Tiểu luận Tạm giữ trong tố tụng hình sự và một số đề xuất hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng

Tạm giữ không phải là hình phạt mà là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.Việc áp dụng biện pháp tạm giữ không phải nhằm trừng phạt người phạm tội mà để ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của người phạm tội. Bộ luật tố tụng hình sự quy định không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị tạm giữ là người chưa bị coi là có tội. Do đó chế độ tạm giữ phải khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù.

- Điều 89 BLTTHS năm 2003 quy định: “chế độ tạm giữ,tạm giam, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được thực hiện theo quy định của chính phủ”

Chính phủ quy định rõ chế độ tạm giữ bao gồm: nơi tạm giữ, chế độ sinh hoạt, và các chế độ khác tại điều 26, 28, 29, 30, 31 Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 của Chính phủ ban hành quy chế về tạm giữ,tạm giam. Các cơ quan chức năng quản lí các nhà quản lí có quyền và nghĩa vụ bảo đảm thực hiện đầy đủ, đúng pháp luật chế độ đối với người bị tạm giữ tạm giam. Cụ thể là chế độ ăn, ở, sinh hoạt, phòng bệnh, chữa bệnh, nhận quà tiếp tế của gia đình và các chế độ khác.

 

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3794 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tạm giữ trong tố tụng hình sự và một số đề xuất hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
can,tạm giam áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác hoắc trả tự do cho họ. Mục đích tạm giữ đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, phạm tội tự thú, đầu thú là để ngăn chặn hành vi pham tội, hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra của người phạm tội, tạo điều kiện cho Cơ quan điều tra thu thập chứng cứ tài liệu, bước đầu xác định tính chất hành vi của người tạm giữ. Áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ đối với người bị bắt theo lệnh truy nã để có thời gian cho cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt. 2. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ. Theo khoản 1 Điều 86 BLTTHS năm 2003 quy định: “tạm giữ có thể được áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang,người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã”. Như vậy theo quy định của pháp luật thì đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ bao gồm: - Người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp thường phải bị tạm giữ vì trong hầu hết các trường hợp thì quyết định bắt khẩn cấp cơ quan điều tra xác định cần phải ngăn chặn việc người đó trốn thoát hoặc cản trở điều tra. - Người phạm tội tự thú là người đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa bị phát hiện, nay ra trình báo với cơ quan có thẩm quyền về việc phạm tội của mình. Đây là người đã thực hiện tội phạm nhưng chưa bị cơ quan có thẩm quyền xác định đó là ai mặc dù vụ án đã bị phát hiện,như các trường hợp cơ quan bảo vệ pháp luật biết vụ án xảy ra (đã hoặc chưa khởi tố vụ án) nhưng chưa biết ai là người thực hiện hành vi phạm tội hoặc vụ án chưa phát hiện được do xảy ra trong rừng sâu. - Người phạm tội đầu thú: là người đã thực hiện tội phạm và đã bị phát hiện; người đã bi tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành hình phạt trốn khỏi nơi giam giữ, người có nghĩa vụ phải chấp hành án phạt tù nhưng đã trốn thoát nơi cư trú nay ra đầu thú. Đặc điểm chung của người đầu thú là cơ quan bảo vệ pháp luật đã biết nhân than của họ và họ phạm tội gì? Trốn từ lúc nào? Thực chất của việc đầu thú là đầu hàng cơ quan pháp luật, biết được rằng mình không thế thoát được nên đã trình diện và khai báo với cơ quan nhà nước về việc phạm tội của mình để mong được hưởng sự khoan hồng, làm nhẹ tội. - Đối với người bị bắt theo lệnh truy nã, ngay sau khi lấy lời khai,cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo cho cơ quan đã ra lệnh truy nã để cơ quan này đến nhận người bị bắt.Việc tạm giữ đối với người này chỉ đặt ra khi xét thấy cơ quann đã ra lệnh truy nã không thể đến ngay để nhận người bị bắt. *** Chính việc quy định 1 cách cụ thể các trường hợp áp dụng như trên đã tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định đúng đối tượng cần tiến hành bắt giữ trên thực tế, tránh nhầm lẫn. Tuy nhiên không phải bất cử người nào bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quá tang, tự thú, đầu thú hoặc bắt người theo quyết định truy nã đều bị ra lệnh tạm giữ. Nếu phạm tội ít nghiêm trọng, sự việc đơn giản không có căn cứ cho rằng người phạm tội bỏ trốn, thông cung cản trở việc điều tra hoặc tiếp tục việc phạm tội, có nơi cư trú rõ ràng thì có thể không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ.Trong trường hợp này cơ quan có thẩm quyền phải nhanh chóng lấy lời khai, xác minh những tình tiết có liên quan đến hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội để làm căn cứ ra quyết định khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn khác hoặc trả tự do cho người đó. Bên cạnh đó, nhà nước cũng đã thể hiện sự quan tâm đến việc tạm giữ người chưa thành niên phạm tội khi đưa ra quy định chi tiết: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị tạm giữ nếu có đủ căn cứ tại điều 86 BLTTHS năm 2003 nhưng chỉ trong truờng hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giữ nếu có căn cứ tại điều 86 BLTTHS năm 2003 nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng”. (Điều 303 BLTTHS). - Khi người bị tạm giữ có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu không có người chăm sóc thì ra cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ có trách nhiệm đối với họ. Trong trường hợp người bị tạm giữ có nhà hoặc tài sản khác không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ có nhiệm vụ trông nom, bảo quản. Quy định này thể hiện tính nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước ta và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người bị tạm giữ. - Trong khi tạm giữ nếu không đủ căn cứ để khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, đây là quy định mới so với BLTTHS 1988. Đây là một ưu điểm vì bảo vệ quyền bất khả xâm phạm thân thể của công dân, quy định chặt chẽ hơn việc tạm giữ người, hạn chế việc phải bồi thường thiệt hại cho người bị bắt oan. 3.Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ. Theo khoản 2, Điều 86 BLTTHS quy định: “ Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ”. Như vậy, những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp bao gồm: - Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp (cơ quan điều tra trong công an nhân dân, cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân, cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao… ) - Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới. - Người chỉ huy tàu bay, sân bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng. - Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển. *** Như vậy theo quy định BLTTHS 2003 thì cơ quan điều tra cấp huyện trở lên có quyền ra quyết định tạm giữ. Thực hiện quyết định này, khi nhận người bị bắt trong từng trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì UBND phường, xã, thị trấn phải tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, biên bản bắt người đang bị truy nã và giải quyết ngay tới cơ quan thẩm quyền. Cũng theo quy định này, những người có quyền ra quyết định tạm giữ không hoàn toàn là những người đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng mà bao gồm cả những người của các cơ quan Nhà nước khác hoặc trong lực lượng vũ trang. 4.Thủ tục tạm giữ. Thủ tục tạm giữ bao gồm: quyết định tạm giữ, các công việc mà người thi hành quyết định tạm giữ phải thực hiện trước hoặc sau khi tạm giữ người. Thủ tục tạm giữ được quy định tại khoản 3 Điều 86 BLTTHS năm 2003. Việc tạm giữ phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giữ phải nêu lí do tạm giữ, thời hạn tạm giữ, ngày tháng hết tạm giữ và giao cho người tạm giữ một bản. Trong thời hạn 12 giờ kể tư khi ra lệnh tạm giữ, lệnh tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Nếu thấy việc tạm giữ không đúng pháp luật hoặc không cần thiết thì viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ việc tạm giữ và cơ quan đã ra lệnh tạm giữ phải trả tự do cho người bị tạm giữ. Còn nếu xét thấy việc tạm giữ có căn cứ hoặc cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định phê chuẩn. Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ trong những trường hợp sau đây: - Người bị tạm giữ không phải là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội qủa tang hoặc đang bị truy nã và không phải là người phạm tội tự thú, đầu thú. - Người bị tạm giữ có những vi phạm nhỏ (vi phạm hành chính), tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, chưa đến lúc phải truy cứu trách nhiệm hình sự. - Người bị tạm giữ là người là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nhưng phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc pham tội rất nghiêm trọng do vô ý; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do vô ý. - Người bị tạm giữ trong trường hợp phạm tội qủa tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người tạm giữ có nơi cư trú rõ ràng và không có biểu hiện sẽ trốn hoặc cản trở việc điều tra. - Người bị tạm giữ bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội qủa tang nhưng đã có đủ tài liệu, chứng cứ kết luận họ không phạm tội. *** Ngoài ra, người thi hành quyết định tạm giữ có trách nhiệm giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ do BLTTHS năm 2003 quy định tại khoản 2, 3 Điều 48. Đó là,người bị tạm giữ có quyền: được biết lí do mình bị tạm giữ,được giải thích về quyền và nghĩa vụ;trình bày lời khai; tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; đưa ra tài liệu, đồ vật yêu cầu; khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.Người bị tạm giữ có nghĩa vụ phải thực hiện các quy định về tạm giữ của pháp luật quy định. 5. Thời hạn tạm giữ. Theo quy định tại Điều 87 BLTTHS năm 2003 :Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Thời điểm tính thời hạn tạm giữ được tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Thời điểm cơ quan nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp tính từ khi người bị bắt giải tới trụ sở cơ quan điều tra.Trong trường hợp bắt người qủa tang hoặc bị truy nã, thời điểm tính thời hạn tạm giữ được tính từ khi công dân hoặc tổ chức giao người bị bắt cho cơ quan điều tra. +) Trong trường hợp cần thiết, sự việc xảy ra có nhiều tình tiết phức tạp, việc xác minh phải thực hiện ở nhiều địa phương khác nhau hoặc cần thời gian để làm rõ hành vi, làm rõ căn cứ, lí lịch của người bị tạm giữ thì người đã ra lệnh tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá ba ngày. +) Trong trường hợp đặc biệt như đối với vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và một số vụ án hình sự khác có nhiều người tham gia, sự việc cần xác minh rất phức tạp mặc dù đã gia hạn lần thứ nhất nhưng vẫn chưa làm rõ sự việc thì người ra lệnh tạm giữ có thể gia hạn lần thứ hai và cũng không được quá ba ngày. *** Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì cơ quan ra lệnh tạm giữ phải trả tự do cho người bị tạm giữ sau khi hết hạn tạm giữ trước đó.Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Khi hết thời hạn tạm giữ mà không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Thời hạn tạm giữ được tính trừ vào thời hạn tạm giam. 6. Chế độ tạm giữ. Tạm giữ không phải là hình phạt mà là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.Việc áp dụng biện pháp tạm giữ không phải nhằm trừng phạt người phạm tội mà để ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của người phạm tội. Bộ luật tố tụng hình sự quy định không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị tạm giữ là người chưa bị coi là có tội. Do đó chế độ tạm giữ phải khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù. - Điều 89 BLTTHS năm 2003 quy định: “chế độ tạm giữ,tạm giam, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được thực hiện theo quy định của chính phủ” Chính phủ quy định rõ chế độ tạm giữ bao gồm: nơi tạm giữ, chế độ sinh hoạt,…và các chế độ khác tại điều 26, 28, 29, 30, 31 Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 của Chính phủ ban hành quy chế về tạm giữ,tạm giam. Các cơ quan chức năng quản lí các nhà quản lí có quyền và nghĩa vụ bảo đảm thực hiện đầy đủ, đúng pháp luật chế độ đối với người bị tạm giữ tạm giam. Cụ thể là chế độ ăn, ở, sinh hoạt, phòng bệnh, chữa bệnh, nhận quà tiếp tế của gia đình và các chế độ khác. 7. Những biện pháp bảo hộ đối với nhân thân và tài sản đối với người bị tạm giữ. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ không chỉ trực tiếp tác động đến những quyền lợi của người bị tạm giữ mà còn liên quan đến những người thân thích của họ. Để thực hiện chính sách nhân đạo và bảo đảm những lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, BLTTHS năm 2003 đã quy định việc chăm nom người thân thích và bảo quản tài sản của người bị tạm giữ tại Điều 90. - Tại khoản 1 Điều 90 BLTTHS quy định trách nhiệm bảo đảm chăm nom người thân thích của người bị tạm giữ. Theo đó, khi áp dụng biện pháp tạm giữ nếu người tạm giữ có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc thì cơ quan ra quyết định tạm giữ giao những người đó cho những người thân thích chăm khác nom. Trong trường hợp người tạm giữ không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm sóc. - Khoản 2 Điều 90 quy định trách nhiệm bảo quản tài sản cho người bị tạm giữ. Theo đó, khi áp dụng biện pháp tạm giữ,nếu người tạm giữ có nhà hoặc tài sản khác mà không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết định tạm giữ sẽ giao tài sản cho người thân thích hoặc bất cứ người nào khác trông nom, bảo quản theo yêu cầu của người bị tạm giữ. Nếu người tạm giữ không chỉ ra được người tin tưởng để giao trông nom, bảo quản thì cơ quan ra lệnh tạm giữ phải tiến hành niêm phong và bảo quản cho đến khi người được tạm giữ được trrar tự do hoặc bản án có hiệu lực pháp luật. Sau khi đã áp dụng biện pháp bảo hộ đối với người than và tài sản, cơ quan ra quyết định tạm giữ phải thông báo cho người bi tạm giữ những biện pháp đã được áp dụng. II. Một số hạn chế về các quy định tạm giữ trong tố tụng hình sự và đề xuất hướng hoàn thiện. 1. Những hạn chế trong việc áp dụng các quy định về tạm giữ trong tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay. Mặc dù BLTTHS năm 2003 đã có sửa đổi bổ sung rất nhiều so với BLTTHS năm 1988, và đã có sự chặt chẽ hơn, đánh dấu bước phát triển mới trong việc pháp điển hóa luật Tố tụng hình sự ở nước ta. Cùng với các chế độ khác, chế độ tạm giữ cũng từng bước hoàn thiện. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp tạm giữ những năm gần đây còn nhiều bất cập, đã gây không ít khó khăn cho những hoạt động áp dụng các quy định trên. Có thể kể đến một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên như sau: +) Do nhận thức, trình độ của các cơ quan, đơn vị và những cá nhân có trách nhiệm, quyền hạn, cũng như nhận thức của những người bị áp dụng thi hành lệnh tạm giữ còn có nhiều hạn chế. +) Công tác kiểm sát việc tuân thủ pháp luật tại nơi tạm giữ không được tiến hành một cách thường xuyên và đều khắp. +) Điều kiện cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng không được đảm bảo; +) Việc theo dõi, quản lí người bị tạm giữ chưa chặt chẽ dẫn đến  nhiều trường hợp bỏ trốn… +) Do chưa quy định hết những đối tượng tạm giữ… Đồng thời cũng do phần lớn các quy định về biện pháp ngăn chặn tạm giữ chưa hoàn thiện và chặt chẽ, còn có sự chồng chéo hoặc chưa bao trùm hết các giai đoạn tố tụng. Do đó, các quy định tạm giữ chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của thực tiễn đấu tranh và phong ngừa tội phạm ở nước ta trong giai đoạn hiện nay,chưa đảm bảo một cách hiệu quả các quyền tự do, dân chủ của công dân. 2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng của biện pháp tạm giữ trong tố tụng hình sự trên thực tế 2.1. Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS năm 2003 thì tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Tuy nhiên, người phạm tội tự thú, đầu thú không phải là người phạm tội vì bị bắt mà họ tự nguyện trình diện khai báo hành vi phạm tội. Chính vì vậy,việc khoản 1 Điều 86 quy định “tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã”. Như vậy vô hình chung đã coi người phạm tội tự thú, đầu thú là người bị bắt. Do đó, quy định này là không hợp lí, luật cần quy định rõ ràng, tách bạch hơn trường hợp này để đảm bảo cho quyền cho người tự thú trong việc được hưởng sự khoan hồng của pháp luật. 2.2. Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ. Để đảm bảo cho yêu cầu kịp thời đấu tranh chống tội phạm trên các vùng biển của đất nước, lực lượng cảnh sát biển đã được thành lập và lực lượng này cũng có thẩm quyền bắt người trong trường hợp khẩn cấp và thẩm quyền ra lệnh tạm giữ. Khoản 2 Điều 86 BLTTHS năm 2003 quy định: “những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 điều 81 bộ luật này. Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ”. Việc quy định bổ sung thêm thẩm quyền ra lệnh tạm giữ cho chỉ huy vùng cảnh sát biển là hoàn toàn hợp lí, vì xuất phát từ đặc thù công việc và địa bàn hoạt động vì thế lực lượng cảnh sát biển trong một số trường hợp được giao thẩm quyền điều tra thì thủ trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ. *** Tuy nhiên điều 81 BLTTHS năm 2003 lại không quy định thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp cho lực lượng này, nhưng khoản 2 điều 86 BLTTHS lại quy định cho lực lượng này ra quyết định tạm giữ. Đồng thời việc chỉ huy vùng cảnh sát biển có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ trong những trường hợp nào?, với những đối tượng nào? cũng chưa được quy định rõ ràng. Chính vì vậy về đối tượng cũng như thực tiễn áp dụng còn nhiều vướng mắc. Do đó, các nhà làm luật cũng cần lưu ý đến quy định này và cần có hướng dẫn rõ ràng hơn. Ví dụ, khi pháp luật đã quy định cho chỉ huy cảnh sát biển được quyền ra lệnh tạm giữ thì nên quy định cho họ thêm thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp để có thể làm rõ những trường hợp cụ thể và đối tượng bị áp dụng tạm giữ theo thẩm quyền của người này. 2.3. Thời hạn tạm giữ. Khoản 1 Điều 87 BLTTHS quy định: “Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày,kể từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt”. Để đạt được mục tiêu của tạm giữ, thời điểm tính thời hạn tạm giữ không phải là thời điểm bắt người. Mặt khác để hạn chế việc giữ người trái pháp luật thì thời điểm tình thời hạn tạm giữ cũng không được tính từ khi ra lệnh tạm giữ mà được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng thì các quy định trên vẫn còn nhiều vướng mắc. Thứ nhất : Theo quy dịnh tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS năm 2003 thì thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày kể từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Có nghĩa là thời hạn tạm giữ được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Bên cạnh đó, tại mục c khoản 2 Điều 81 BLTTHS năm 2003 có quy định người chỉ huy tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng thì có quyền bắt người trong trường hợp khẩn cấp và có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 bộ luật này. Trong trường hợp tàu bay thì có thế về kịp thời hạn để giao cho cơ quan điều tra nhưng trong một số trường hợp tàu biển thì khó có thế về kịp thời hạn để giao cho cơ quan điều tra thì thời hạn tạm giữ được tính với người bị bắt sẽ như thế nào? Về vẫn đề này vẫn chưa được quy định cụ thể. Do đó pháp luật cần phải nhanh chóng có quy định cụ thể về hướng giải quyết. Thứ hai: Theo khoản 1 Điều 87 BLTTHS năm 2003 thì thời hạn tạm giữ được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mặt khác, theo quy định tại điều 86 bộ luật này, tạm giữ có thế áp dụng đối với người phạm tội tự thú hoặc đầu thú, và như chúng ta đã biết thì người phạm tội tự thú, đầu thú không phải là người phạm tội bị bắt mà họ tự nguyện trình diện, ra khai báo hành vi phạm tội của mình nên họ không phải là người bị bắt. Vậy thời hạn tạm giữ đối với họ được tính từ thời điểm nào?, pháp luật chưa có quy định cụ thể. Vì vậy cần sửa đổi bổ sung quy định về thời hạn đối với người tự thú, đầu thú. Thứ ba: Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày. Vậy ở đây “ngày” trong cụm từ “ba ngày” được hiểu như thế nào? Là bao gồm cả ngày và đêm là 24 giờ hay chỉ là 12 giờ? Điều luật này cũng chưa có quy định cụ thể, do vậy cần phải quy định rõ ràng hơn, tránh gây sự chồng chéo vướng mắc trong khi áp dụng luật. Nên sửa cụm từ “ba ngày” trong khoản 1 Điều 87 thành 72 giờ để hợp lí hơn hoặc giải thích rõ ràng khái niệm “ngày” để có sự thống nhất. Thứ tư: Theo quy định tại khoản 4 điều 87 BLTTHS năm 2003, thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam. Đây là quy định có tính nhân đạo rất rõ nét. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là khi bị can bị tạm giam thì việc tính trừ thời hạn tạm giữ vào thời hạn tạm giam như thế nào khi viết lệnh tạm giam? Đã có cơ quan tố tụng hướng dẫn cấp dưới cách viết lệnh tạm giam bằng cách ghi vào lệnh tạm giam thời hạn tạm giam sẽ được tính kể từ ngày bị can bị tạm giữ, với lí do ghi như vậy sẽ trừ ngay được vào thời hạn tạm giữ vào thời hạn tạm giam. Thực ra đây chỉ đơn thuần là kĩ thuật ghi văn bản, ghi như thế nào để có thể trừ thời hạn tạm giữ vào thời hạn tạm giam, nhằm tạo điều kiện cho cơ quan giam giữ người thực hiện đúng quy định của pháp luật về tính thời hạn tạm giữ vào thời hạn tạm giam. Nội dung này cho thấy rằng, khi ghi thời hạn tạm giam trong lệnh tạm giam, nếu bị can trước đó có bị tạm giữ thì cần phân biệt các trường hợp sau đây: Một là bị can bị tạm giữ và sau đó bị tạm giam, thời hạn tạm giam nối liền ngay thời hạn tạm giữ. Hai là sau khi bị tạm giữ, mặc dù người đó bị khởi tố bị can nhưng không bị tạm giam ngay mà sau một thời gian mới bị tạm giam. Trường hợp này giữa thời hạn tạm giam với thời hạn tạm giữ không liền nhau. Việc ghi lệnh tạm giam để có thể trừ đi thời hạn tạm giữ vào thời hạn tạm giam trong hai trường hợp nói trên khác nhau.Với trường hợp thứ nhất,việc tính thời hạn tạm giam có thể tính từ ngày người đó bị tạm giữ. Trường hợp thứ hai thì sau khi ghi thời hạn tạm giam bị cáo theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và tính từ khi bị cáo bị bắt tạm giam,cần ghi rõ có trừ đi thời hạn bị cáo bị tạm giữ vào trong thời hạn tạm giam. Với hai cách ghi như vậy sẽ giúp cho người thi hành lệnh tạm giam biết được giới hạn thời hạn của việc tạm giam để thi hành đúng pháp luật. *** Thời hạn, thủ tục áp dụng biện pháp tạm giữ phải được quy định phù hợp với cả tiến trình tố tụng, cũng như với giai đoạn tố tụng, để biện pháp này thực sự phát huy được vai trò, hiệu quả thực sự trong việc thực hiện nhiệm vụ phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lí nghiêm minh và kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, không được để tồn tại những khoảng trống trong quá trình tố tụng vừa gây cản trở các cơ quan tiến hành tố tụng,vừa tạo cho các hành vi vi phạm pháp luật nảy sinh. 2.4. Về gia hạn tạm giữ. +) Khoản 2 Điều 87 BLTTHS năm 2003 quy định: “Trường hợp cần thiết người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không được quá ngày;trong trường hợp đặc biệt,người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ hai lần nhưng không được quá 3 ngày…” Quy định này sẽ giúp cho người hoạt động điều tra có hiệu quá hơn.Tuy nhiên luật cần phải nêu rõ: trong trường hợp cần thiết là ra quyết định tạm giữ là những trường hợp nào, mức độ cụ thể ra sao. Vì luật chưa có quy định rõ điều này nên trong thực tiễn áp dụng có thể dẫn tới sự áp dụng không thống nhất quy định này trong việc gia hạn tạm giữ. Mặt khác, cần quy định rõ hơn “trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ hai lần nhưng không quá ba ngày”. Nếu quy định như trên thì nên hiểu “hai lần” là mỗi lần không được quá ba ngày hay nên hiểu “hai lần” nhưng tổng thời gian hai lần đó là không quá ba ngày? Trong thực tế sẽ có nhiều người hiểu sai lệch quy định của luật. Do đó, bộ luật tố tụng hình sự cần có sự quy định rõ ràng hơn. +) Khoản 3 Điều 87 BLTTHS năm 2003 quy định: “Trong khi tạm giữ, nếu không có căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ”. Việc luật quy định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ nếu không có đủ căn cứ khới tố bị can là hoàn toàn hợp lí. Tuy nhiên luật lại không quy định thẩm quyền trả tự do và thủ tục trả tự do cho người bị tạm giữ. Do đó câu hỏi đặt ra là: trong trường hợp phải trả tự do cho người bị tạm giữ thì ai có quyền trả tự do cho họ? Phải chăng là người có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 thì cũng là người có thẩm quyền ra lệnh trả tự do cho người bị tạm giữ hay là một chủ thể khác. Và thủ tục trả tự do cho họ được quy định như thế nào? Điều này cũng cần được quy định rõ ràng hơn *** Bên cạnh đó thì các quy định về tạm giữ cần phải được xây dựng phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội nước ta trong giai đoạn hiện nay cũng như trong tương lai gần, hạn chế việc liên tục sửa đổi, bổ sung BLTTHS nói chung và các chế định về biện pháp ngăn chặn tạm giữ nói riêng. Từ đó tạo ra sự ổn định nhất quán trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Các quy định về tạm giữ tạm giữ trong tố tụng hình sự là cơ sở pháp lí cần thiết cho hoạt động chống và phòng ngừa tội phạm. Song để áp dụng đúng đắn, đầy đủ và thống nhất các quy định này, các cơ quan có thẩm quyền cần rà soát các văn bản hướng dẫn hiện hành, loại bỏ các văn bản còn chồng chéo hoặc không còn phù hợp. Đồng thời ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn các vấn đề nảy sinh từ thực tiễn áp dụng luật. *** Để nâng cao hiệu quả các biện pháp tạm giữ ngoài việc không ngừng hoàn thiện các quy định của pháp luật,các cơ quan tiến hành tố tụng và nhưng người tiến hành tố tụng cần phải kịp thời và tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật tránh việc sử dụng các biện pháp này như một phương tiện hữu hiệu để chứng minh tội phạm và xác định sự thật của vụ án. Cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác tạm giữ có đủ trình độ,năng lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ trong tình h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTạm giữ trong Tố tụng hình sự và một số đề xuất hoàn thiện.doc
Tài liệu liên quan