: “Đường lối đổi mới trong đó kết hợp kinh tế thị trường với kế hoạch, tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở công nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là con đường của những người mở đường mới mẻ trong lịch sử... hy vọng rằng Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam, đã từng chiến thắng trong cuộc đấu tranh đầy gian khổ trước đây, sẽ thành công trước thách thức mới trên chặng đường mà chưa một ai đi qua”
2.1 Giai đoạn kinh tế Việt Nam trong cơ chế bao cấp (1975-1985)
Sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất và cùng đi lên CNXH, kinh tế Việt Nam thống nhất bước vào thời kỳ phát triển mới theo các kế hoạch 5 năm với những mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho CNXH, theo đường lối “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”.
Trong kế hoạch 5 năm 1976-1980, ngoài nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, Nhà nước đã tập trung 1/3 tổng số chi ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản, chủ yếu là xây dựng các công trình thuỷ lợi, giao thông, thuỷ điện, khai hoang, cải tạo đồng ruộng... Trong nông nghiệp, sau 5 năm, cả nước đã phục hoá 500 nghìn ha, khai hoang 700 nghìn ha, xây dựng mới hàng trăm công trình thuỷ lợi lớn nhỏ. Diện tích được tưới tiêu bằng các công trình thuỷ lợi năm 1980 tăng 860 nghìn ha. Nông nghiệp được trang bị thêm 18 nghìn máy kéo, đưa diện tích được cày bừa bằng máy lên 25%. Diện tích rừng trồng mới tăng 580 nghìn ha trong 5 năm tương ứng.
Chủ trương cải tạo XHCN theo mô hình tập thể hoá triệt để, điều chỉnh ruộng đất ở Nam Bộ theo lối cào bằng, thu mua lương thực theo giá thấp, ngăn sông cấm chợ... đã tác động xấu đến sản xuất nông nghiệp. Hậu quả là nông nghiệp sa sút lớn, nhất là ở Nam Bộ. Chung cả nước, tất cả các chỉ tiêu kế hoạch đề ra đều không đạt, trong đó sản lượng lương thực bằng 69%, đàn lợn bằng 61%, cá biển bằng 38%, trồng rừng bằng 48% kế hoạch.
Kế hoạch 5 năm 1981-1985, nhà nước đã có bước điều chỉnh về cơ chế, chính sách nông nghiệp, trong đó nổi bật nhất là chỉ thị 100 của Ban Bí thư TW Đảng về khoán cây lúa đến nhóm và người lao động. Chỉ thị 100 đã cởi trói cho hộ xã viên, giải phóng sức sản xuất trong nông nghiệp, tạo động lực mới đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng sản xuất.
Sản lượng lương thực tăng từ 14,4 triệu tấn năm 1980 lên 16,8 triệu tấn năm 1982 và 18,2 triệu tấn năm 1985. Lương thực bình quân nhân khẩu năm 1985 đạt 304 kg, tăng 13,8% so với năm 1980, về cơ bản đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Giá trị sản lượng nông nghiệp tăng 5,1%/năm. Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn phát triển không đều và không vững. Kết thúc kế hoạch 5 năm 1981-1985 sản lượng lương thực chỉ đạt 95,8% kế hoạch. Trong trồng trọt, sản xuất vẫn mang nặng tính độc canh lúa, tự cung tự cấp là chủ yếu.
Thực hiện đường lối ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, nhà nước đã dành 35% vốn đầu tư cho công nghiệp. Nhờ đó, trong kế hoạch 5 năm 1976-1980, ngành công nghiệp đã có thêm 714 xí nghiệp quốc doanh, trong đó 415 xí nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nặng. Công suất của nhiều ngành công nghiệp tăng lên rõ rệt: trong đó thép tăng 40%, than tăng 12,6%, động cơ điện tăng gấp 3,87 lần, Apatit tăng 56,6%, xi măng tăng 18,5%, đường mật tăng 5,3 lần trong 5 năm. Tuy nhiên, do đầu tư dàn trải và không đồng bộ nên nhiều công trình xây dựng xong nhưng không đưa vào sản xuất được, hệ số sử dụng công suất chỉ bằng 50% thiết kế.
Đến năm 1980, nhiều sản phẩm công nghiệp bình quân đầu người thấp hơn mức năm 1976 như vải chỉ bằng 66,6%, giấy 60,0%, xi măng 78,1%. Từ bài học không thành công đó, từ kế hoạch 5 năm 1981-1985, những mục tiêu đặt ra cho ngành công nghiệp đã thực tế hơn. Nhà nước vẫn dành cho ngành này 38,4% vốn đầu tư cơ bản để xây dựng mới một số công trình trọng điểm như xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, giấy Bãi Bằng, thủy điện Hoà Bình, Trị An…. Sản xuất một số ngành và sản phẩm công nghiệp cả nước đạt mức khá cao. Năm 1985 sản lượng điện cả nước đạt 456,5 nghìn KW, xây mới 2188 km đường dây tải điện sản xuất 2545 nghìn tấn than, 275 nghìn tấn phân bón hoá học, hơn 2 triệu tấn xi măng, 58,4 nghìn tấn giấy. Tuy nhiên, do cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu và bao cấp nên hiệu quả đầu tư cho công nghiệp thời kỳ này vẫn thấp.
Đầu tư nhiều nhưng tăng trưởng sản xuất vẫn chậm và không ổn định. Nhiều chỉ tiêu bình quân đầu người năm 1985 vẫn thấp hơn năm 1976: than chỉ bằng 81%, gạch 65,3%, giấy bìa 86,7%, cá biển 85,4%. Tình trạng làm không đủ ăn, thu chi ngân sách phải dựa vào vay và viện trợ nước ngoài. Tính đến năm 1985, nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỷ Rúp và 1,9 tỷ USD. Bội chi ngân sách năm 1980 là 18,1% và năm 1985 là 36,6% phải bù đắp bằng phát hành giấy bạc. Và hậu quả tất yếu là tình trạng siêu lạm phát vào năm 1986 với tốc độ tăng giá 774,7%. Khủng hoảng kinh tế kéo dài nhiều năm đã bộc lộ rõ nét trên phạm vi cả nước.
2.2 Giai đoạn kinh tế Việt Nam trong thời kì đổi mới và hội nhập
(1986 – 2005)
Để đưa đất nước thoát dần ra khỏi cuộc khủng hoảng đã kéo dài hàng chục năm, tháng 12-1986, Đại hội VI của Đảng quyết định thực hiện đường lối đổi mới toàn diện , mở ra thời kỳ mới của phát triển kinh tế Việt Nam. Kết quả nổi bật của kinh tế Việt Nam trong gần 20 năm qua là tốc độ tăng trưởng GDP khá cao qua các thời kỳ gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong kế hoạch 5 năm 1986-1990, tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân mỗi năm tăng 4,8%; thu nhập quốc dân tăng 3,9%. Sản xuất nông nghiệp, nhất là lương thực có bước phát triển mới. Sản lượng lương thực năm 1990 đã đạt 21,5 triệu tấn, tăng 18,2% (3,3 triệu tấn) so 1985. Lương thực bình quân nhân khẩu đạt 325 kg và năm 1989 Việt Nam đã xuất khẩu 1,42 triệu tấn gạo, đánh dấu thời kỳ chuyển đổi tính chất sản xuất từ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá gắn với xuất khẩu gạo. Sản xuất công nghiệp có bước phát triển mới.
Một số ngành then chốt của nền kinh tế tăng trưởng khá. Đáng chú ý là sản lượng dầu thô tăng từ 40 nghìn tấn năm 1986 lên 2,7 triệu tấn năm 1990. Hoạt động thương mại, dịch vụ khôi phục và tăng trưởng khá. Cơ cấu kinh tế quốc dân chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Song, những khởi sắc của nền kinh tế Việt Nam thực sự bắt đầu từ thập kỷ 90. Trong kế hoạch 5 năm 1991-1995, nền kinh tế bắt đầu tăng tốc với tốc độ tăng GDP là 8,2%/năm, tiếp đó là kế hoạch 5 năm 1996-2000, tăng 7% dù có nhiều khó khăn do khủng hoảng tiền tệ các nước châu Á. Với tốc độ tăng trưởng đó, đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng và bước vào thời kỳ tăng trưởng ổn định. Tốc độ tăng GDP năm 2001 là 6,79%, 2002 là 6,89%, 2003 là 7,08%,năm 2004 là 7,69% và 6 tháng đầu năm 2005 tăng 7,7% ước cả năm là 8,5%. Các ngành sản xuất và dịch vụ đều tăng trưởng khá.
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ cao: bình quân thời kỳ 1991-2000 tăng 13,5%, thời kỳ 2001-2003 tăng 15% và năm 2004 tăng 16%, 6 tháng đầu năm 2005 tăng 15,6%. Sản xuất nông nghiệp chuyển dần theo hướng đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi gắn với xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất không cao nhưng vẫn duy trì mức trên 5%/năm liên tục, dù cho có khó khăn về hạn hán và dịch cúm gia cầm. Hoạt động dịch vụ, nhất là xuất nhập khẩu, du lịch phát triển và tăng trưởng khá. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm 2001 là 3,7%, năm 2002 là 11,2%, năm 2003 là 24,6%, năm 2004 là 28,7%, 6 tháng đầu năm 2005 là 17,4%. Do đó, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, ổn định tỷ trọng khu vực dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong GDP nhưng giá trị tuyệt đối của từng ngành đều tăng năm sau cao hơn năm trước.
3. Nội dung chính sách
Nội dung kinh tế được Hồ Chí Minh đề cập trên các mặt: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế. Người nhấn mạnh đến việc tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đối với cơ cấu kinh tế, Hồ Chí Minh đề cập cơ cấu ngành và cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ.
Người quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa các ngành sản xuất xã hội, thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của nhân dân.
Đối với kinh tế vùng, lãnh thổ, Hồ Chí Minh lưu ý phải phát triển đồng đều giữa kinh tế đô thị và kinh tế nông thôn. Người đặc biệt chú trọng chỉ đạo phát triển kinh tế vùng núi, hải đảo, vừa tạo điều kiện không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của đồng bào, vừa bảo đảm an ninh, quốc phòng cho đất nước. ở nước ta, Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Người xác định rõ vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế. Nước ta cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển. Về tổ chức hợp tác xã, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc dần dần, từ thấp đến cao, tự nguyện, cùng có lợi, chống chủ quan, gò ép, hình thức. Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ đi vào con đường hợp tác. Đối với những nhà tư sản công thương, vì họ đã tham gia ủng hộ cách mạng dân tộc dân chủ, có đóng góp nhất định trong khôi phục kinh tế và sẵn sàng tiếp thu, cải tạo để góp phần xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nên Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, mà hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kinh tế nhà nước, khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức tư bản nhà nước.
Bên cạnh chế độ và quan hệ sở hữu, Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân phối và quản lý kinh tế. Quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán, đem lại hiệu quả cao, sử dụng tốt các đòn bẩy trong phát triển sản xuất. Người chủ trương và chỉ rõ các điều kiện thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng.
Gắn liền với nguyên tắc phân phối theo lao động, Hồ Chí Minh đề cập đến vấn đề khoán trong sản xuất, "Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng... làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay".
4. Tính đúng đắn của luận điểm
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã chủ chương phát triển nền kinh kế hàng hóa nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn và sáng suốt nó suất phát từ trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất ở Việt Nam không đồng đều nên không thể nóng vội và xây dựng quan hệ sản xuất một phần dựa trên cơ sở chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất .Khơi dậy năng lực sáng tạo ,chủ động nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển .Do đó nền kinh tế của Việt Nam đã đổi mới đạt được những thành tựu to lớn.Tuy vẫn còn nhiều khó khăn tồn tại đòi hỏi Đảng và nhà nước phải có những chính sách biện pháp và thúc đẩy các thành phần kinh tế nhà nước giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa .
Trong quá trình phát triển nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Nhà nước phải không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý ,đảm bảo thị trường trong nước ổn định ,thu hút sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài. Xử phạt nghiêm đối với những kẻ lợi dụng chức quyền tham ô tài sản của nhà nước. Đào tạo đội ngũ có trình độ có chuyên môn cao tư cách đạo đức tốt. Đồng thời phát triển đồng bộ các thành phần kinh tế và đảm bảo thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,các thành phần kinh tế phát triển không chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn ở Việt Nam hiện nay.
Hội nghị lần thứ VI ban chấp hành trung ương khoá VI Đảng đã xác định rõ: Chính sách kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH. Tới Đại hội toàn quốc lần thứ VII qua thực tiễn 5 năm đổi mới Đảng khảng định: Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Đảng và nhà nước Việt Nam coi đó là một phương hướng quan trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc. để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn thì Việt Nam phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN đây là điều tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia nếu như muốn đưa nền kinh tế tiến lên. Để thực hiện điều đó Đảng đã phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân để phát triển lực lượng sản xuất, đưa Việt Nam thành nước công nghiệp hiện đại. Vì vậy phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25406.doc