Mục lục
Lời mở đầu
1.1Sự cần thiết phát triển kinh tế thi trờng ở Việt Nam
1.1.1Sự phát triển kinh tế thị trờng là cần thiết để đẩy dần tiêu cực
1.1.2Nớc ta phát triển lên kinh tế thị trờng là tất yếu khách quan
1.1.3Tác dụng to lớn lủa kinh tế thị trờng ở nớc ta
1.2Đặc trng bản chất của nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở Việt Nam
1.2.1Mục tiêu
1.2.2Chế độ sở hữu và thành phần kinh tế
1.2.3Chế độ phân phối
1.2.4Chế độ quản lí
1.2.5Nền kinh tế thị trờng ở nớc ta là nền kinh tế mở hội nhập
1.3Thực trạng và giảI pháp phát triển kinh tế thi trờng ở Việt Nam
1.3.1Thực trạng
1.3.2GiảI pháp để phát triển kinh tế thị trờng ở nớc ta
1.3.2.1Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
1.3.2.2Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy mạnh phân công lao động
1.3.2.3Hình thành và phát triển đồng bộ các loại hình thị trờng
1.3.2.4Mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
1.3.2.5Giữ vững sự ổn định về chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật
1.3.2.6Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, hoàn thiện hệ thống quản lí kinh tế của Nhà Nớc
Kết luận
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1825 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tại sao nước ta phải phát triển kinh tế thị trường?Muốn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì ta phải làm gì, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
luật sản xuất và coi nhẹ hiệu quả kinh tế xã hội
-Không xác định rõ và can thiệp không đúng vào quyền tự chủ về kinh tế, tài chính, quyền chủ động sáng tạo của cấp dưới, không gắn với nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm và quyền hạn, lợi ích với kết quả cuối cùng.
-Không vận dụng đúng các quy luật kinh tế trong tổng thể hệ thống các quy luật khách quan, không gắn kế hoạch sản xuất với thị trường, kìm hãm sản xuất lưu thông, coi nhẹ quan hệ hàng hoá, tiền tệ, quan niệm giản đơn về CNXH, không đảm bảo quan hệ thoả đáng giữa xá lợi ích: Xã hội-Tập thể-Người tiêu dùng
-Các cấp các ngành thường ỷ vào Ngân sách Nhà Nước, vào Trung Ương, cấp dưới ỷ vào cấp trên gây lãng phí, gây hạn chế tính năng động của cơ sở.
-Bộ máy quản lí cồng kềnh, chồng chéo, quan liêu. Đội ngũ quản lí về Nhà Nước, pháp luật không sâu xát với cơ sở, kém năng động. Bộ phận kém phẩm chất đã sinh ra nạn tham nhũng, gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.
=>Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chính là nguyên nhân làm cho CNXH lâm vào khủng hoảng. Điều này thể hiện rõ ở các nước XHCN ở Đông Âu qua sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết. Sự duy trì quá lâu nền kinh tế lạc hậu cùng với quyền lực tập trung quá lớn vào tay một số ít người đã đẩy CNXH từ một hình thái kinh tế xã hội văn minh trở thành một hình thái lỗi thời. Bài học về sự sụp đổ của cả một hệ thống XHCN đã là một bài học xương máu cho chúng ta. Vì thế Đảng và Chính Phủ thấy rằng không thể tiếp tục hướng nền kinh tế đất nước theo một con đường mòn mà phải đưa nó ra đường quốc lộ. Hay nói cách khác, nền kinh tế bao cấp không thể tồn tại mà thay vào đó là kinh tế thị trường. Chúng ta phải đưa nền kinh tế ra nhập vào nền kinh tế thế giới, phải tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh.
1.1.2Nước ta phát triển lên kinh tế thị trường là tất yếu khach quan:
Nước ta đang chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó sản phẩm làm ra để trao đổi , để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức là để nhằm thoả mãn nhu cầu của người mua, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Vậy đi lên kinh tế thị trường chính là tất yếu khách quan:
-Phân công lao đọng xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá chẳng nhiững không mất đi ma trái lại còn được phát triển ở chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển. Sự phát triển của các làng nghề, trung tâm công nghiệp đã thể hiện thật rõ điều này.Chúng ta dựa vào điều kiện vật chất tự nhiên của từng vùng mà mở rộng từng oại hình sản xuất phù hợp. Sự phát triển của phân công lao động thể hiện ở tính phong phú và đa dạng chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.
-Trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân(gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu Tư Bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng nên quan hệ giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá, tiền tệ.
-Thành phần kinh tế Nhà Nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về Tư Liệu Sản Xuất nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kĩ thuật, công nghệ và trình độ tổ chức quản lí nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
-Quan hệ hàng hoá, tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây theo nguyên tắc ngang giá.
=>Như vậy, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là một tất yếu khách quan. Chúng ta không thể lấy ý chí chủ quan mà xoá bỏ nó.
1.1.3Tác dụng to lớn của kinh tế thị trường ở nước ta:
Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kì quá độ lên CNXH còn mang nặng tính tự cấp, tự túc. Vì vậy, sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất.
Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kĩ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu nhờ đó có thể cạnh tranh được về giá cả, đứng vững trong cạnh tranh. Quá trình đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng xuất lao đọng xã hội.
Trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu của người tiêu dùng, của thị trường để quyết định sản xuất sản phẩm gì, với khối lượng bao nhiêu, chất lượng thế nào. Do kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích nâng cao chất lượng, cảI tiến mẫu mã, cũng như tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ.
Phân công lao đọng xã hội là đIều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá, đến lượt nó sự phát triển kinh tế hàng hoá sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế phát huy được tiềm năng, lợi thế của từng vùng, cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Sự phát triển của kinh tế thi trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụvà tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao, đồng thời chọn
lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ xán bộ quản lí có trình độ, lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Tác dụng quan trọng nhất của kinh tế thị trường là thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thực tế đã chứng minh rằng từ khi chuyển sang kinh tế thị trường đến nay thì Việt Nam luôn có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tính trung bình là 7% GDP mỗi năm. Giờ đây Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao, đứng thứ hai ở châu á, đời sống nhân dân đã được cải thiện. Thực tế những năm đổi mới đã cho thấy việc chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năngtrong nước và thu hút được vốn, kĩ thuật, công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tăng trưởng tương đối cao trong thời gian qua.
1.2Đặc trưng, bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Trong lịch sử tồn tại 2 loại Kinh Tế Thị Trường. Đó là kinh tế thị trường TBCN và kinh tế thị trường XHCN. Chính nền kinh tế thị trường đã tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế cho các nước Tư Bản và cũng chính nó đã tạo ra nhiều vấn đề bất cập cần giải quyết trong xã hội Tư Bản. Việt Nam ta là đất nước đi lên từ con đường XHCN. Vì thế nền kinh tế thị trường của nước tatuy cũng vẫn lấy lợi nhuận làm chủ yếu nhưng vẫn có nhiều đặc điểm khác nền kinh tế thị trường TBCN. Nền kinh tế thị trường này vừa phải phù hợp với bối cảnh lịch sử và điều kiện cụ thể ở nước ta, vừa phải phù hợp với lịch sử, đặc đIểm của kinh tế thị trường thế giới:
-Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
-Giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và nó có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các khu vực của nền kinh tế.
Nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.. Sự tác động của các quy luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế.
-Nếu là nền kinh tế thị trường hiện đại thì còn có sự điều tiết vĩ mô của Nhà Nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách kinh tế.
Nhưng do nhân dân cùng Đảng Nhà Nước ta quyết đi theo con đường XHCN. Vì vậy, nó cũng mang những đặc trưng:
1.2.1Mục tiêu:
Nếu như kinh tế thị trường TBCN là nhằm thu được nhiều lợi nhuận cho các nhà Tư Bản, phát triển CNTB và bảo vệ sự tồn tại của CNTB thì trái lại, mục tiêu của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nhằm phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho CNXH, thực hiện sự nghiệp Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá đất nước, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tham gia vào quốc tế hoá, toàn cầu hoá, góp phần thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
1.2.2Chế độ sở hữu và thành phần kinh tế:
Kinh tế thị trường TBCN cũng dựa trên nhiều hình thức sở hữu và nhiều khu vực kinh tế nhưng họ lấy chế độ tư hữu, lấy khu vực kinh tế tư nhân làm chủ yếu. Trái lại, kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta dựa trên nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhưng ta lấy chế độ công hữu về tư liệu sản xuất(sở hữu toàn dân, tập thể) là nền tảng và lấy thành phần kinh tế Nhà Nước giữ vai trò chủ đạo để định hướng nền kinh tế thị trường đi lên CNXH.
1.2.3Chế độ phân phối:
Kinh tế thị trường TBCN cũng dựa trên nhiều hình thức phân phối, thu nhập, đối với giai cấp bóc lột dựa trên số lượng Tư Bản mà họ có, thông qua lợi nhuận, lợi tức và địa tô TBCN. Còn đối với giai cấp Công Nhân và nhân dân lao động thông qua giá cả của giá trị Sức Lao Động(tức tiền công) Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta do dựa trên nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh khác nhau cho nên cũng tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập khác nhau: có phân phối theo lao động, phân phối theo vốn, tài sản.. , phân phối thông qua các quỹ phúc lợi của công cộng và tập thể. Trong đó lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
1.2.4Về chế độ quản lí:
Kinh tế thị trường TBCN và kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta đều có sự quản lí của Nhà Nước nhưng do bản chất của Nhà Nước có sự khác nhau. Nhà Nước ở các nước Tư Bản là Nhà Nước của giai cấp Tư Bản, còn Nhà Nước ở nước ta là Nhà Nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà Nước của dân, vì dân và do dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nhà Nước XHCN Việt Nam quản lí nền kinh tế thi trường nhằm hạn chế những khuyết tật của Nhà Nước, đồng thời làm cho nó ổn định, tăng trưởng và hiệu quả. Giải quyết vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội. Nhà nước quản lí vĩ mô nền kinh tế thông qua các công cụ như: Kế hoạch hoá, lập pháp, tài chính-tín dụng, tiền tệ và các dụng cụ khác.
1.2.5Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế mở hội nhập:
Kinh tế tự nhiên và kinh tế kế hoạch hoá tập trung dù là kinh tế khép kín, còn kinh tế thị trường là kinh tế mở. Chúng ta phát triển nền kinh tế mở là vì thế giới đang đẩy mạnh quốc tế hoá, toàn cầu hoá. Hơn nữa, cách mạng Khoa Học Công Nghệ lại tác động như vũ bão. Do đó, chúng ta phát triển nền kinh tế mở hội nhập là nhằm tranh thủ vốn, kĩ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lí nhằm rút ngắn thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta. Do đó chúng ta phải đa phương hoá, đa dạng hoá các
quan hệ kinh tế đối ngoại, phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, thúc đẩy kinh tế xã hộiphát triển.
=>5 đặc trưng có quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, đặc trưng về chế độ công hữu và kinh tế Nhà Nước giữ vai trò chủ đạo và đặc trưng về bản chất Nhà Nước XHCN ở Việt Nam có tính quyết định nhất để định hướng nền kinh tế thị trường phát triển theo CNXH ở nước ta.
1.3Thực trạng và giảI pháp phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam:
1.3.1Thực trạng:
Không như các nước Tư Bản phát triển, họ đi lên kinh tế thi trương khi đã có 1 tiềm lực kinh tế mạnh do sự tích luỹ nguyên thuỷ tư bản qua nhiều năm, trải qua một cuộc cách mạng công nghiệp. Các nước này gần như về cơ bản đã trở thành nước công nghiệp khi bước vào nền kinh tế thị trường. Nhưng Việt Nam thì khác, chúng ta bước vào kinh tế thị trường khi trong tay không có gì. Chẳng những vậy mà chúng ta còn phải khắc phục đi rất nhiều.Nền kinh tế nước ta chủ yếu dựa vào nông nghiệp là chủ yếu, là một nền kinh tế bao cấp, lạc hậu hơn rất nhiều so với mặt bằng phát triển chung của thế giới. Không những thế cơ cở vật chất kĩ thuật của nước ta bị tàn phá gần như hoàn toàn sau cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước. Trong bối cảnh 2 bàn tay trắng, sự viện trợ của phe XHCN ngày càng ít dần. Thêm vào đó, sự chống phá của Phương Tây, đặc biệt là cuộc cấm vận kéo dài 20 năm của Mĩ đối với nước ta. Vì thế, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của nước ta có xuất phát đIểm thấp. Có thể nói trong giai đoạn này, không chỉ về kinh tế mà trên mọi lĩnh vực chúng ta đều tụt hậu so với thế giới.
Tuy nhiên, không phải khó khăn như thế mà dân tộc ta nản lòng. Bằng những nỗ lực không biết mệt mỏi của các cấp, các ngành, nền kinh tế của đất nước đã có một diện mạo hoần toàn mới, đặc biệt trong 10 năm trở lại đây. Thực hiện kế hoạch 5 năm do Đảng và Nhà Nước đề xướng đã đưa đất nước thoát khỏi nền kinh tế bao cấp. Bằng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta bước đầu đã hội nhập vào nền kinh tế của khu vực và thế giới. Điều đó được thể hiện bằng nhưng hội nghị do nước ta đăng cai, tổ chức như: Hội nghị thượng đỉnh ASEM 5 vào trung tuần tháng mười một năm 2005 và sắp tới đây la hội nghị APEC. Chúng ta đã là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế lớn của thế giới. Trong năm nay dự kiến nước ta sẽ gia nhập WTO, đánh dấu một bước chuyển mình của dân tộc. Để có được quyền tổ chức những hội nghị quan trọng như vậy, chứng tỏ thế giới đã coi Việt Nam là một đối tác chiến lược quan trọng.
Tuy nhiên, thật sự phải nói rằng, phải thừa nhận rằng Việt Nam vẫn là một trong những đất nước nghèo nhất thế giới với bình quân thu nhập theo đầu người chỉ khoảng 450USD/người năm. Một con số quá khiêm tốn nếu chỉ so với các nước trong khu vực như Malaixia, Singgapo, hay Thái Lan... Còn với Phương Tây ư, chúng ta thật sự chỉ là những hạt bụi nhỏ nhoi. Một năm nền kinh tế nước ta cả nhập khẩu và xuất khẩu cũng chỉ đạt khoang vài chục tỉ đô la. Nhưng riêng nước Mĩ con số này là hàng chục tỉ. Sự chênh lệch quả thật quá lớn.Nguyên nhân là do:
*Nền kinh tế thị trường nước ta đang trong giai đoạn sơ khai:
-Nền kinh tế với 70% người dân phục vụ trong Nông Nghiệp. So với nước Mĩ tỉ lệ này chỉ khoảng 3%. Điều này chứng tỏ chúng ta có một nền kinh tế hàng hoá kém phát triển. Trong khi đó khu vực công nghiệp và dịch vụ thì chưa phát triển.Trong công nghiệp do máy móc, công nghệ lạc hậu làm cho hàng hoá của chúng ta không đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Mẫu mã không hợp thời, chủng loại kém phong phú cùng chất lượng không đảm bảo là những vấn đề rất lớn cho ngành công nghiệp nước ta. Công nghiệp là vậy nhưng dịch vụ cũng không khá hơn. Môi trường ô nhiễm cùng chất lượng phục vụ thấp, các dịch vụ mới không được phát triển đã đẩy nền công nghiệp này xuống thấp rất nhiều so với thực lực của nước ta.
-Kết cấu cơ sở hạ tầng yếu kém: hệ thống giao thông, bến cảng, thông tin liên lạc lỗi thời, kém phát triển. Hệ thống giao thông kém phát triển làm cho các địa phương, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau. Do đó làm cho nhiều tiềm năng của các địa phương không được khai thác, các địa phương không thể chuyên môn hoá sản xuất để phát huy thế mạnh.
-Cơ sở vật chất kĩ thuật còn thấp làm cho phân công lao động kém phát triển. Nền kinh tế chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ.
-Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước, cũng như thị trường ngoài nước là rất yếu. Do cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ lạc hậu nên năng suất lao động thấp. Do đó khối lượng hàng hoá nhỏ bé, chủng loại hàng hoá còn nghèo nàn, chất lượng hàng hoá thấp, giá cả do vậy cạnh tranh còn yếu.
*Thị trương dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ:
-Do giao thông vận tải kém nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong đất nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống nhất.
-Thị trường hàng hoá dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhièu hiện tượng tiêu cực(hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nháI nhãn hiệu vẫn làm rối loạn thị trường)
-Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, một số trung tâm giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy sinh hiện tượng khủng hoảng. Nét nổi bật của thị trường này là sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về lao động giản đơn lại vượt quá xa cầu, nhiều người có sức lao động không tìm được việc làm.
-Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở, như nhiều doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng mắc thủ tục, trong khi có nhiều ngân hàng thương mại huy động được tiền gửi mà không thể cho vay. Thị trường chứng khoán ra đời nhưng chưa có nhiều hàng hoá để mua bán và mới có rất ít doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia thị trường này.
*Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường, do vậy nền kinh tế ở nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng tồn tại, đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ phân tán còn phổ biến.
*Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế, kĩ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước khác.
*Quản lí Nhà Nước về kinh tế xã hội còn yếu. Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, quy hoạch xây dựng, quản lí đất đai còn nhiều yếu kém, thủ tục hành chính đổi mới chậm. Thương nghiệp Nhà Nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lí xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây tác động xấu đối với sản xuất. Chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lí...
1.3.2Giải pháp để phát triển kinh tế thị trường ở nước ta:
Trong tình hình phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật cũng như kinh tế thế giới. Chúng ta nếu muốn sánh vai với các cường quốc năm châu, muốn thực hiện ước vọng của Bác Hồ trước lúc ra đi:” Đưa nước ta trở thành 1 con rồng châu á” thì trước tiên chúng ta phải khắc phục những yếu kémcủa nền kinh tế. Đành rằng nguyên nhân chủ quan và khách quan là rất nhiều nhưng trước tiên chúng ta phải nhìn vào những thiếu xót, sai lầm, khuyết đIểm mà chúng ta đã mắc phải. Chúng ta phải tự nhận thấy sai lầm của chính mình. Chúng ta phải có một giải pháp đúng đắn cho nền kinh tế Việt Nam:
1.3..2.1Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần:
Do chính sách bao cấp, trước đây nền kinh tế của nước ta chỉ bao gồm 2 hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Nhưng khi chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường thì hình thức này không còn phù hợp nữa. Vì vậy, khi chuyển sang kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường cần phải đổi mới cơ cấu sở hữu cũ, bằng cách đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Sở hữu giờ đây không chỉ của Nhà Nước mà sở hữu tư nhân mới thật sự quan trọng. Bằng cách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, điều đó sẽ đưa đến hình thành các cơ sở kinh tế độc lập. Lấy việc phát triển sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu quan trọng để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh doanh.
Mở rộng nền kinh tế nhiều thành phần nhưng không thể quên được vai trò của kinh tế Nhà Nước. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì Nhà Nước phải giữ vai trò chủ đạo. Chúng ta phải tập trung nguồn lực: vốn, kĩ thuật, cơ sở hạ tầng để phát triển các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế do Nhà Nước quản lí. Thực hiện qua trình cổ phần hoá cũng là một ưu tiên quan trọng hàng đầu.
Khuyến khích bộ phận kinh tế tư nhân. Nước ta phải coi kinh tế tư nhân là cánh chim đầu đàn đưa kinh tế Việt Nam đI lên tầm cao mới. Chúng ta phải tạo đIều kiện thuận lợi về vốn, thủ tục hành chính, đất đai... đưa kinh tế tư nhân trở thành 1 bộ phận năng động nhất trong nền kinh tế của đất nước. Bên cạnh việc tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển, chúng ta cũng phải đề cao cảnh giác trước những hiện tượng gian lận tài chính để kịp thời xử lí, tránh gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Mở rộng hợp tác, liên doanh, liên kết với nước ngoài. Phải biết tạo điều kiện cho kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh, gắn thu hút vốn với thu hút công nghệ hiện đại
1.3.2.2Đẩy mạnh Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học công nghệ, trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội:
Nước ta do xuất phát điểm là một nước thuần nông, khoa học công nghệ lạc hậu rất nhiều so với thế giới. Vì thế, con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cần phải rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Nếu chúng ta cứ tuần tự phát triển thì sẽ không bắt kịp các nước tư bản phát triển. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vừa phải có những bước tuần tự, vừa phải có những bước nhảy vọt. Chúng ta phải biết tận dụng những công nghệ mới nhất, tiên tiến nhất, phù hợp nhất để phát triển nền kinh tế đất nước. Tiến tới 1 nền kinh tế không chỉ công nghiệp hoá mà phải tự động hoá.
Chúng ta phải tập trung xây dựng các trung tâm công nghiệp lớn để thu hút, tập trung lao động. Phải phân công lao động xã hội cho hợp lí bởi nó là cơ sở chung cho sản xuất và trao đổi hàng hoá, nâng cao tay nghề của công nhân. Để có được điều này, chúng ta phải phát triển các trung tâm dạy nghề với chất lượng cao, đào tạo được những thợ có tay nghề giỏi.
=>Chỉ đẩy mạnh công nghiệp hoá, phân công lại lao động xã hội chúng ta mới phân bố được dân cư 1 cách hợp lí trên phạm vi cả nước cũng như ở từng vùng, từng địa phương, để có thể khai thác triệt để các nguồn lực của đất nước, tạo sự phát triển nhanh và bền vững cho toàn bộ nền kinh tế.
1.3.2.3Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường:
Trong nền kinh tế, các nhân tố đều ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta phải hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường:
-Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ thông qua cuộc đẩy mạnh sản xuất, phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tỉ trọng người sản xuất trong khu vực nông nghiệp phải giảm, đồng thời trong công nghiệp, dịch vụ phải tăng lên. Để làm được điều này chúng ta phải phát triển hệ thống giao thông và phương tiện vận tải để mở rộng thị trường. Hình thành thị trường sức lao động có tổ chức để tạo điều kiện cho sự di chuyển sức lao động theo yêu cầu phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.
-Mở rộng thị trường vốn bằng cách phát triển các hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng. Coi Ngân hàng là một nền công nghiệp mũi nhọn. Nó giúp cho sự phát triển nội lực của đất nước. Từng bước hình thành và phát triển thị trường chứng khoán để huy động các nguồn vốn vào phát triển sản xuất.
-Quản lí chặt chẽ đất đai và thị trường nhà ở. Xây dựng và phát triển thị trường thông tin, thị trường khoa học công nghệ.
Tuy vậy, đi đôi với việc phát triển thị trường, chúng ta phải xây dựng các khuôn khổ pháp lí và thể chế, tăng cường sự kiểm tra, giám sát của Nhà Nước để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự, kỉ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Có biện pháp hữu hiệu chống buôn lậu và gian lận thương mại.
1.3.2.4Mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại:
Thế ki 21 là thế kỉ của toàn cầu hoá, tiến tới thế giới sẽ chỉ có 1 thị trường chung duy nhất.Chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, mới thu hút được vốn kĩ thuật và công nghệ hiện đại để khai thác tiền năngvà thế mạnh của đất nước nhằm phát triển kinh tế. Hoà nhập, giao lưu dựa trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau. Mở rộng kinh tế đối ngoại theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá các hình thức kinh tế đối ngoại.
Hiện nay cần đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Giảm dần nhập siêu, ưu tiên nhập khẩu tư liệu sản xuất để phục vụ sản xuất. Tranh thủ mọi khả năng và áp dụng mọi hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần hướng vào các lĩnh vực, những sản phẩm có công nghệ tiên tiến, có tỉ trọng xuất khẩu cao. Việc sử dụng vốn vay phải có hiệu quả để trả được nợ, cải thiện được cán cân thanh toán. Chủ động tham gia các tổ chức thương mại quốc tế, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách chọn lọc với bước đi thích hợp.
1.3.2.5Giữ vững sự ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp:
Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng đầu tiên để phát triển. Nó là điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư.Muốn giữ vững sự ổn định về chính trị ở nước ta hiện nay cần phải giữ và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, nâng cao hiệu lực quản lí của Nhà Nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Hệ thống pháp luật
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111172.doc