MỤC LỤC
Trang
Phần I
KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA, CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN TĂNG TRƯỞNG TRONG DNTM
Phần II
CÁC ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN ĐẢM BẢO SỰ TĂNG TRƯỞNG
1.Nguồn vốn . 4
2.Nguồn nhân lực . 5
Phần III
CÁC PHƯƠNG THỨC TĂNG TRƯỞNG
1.Tăng trưởng nhờ sát nhập theo chiều dọc . 6
2.Tăng trưởng bằng đa dạng hóa . 8
3.Tăng trưởng nhờ liên doanh . 10
Phần IV
CÔNG TY CỔ PHẦN KINH ĐÔ
1.Quá trình hình thành, xây dựng và phát triển của công ty . 11
2.Các nhân tố thuận lợi, khó khăn tác động đến sự tăng trưởng của công ty 13
3.Hợp tác đầu tư 14
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1801 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tăng trưởng trong Doanh nghiệp thương mại- Thực tiễn tại công ty cổ phần Kinh Đô, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g tới đạt được các mục tiêu quan trọng, chủ yếu nhất cho dù yêu cầu về vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp có thể có những biến động thậm chí rất lớn song đảm bảo về vốn cho các dự án thực hiện mục tiêu tăng trưởng vẫn có sự ưu tiên.
-Thứ hai : Cần phải xác định nhu cầu về vốn, xác lập ngân sách về vốn trong đó xác định những nhu cầu nào về vốn được chấp nhận và những nhu cầu nào chưa cấp bách hay bác bỏ. Trong ngân sách về vốn cần xác định :
Mô tả chi tiết yêu cầu về vốn bao gồm cả lượng tiền cần đầu tư và thu nhập kỳ vọng.
Loại bỏ các yêu cầu không phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp cũng như các bộ phận chức năng .
Phân tích chi phí biên và thu nhập biên.
Phân loại yêu cầu về vốn theo các phương pháp giá trị hiện tại ròng và lãi suất thu hồi nội bộ hay phương pháp hoà vốn.
Lựa chọn các phương pháp mà vốn bỏ ra mang lại mức lãi cao nhất. Quá trình đầu tư vốn tiếp tục cho đến khi doanh nghiệp sử dụng hết vốn hiện có hay mức lãi của dự án xuống thấp dưới mức doanh nghiệp có thể chấp nhận.
-Thứ ba : Phân tích cơ cấu tài chính của doanh nghiệp .
Cơ cấu tài chính của doanh nghiệp thương mại bao gồm vốn sở hữu và vốn vay mà doanh nghiệp sử dụng – cơ cấu này thể hiện mạnh, yếu của tài chính doanh nghiệp và có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến việc thu hút các nguồn vốn. Cơ cấu tài chính cũng thể hiện khả năng chi trả tài chính. Cơ cấu tài chính chịu ảnh hưởng của mục tiêu và chiến lược doanh nghiệp và phải thích ứng với tính chất của các nhu cầu về vốn. Định kỳ doanh nghiệp cần phải kiểm tra tính hợp lý của cơ cấu hiện tại. Đặc biệt khi thu hút thêm nguồn vốn mới cần phải kiểm tra lại cơ cấu tài chính mà doanh nghiệp muốn đạt được.
-Thứ tư : Phân tích và đánh giá các nguồn vốn khác nhau trước khi đi đến lựa chọn nguồn vốn nào đó.
Có những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tăng trưởng của doanh nghiệp khi lựa chọn nguồn tài chính của doanh nghiệp : cơ cấu tài chính hiện tại, tính chất các tài sản có, thu nhập và sự ổn định của thu nhập cũng như các điều kiện của thị trường tài chính hiện tại chi phối. Điều quan trọng nhất trong việc thu hút vốn là doanh nghiệp cần phải tạo ra và duy trì sự hấp dẫn của mình trên thị trường tài chính. Doanh nghiệp cũng có thể thu hút vốn nhờ các chủ sở hữu, cổ đông hay các nguồn tín dụng dài hạn trung hạn và các nguồn khác………
-Thứ năm : Sau khi đã phân tích , đánh giá các nguồn vốn, doanh nghiệp thường lựa chọn nguồn vốn đảm bảo thực hiện phương thức tăng trưởng trên cơ sở xem xét các yếu tố cơ bản.
+ Mục đích sử dụng vốn
+ Chi phí sử dụng vốn
+ Những lợi ích và thiệt hại khi thu hút vốn
b) Ngân sách
Ngân sách là công cụ quan trọng của quản lý tài chính và kiểm tra quản lý. Với ý nghĩa nào đó ngân sách là kế hoạch tác nghiệp mà doanh nghiệp dự định thực hiện trong tương lai. Các loại ngân sách chủ yếu của doanh nghiệp bao gồm : ngân quỹ tiền mặt, ngân quỹ và doanh số bán , ngân sách về vốn và dự toán của các loại chi phí….
Phân bổ nguồn vốn và lập ngân sách là những công cụ cơ bản đảm bảo cho việc thu hút và sử dụng các nguồn vốn để thực hiện phương thức tăng trưởng đã lựa chọn một cách có hiệu quả
2.Nguồn nhân lực
Là một trong những yếu tố quyết định nhất đối với việc đạt được các mục tiêu và chiến lược của doanh nghiệp trong đó có tăng trưởng . Khi lựa chọn một phương thức tăng trưởng , bên cạnh cần phải tính đến nguồn nhân lực hiện có doanh nghiệp cần phải tính đến nguồn nhân lực doanh nghiệp có thể thu hút từ bên ngoài (trong tương lai qua thị trường lao động).
Doanh nghiệp cần phải chủ động và thường xuyên có kế hoạch bồi dưỡng kiến thức quản trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho người quản lý các cấp, nhân viên kho tàng, bán hàng…. để đảm bảo khả năng đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của khách hàng về chất lượng hàng hoá và dịch vụ.
Nhu cầu về nhân lực (số lượng, chất lượng, cơ cấu…) có thể xác định theo yêu cầu của mỗi dự án cũng như phục vụ cho thực hiện chiến lược mà doanh nghiệp hướng tới. Song bên cạnh yếu tố này cần phải quan tâm đến sự thống nhất ý chí, sự cam kết của các thành viên trong doanh nghiệp , từ người chủ, nhà quản trị cho đến người lao động làm công ăn lương. Chính yếu tố chất lượng của nguồn nhân lực sẽ đảm bảo khắc phục những khó khăn trở ngại trong việc đạt được những mục tiêu của tăng trưởng , để đạt được sự thống nhất của tập thể ngườc lao động. Lãnh đạo doanh nghiệp cần phải làm rõ mục tiêu và chiến lựơc mà doanh nghiệp theo đuổi và giải thích để mọi người hiểu, các mục tiêu này đáp ứng được mục đích của mỗi cá nhân cũng như lợi ích cuả doanh nghiệp trước mắt cũng như lâu dài. Nhà quản trị có thể sử dụng nhiều cách khác nhau để tạo điều kiện và động lực cho tập thể lao động phát huy tối đa tiềm năng sẵn có, tận dụng cơ hội hành động tiến tới mục tiêu.
Tạo bầu không khí đoàn kết, đồng tâm nhất trí, cùng nhau hành động, cùng sáng tạo với tinh thần trách nhiệm cao là một trong những yếu tố căn bản giúp doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả phương thức tăng trưởng đã lựa chọn.
PHẦN III >CÁC PHƯƠNG THỨC TĂNG TRƯỞNG
Có hai phương thức tăng trưởng trong các doanh nghiệp thương mại :
Một là : Tăng trưởng bằng tự đầu tư, tức là bằng cách tăng thêm nguồn lực nhờ khả năng sẵn có của doanh nghiệp mà không có sự tham gia của chủ đầu tư khác.
Phương thức tăng trưởng này có những ưu thế :
Thuận lợi và chủ động kiểm soát được sự phát triển của doanh nghiệp.
Không có nguy cơ bị mất quyền soát vốn trong điều kiện doanh nghiệp vẫn còn những nguồn tiềm năng để tăng trưởng.
Song trong trường hợp có những điều kiện về môi trường và thị trường như nhu cầu tăng cao đặc biệt, các đối thủ cạnh tranh mạnh lên, hoạt động ráo riết sự xuất hiện những mặt hàng có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ đòi hỏi phải có đầu tư lớn để đổi mới kinh doanh, đầu tư vào maketing, mạng lưới tiêu thụ …. thì các nguồn lực của doanh nghiệp có thể phải tìm cách tăng trưởng thông qua con đường thu hút các nguồn lực từ bên ngoài như tìm kiếm, mua lại công ty khác…(Sự tăng trưởng như vậy được gọi là tăng trưởng ngoại vi).
Hai là : tăng trưởng ngoại vi có ưu điểm là khắc phục những khuyết điểm của tăng trưởng nhờ các nguồn lực bên trong doanh nghiệp . Nó cho phép doanh nghiệp có thể thu hút được khối lượng các nguồn lực và sự tham gia của các chủ thể mới, làm tăng thêm khả năng doanh nghiệp thích ứng được sự biến động lớn của thị trường và môi trường, giảm bớt được các chi phí đào tạo và chi phí thâm nhập thị trường. Sau nữa dễ thực hiện với những thuận lợi về tài chính, vì với các giá tài sản hiện có thường rẻ hơn so với việc đầu tư mới, rút ngắn thời gian khai thác. Đương nhiên việc có mặt thêm các chủ sở hữu càng làm mất đi quyền tự do lựa chọn các quyết định, phải chia sẻ quyền lực và lợi ích.
*Tăng trưởng ngoại vi
1.Tăng trưởng nhờ sát nhập theo chiều dọc
Tăng trưởng bằng hội nhập của doanh nghiệp thương mại được thực hiện bằng cách doanh nghiệp liên kết (sát nhập) với những người cung ứng (doanh nghiệp sản xuất hay thương mại bán buôn) hay với những doanh nghiệp thương mại khác ( bán buôn hay bán lẻ) để thực hiện khâu tiêu thụ sản phẩm hoặc sát nhập với tất cả các doanh nghiệp loại này để thực hiện sự kiểm soát toàn bộ từ cung ứng đến tiêu thụ sản phẩm. Sự sát nhập như vậy thực chất là tạo lập một sự liên kết giữa các doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp đảm nhận một khâu hay công đoạn trong quá trình đưa hàng hoá từ sản xuất đến tiêu dùng.
Thực hiện sự liên kết này sẽ giúp cho doanh nghiệp nhanh chóng đạt được mục tiêu của mình, củng cố được vị thế của doanh nghiệp trên thương trường và phát huy tốt hơn các nguồn tiềm năng của doanh nghiệp .
Có những yếu tố khác nhau thúc đẩy sự sát nhập theo chiều dọc :
Thứ nhất : do hoạt động của doanh nghiệp luôn gắn với các yếu tố của môi trường và thị trường, gắn chặt với người cung ứng và khách hàng tiêu thụ sản phẩm đặc biệt các công ty chuyên doanh nên nếu các mối quan hệ này không chặt chẽ, phối hợp không tốt thì các chi phí giao dịch sẽ tăng mà kết quả có thể vẫn không đạt được, tính bị động trong kinh doanh tăng lên.
Thứ hai : Việc sát nhập sẽ giúp cho doanh nghiệp tăng cường được các nguồn lực và chúng được sử dụng hợp lý hơn, thực hiện được sự chỉ đạo tập trung thống nhất từ đầu vào đến đầu ra, đồng thời việc nắm bắt các thông tin ở đầu vào và đầu ra sẽ nhanh chóng và đầy đủ hơn, các quyết định sẽ kịp thời, trở nên phù hợp.
Để đi đến quyết định có nên thực hiện việc sát nhập theo chiều dọc hay không doanh nghiệp cần phải tính đến chi phí giao dịch - giao dịch trong việc mua hàng của người cung ứng và trong việc bán hàng cho những người tham gia vào việc tiêu thụ hàng hoá đầu ra của doanh nghiệp . Nếu thực hiện việc sát nhập thì các chi phí này sẽ trở thành chi phí phối hợp nội bộ. Doanh nghiệp thương mại sẽ thực hiện sát nhập với người cung ứng hay doanh nghiệp thương mại khác trong khâu tiêu thụ nếu chi phí phối hợp nội bộ không vượt quá chi phí giao dịch. Sau nữa sát nhập cũng đem lại sự ổn định trong cung ứng cũng như tiêu thụ, chia sẻ những rủi ro, biến động trong kinh doanh. Tổ chức nội bộ cũng tạo ra những thuận lợi cho việc phối hợp hiệp đồng áp dụng một hệ thống quyết định thích hợp và chủ động, tăng cường sự hợp tác và giảm bớt những đối kháng giữa những đối tác trước đây.
Sự sát nhập theo chiều dọc cũng giúp các doanh nghiệp thương mại thực hiện được sự điều hoà thị trường ở đầu ra do các thông tin ở đầu vào và đầu ra được xử lý tốt hơn, đồng bộ và toàn diện hơn, sự xích lại gần giữa cung ứng và tiêu thụ sẽ làm cho các quyết định được đưa ra nhanh chóng, kịp thời, hiệu chỉnh tốt hơn các hoạt động trong quá trình hàng hoá đi từ sản xuất đến tiêu dùng, tiết kiệm được các chi phí và nâng cao hiệu quả .
Sau cùng, sát nhập theo chiều dọc sẽ giúp tận dụng được những nguồn tiềm năng của từng doanh nghiệp chưa được khai thác hết hay chưa khai thác có hiệu quả.
a.Sự sát nhập theo chiều dọc với người cung ứng
Đây là hình thức tìm cách đạt được sự tăng trưởng bằng cách nắm quyền sở hữu hay tăng sự kiểm soát đối với người cung ứng, có hai cách để đạt được mục tiêu này:
Một là : Doanh nghiệp thương mại thành lập một công ty con chuyên thực hiện chức năng cung ứng, qua đó thiết lập nguồn cung ứng của mình.
Hai là : Thực hiện việc mua một phần hay toàn bộ các cơ sở cung ứng cho doanh nghiệp .
Sát nhập ngược chiều đặc biệt có lợi trong trường hợp người cung ứng đang tăng trưởng nhanh, có nhiều khả năng thu được lợi nhuận. Nó cũng hấp dẫn nếu như nguồn cung ứng hàng hoá cho doanh nghiệp bấp bênh, không ổn định và có thể giảm được các chi phí giao dịch.
Tuy vậy sát nhập ngược chiều cũng có không ít những vấn đề phát sinh : để thực hiện việc kiểm soát đối với cung ứng cần phải có vốn lớn, quy mô tăng dẫn đến việc quản lý cũng trở nên phức tạp hơn. Nếu không đạt được sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng thì hiệu quả có thể bị hạ thấp, tính linh hoạt sẽ giảm.
b.Sát nhập theo chiều dọc với người tiêu thụ ( sát nhập thuận chiều)
Đây là hình thức doanh nghiệp thương mại tìm cách tăng trưởng bằng việc mua lại toàn bộ hay một phần các doanh nghiệp hay đại lý ….. thuộc hệ thống tiêu thụ sản phẩm sát với thị trường đích, cụ thể là có thể lập hệ thống bán buôn, bán lẻ trực thuộc doanh nghiệp hay mua lại các cơ sở này từ bên ngoài để thực hiện quyền kiểm soát toàn bộ hay một phần các kênh tiêu thụ mà doanh nghiệp thấy cần thiết.
Hình thức này có lợi đối với các doanh nghiệp nếu các cơ sở tham gia các kênh phân phối ở đầu ra đang trong quá trình tăng trưởng nhanh hoặc hàng hoá doanh nghiệp đang tồn đọng với khối lượng lớn, khó tiêu thụ. Sự sát nhập ở đầu ra giúp doanh nghiệp tránh được những khó khăn trong tiêu thụ nhờ việc nắm được quyền kiểm soát, điều hoà việc phân phối hàng hoá và tránh được sự cạnh tranh gay gắt về giá. Các doanh nghiệp khi thực hiện sự sát nhập đã đem lại hiệu quả to lớn và sự tăng trưởng ổn định như Petrolimex, Tổng công ty thép…. nhờ nắm được kiểm soát nguồn cung ứng và hệ thống tiêu thụ các doanh nghiệp này đã thực hiện một sự điều tiết có hiệu quả, luôn giữ được sự ổn định với nguồn cung ứng, điều hoà hàng hoá và giá cả ở đầu ra tránh được những ảnh hưởng mạnh từ môi trường cũng như thị trường trong nước và quốc tế.
2.Tăng trưởng bằng đa dạng hoá
Cơ sở của việc tăng trưởng bằng đa dạng hoá
Khi doanh nghiệp thương mại không thể thực hiện được sự tăng trưởng bằng những mặt hàng hiện đang kinh doanh và trên thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt động thì việc tăng trưởng bằng đa dạng hoá thị trường tiêu thụ tỏ ra thích hợp.
Những lý do khiến doanh nghiệp thương mại lựa chọn phương thức tăng trưởng bằng đa dạng hoá là :
Thị trường mặt hàng kinh doanh đang tiến tới bão hoà hay mặt hàng kinh doanh đã ở cuối chu kỳ, tổng doanh số khó có thể tăng ở trên thị trường này.
Doanh nghiệp có đủ vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật lao động….. để có thể nhanh chóng đầu tư kinh doanh một mặt hàng mới hay trên thị trường mới hy vọng phát triển thị trường, nâng cao doanh thu và đạt được lợi nhuận cao.
Luật chống độc quyền hạn chế doanh nghiệp mở rộng thêm doanh thu ở trên thị trường đang hoạt động.
Các điều kiện để thâm nhập thị trường mới tương đối thuận lợi. Đa dạng hoá giúp doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả hơn vốn đầu tư. Nhờ đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh mà doanh nghiệp khai thác triệt để hơn các tài sản chưa được sử dụng hết hay chưa hợp lý qua đó hạ thấp được giá thành nhờ các chi phí cố định phân bổ cho một sản phẩm giảm . Sự đa dạng hoá sẽ có lợi nếu doanh nghiệp trước đó chỉ kinh doanh những mặt hàng mang tính thời vụ, những mặt hàng mà nhu cầu của thị trường thay đổi không ổn định.
Đa dạng hoá cũng giúp doanh nghiệp khai thác tốt hơn các nguồn lực về lao động và tiềm năng của cán bộ quản lý. Tận dụng được các lợi thế và vị trí của doanh nghiệp cũng như lợi thế thương mại, sử dụng có hiệu quả hơn các chi phí tiếp thị và phân phối. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh cũng tạo ra sự hấp dẫn hơn đối với khách hàng gây được sự uy tín và vị thế của doanh nghiệp trên thương trường.
Sự đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh và thị trường kinh doanh cũng giúp doanh nghiệp giảm được những rủi ro nhất là rui ro tài chính đối với các doanh nghiệp lớn. Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các tập đoàn kinh doanh, các doanh nghiệp lớn ở trong nước cũng như nước ngoài đều đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh và thị trường kinh doanh . Sự phân chia rủi ro cho các mặt hàng kinh doanh và cho thị trường làm cho doanh nghiệp có thể bù trừ được các khoản lỗ của một mặt hàng hay tên một thị trường bằng những khoản lãi cao hơn ở những mặt hàng và thị trường khác.
Chính vì giảm bớt rủi ro, thu lợi nhuận ổn định nên các doanh nghiệp này thu hút vốn đầu tư hay vay vốn lợi nhuận lớn hơn với những chi phí thấp hơn. Lợi thế đòn bẩy đánh giá tăng lên của khả năng sinh lời của vốn tự có kéo theo sự tăng lên của hệ số vay nợ. Doanh nghiệp cũng đạt được sự hoà vốn nhanh hơn.
Sự giảm bớt rủi ro trong kinh doanh vừa làm yên lòng người chủ vừa là một trong những mục tiêu của nhà quản lý cũng như người lao động vì thu nhập và công việc làm ổn định của họ.
Đa dạng hoá giúp doanh nghiệp giảm được những rủi ro nếu doanh nghiệp khẳng định được đầy đủ các yếu tố cần thiết đảm bảo thành công khi thực hiện đa dạng hoá phải đánh giá được chính xác nhu cầu thị trường, lối vào thị trường , phản ứng của đối thủ cạnh tranh và của khách hàng…. Và các vấn đề liên quan khác. Phải xác định chính xác quy mô hiệu quả của tăng trưởng , đảm bảo thu hút được các nguồn lực và tránh lãng phí nguồn lực trong tương lai. Sau cùng tăng trưởng bằng đa dạng hoá phải nằm trong chiến lược phát triển doanh nghiệp , đảm bảo thực hiện có hiệu quả chiến lược mà doanh nghiệp đang theo đuổi.
Tăng trưởng bằng đa dạng hoá được thực hiện bằng những con đường : đa dạng hoá đồng tâm , đa dạng hoá ngang và đa dạng hoá tổ hợp.
a.Tăng trưởng bằng đa dạng hoá đồng tâm
Đa dạng hoá đồng tâm là hình thức doanh nghiệp tận dụng những ưu thế của mình để đưa ra mặt hàng mới hướng tới những thị trường mới hoặc mặt hàng cũ song có thể đem lại kết quả cao. Một doanh nghiệp kinh doanh hàng thực phẩm tươi sống có thể kinh doanh thực phẩm công nghệ trên cơ sở tận dụng cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ nhân viên với những hiểu biết ngành hàng và kinh doanh ngành hàng, những kinh nghiệm trong mua hàng, tiếp thị cũng như tiêu thụ sản phẩm….
Doanh nghiệp cũng có thể thực hiện Đa dạng hoá đồng tâm bằng việc thực hiện tự mình đầu tư kinh doanh hoặc mua lại các cơ sở bên ngoài.
b.Tăng trưởng đa dạng hoá ngang
Là tăng trưởng mà doanh nghiệp hướng vào thị trường tiêu thụ với những mặt hàng mới về mặt công nghệ chế tạo không liên quan đến mặt hạng hiện có mà doanh nghiệp đang kinh doanh. Khi tiến hành phương thức tăng trưởng bằng đa dạng hoá ngang doanh nghiệp cần phải tính đến các điều kiện vể tiền vốn, kỹ thuật và nghiệp vụ kinh doanh những mặt hàng mới, các kiến thức vể Marketing cũng như trong phân phối, tiêu thụ ….
Thực hiện đa dạng hoá ngang doanh nghiệp cũng có thể bằng con đường tự đầu tư kinh doanh hoặc mua lại những cơ sở kinh doanh ở bên ngoài.
c.Tăng trưởng bằng đa dạng hoá tổ hợp
Thực hiện đa dạng hoá tổ hợp là tìm cách hướng tới kinh doanh trên thị trường mới ứng với những mặt hàng mới thuộc những nhóm ngành hàng khác nhau
Tăng trưởng bằng phương thức này giúp doanh nghiệp khắc phục được tính thời vụ, thiếu vốn, thu nhập thấp hay trong môi trường kinh doanh không thuận lợi. Đôi khi doanh nghiệp thực hiện đa dạng hoá tổ hợp vì có sẵn các nguồn tài chính. Điều cơ bản khi thực hiện đa dạng hoá tổ hợp là kinh doanh cần đánh giá đựơc lợi ích mà phương thức tăng trưởng này đem lại hay là đối với thị trường hiện tại không cho phép họ thực hiện tăng trưởng bằng các phương pháp khác.
3.Tăng trưởng nhờ liên doanh
Liên doanh là sự tham gia của hai hay nhiều công ty vào một doanh nghiệp trong đó các bên cùng góp vốn, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Sự liên doanh có thể thực hiện giữa các công ty trong một nước hay của các nước khác nhau.
Thực hiện liên doanh với các doanh nghiệp khác sẽ tạo được thị trường tiêu thụ lớn hơn, thâm nhập thị trường của các nước đối tác dễ dàng hơn. Khai thác tốt hơn lợi thế so sánh và những nguồn tiềm năng của các bên do có thể bổ sung cho nhau những khiếm khuyết về các nguồn lực cũng như thị trường tiêu thụ. Những tiến bộ và kinh nghiệm quản lý và công nghệ cho phép doanh nghiệp sẽ hoạt động có hiệu quả hơn khi ở quy mô lớn. Liên doanh cũng cho phép doanh nghiệp dễ dàng đạt được sự đa dạng hoá thị trường . Đồng thời cũng giúp cho các doanh nghiệp phân tán được rủi ro trong kinh doanh , nâng cao lợi nhuận.
Song tăng trưởng nhờ liên doanh cùng làm cho doanh nghiệp bị mất đi những lợi thế : do phân chia quyền sở hữu nên doanh nghiệp cũng mất đi quyền tự do hành động , lợi nhuận thu được cũng bị chia sẻ. Những bí quyết công nghệ , kinh doanh , quản lý có thể cũng bị mất. Sau nữa việc hoạt động ở một thị trường mới lạ cũng dễ bị rủi ro hơn so với thị trường quen thuộc.
PHẦN IV > CÔNG TY CỔ PHẦN KINH ĐÔ
1.Quá trình hình thành, xây dựng và phát triển của công ty
Công ty cổ phần Kinh Đô được thành lập năm 1993, khởi đầu là một doanh nghiệp nhỏ sản xuất bánh Snack tại Phú Lâm, quận 6. Trải qua quá trình 10 năm xây dựng và phát triển, đến nay công ty Kinh Đô có 4 công ty thành viên với tổng số lao động hơn 4000 người:
Công ty cổ phần Kinh Đô tại TP. HCM.
Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Kinh Đô miền Bắc.
Công ty TNHH xây dựng và chế biến thực phẩm Kinh Đô – Hệ thống Kinh Đô Bakery.
Công ty cổ phần kem KI DO
Công ty Kinh Đô hiện là công ty sản xuất và chế biến bánh kẹo hàng đầu tại thị trường Việt Nam với 7 năm liên tục được người tiêu dùnh bình chọn là Hàng Việt Nam chất lượng cao. Hệ thống phân phối của Kinh Đô trải khắp 64 tỉnh và thành phố với 150 nhà phân phối và gần 40.000 điểm bán lẻ. Sản phẩm của Kinh Đô đã được xuất khẩu sang thị trường 20 nước trên thế giới như Mỹ, Úc, Canada, Đài Loan, Singapore… với kim ngạch xuất khẩu phấn đấu đạt 10 triệu USD vào năm 2003.
Trong chiến lược phát triển, Công ty Kinh Đô đã đầu tư máy móc thiết bị, ứng dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến theo tiêu chuẩn Châu Au, quản lý theo hệ thống chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001. Bên cạnh đó, Công ty nghiên cứu và phát triển sản phẩm phù hợp với thị hiếu, nhu cầu và xu hướng tiêu dùng của khách hàng Việt Nam và nước ngoài với hàm lượng đường, chất béo thấp, sản phẩm giàu các loại vitamin, canxi, khoáng chất, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn sức khoẻ cho người tiêu dùng.
Sơ lược về quá trình xây dựng và phát triển của công ty
Thương hiệu Kinh Đô gần đây được nhiều người biết đến thông qua sản phẩm bánh kẹo và gần đây Kinh Đô còn được nổi tiếng do công ty thành viên cùng hệ thống Kinh Đô là Công ty CP Kinh Đô miền Bắc tham gia thị trường chứng khoán, với cổ phiếu NKD. Có nhiều nhà đầu tư không hiểu vì sao có nhiều công ty Kinh Đô. Ông Trần Lệ Nguyên, Tổng giám đốc Công ty CP Kinh Đô cho biết, tiền thân của Công ty CP Kinh Đô là Công ty TNHH xây dựng và Chế biến Thực phẩm Kinh Đô được thành lập năm 1993 tại TP. Hồ Chí Minh với vốn đầu tư là 1,4 tỷ đồng, chuyên sản xuất bánh snack, một loại bánh mới đối với người tiêu dùng trong nước. Một năm sau, công ty kinh doanh thành công với loại bánh snack, công ty tăng vốn điều lệ lên gấp 10 lần và nhập về dây chuyền sản xuất bánh snack trị giá 750.000USD từ Nhật Bản. Năm 1997, công ty nhập về dây chuyền sản xuất bánh mì, bánh bông lan công nghiệp, cuối năm 1998 nhập thêm dây chuyền sản xuất kéo sôcôla. Đến năm 1999, Công ty nâng vốn điều lệ lên 40 tỷ đồng, mở rộng nhà xưởng và khai trương hệ thống cửa hàng bánh kẹo khắp nơi trong nước và năm 2000 vốn công ty đã lên 51 tỷ đồng. Với nhiều dây chuyền sản xuất nhiều loại bánh, công ty đã đẩy mạnh XK sang các nước Mỹ, Pháp, Canada, Singapore, Nhật, Lào, Thái Lan. Năm 2001, có thêm Công ty CP Thực phẩm Kinh Đô Miền Bắc được thành lập tại Hưng Yên với số vốn là 50 tỷ đồng, để sản xuất bánh kẹo cung ứng cho thị trường phía Bắc. Đến năm 2002 vốn điều lệ Công ty Kinh Đô lên 150 tỷ đồng, trong đó có sự góp vốn của Công ty TNHH Xây dựng và Chế biến Thực phẩm Kinh Đô là 50 tỷ đồng. Tính đến nay Công ty CP Kinh Đô có vốn điều lệ là 200 tỷ đồng, trong đó có 7 đơn vị và cá nhân có số cổ phần tỷ lệ từ 5% trở lên, với tổng giá trị cổ phiếu sở hữu là 182 tỷ đồng. Số còn lại là của cán bộ CNV.
Bắt đầu từ ngày 01/10/2002, Công Ty Kinh Đô chính thức chuyển thể từ Công ty TNHH Xây dựng và Chế Biến Thực Phẩm Kinh Đô sang hình thức Công ty Cổ Phần Kinh Đô. Bên cạnh đó, hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 được thay thế bằng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000, nhằm tăng hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhanh chóng hội nhập với quá trình phát triển của các nước trong khu vực, chuẩn bị cho tiến trình gia nhập AFTA vào năm 2003.
Tình hình sản xuất, kinh doanh
Cty đang sản xuất 7 nhóm sản phẩm: bánh cookies, bánh crackers, bánh quế, bánh snack, bánh trung thu, bánh mì công nghiệp, kẹo cứng, mềm và chocolate. Trong đó bánhn crackers là sản phẩm chủ lực của Cty, chiếm 52% thị phần bánh crackers trong nước. Sản phẩm bánh crackers của Cty đã được xuất đi nhiều nước trong đó có cả thị trường Mỹ. Kế đến là bánh cookies của Công ty chiếm tới 45% thị phần bánh cookies trên thị trường trong nước. Tiếp theo là bánh trung thu, tuy là mặt hàng có tính chất thời vụ nhưng doanh thu từ bánh trung thu lại chiếm tới 15% tổng doanh thu của Cty và Kinh Đô là nhãn hiệu chiếm vị trí số một về sản lượng, doanh số và công nghệ.
Hiện nay đã là nhà sản xuất bánh kẹo có hệ thống phân phối lớn với 150 nhà phân phối, 40.000 điểm bán lẻ và 25 bakery tại VN.
Doanh thu thuần (đơn vị : tỷ đồng)
Năm 2003 : 623
Năm 2004 : 718
Theo Kế hoạch :
Năm 2005 : 870
Năm 2006 : 1.050
Năm 2007 : 1.250
Triển vọng phát triển của ngành bánh kẹo :
Ngành bánh kẹo là một trong những ngành có mức tăng trưởng tương đối ổn định (khoảng 2%/năm) và là ngành năng động nhất trong ngành công nghiệp thực phẩm thế giới. Tại Việt Nam ngành bánh kẹo cũng đạt được sự tăng trưởng khá ổn định và có mức tăng trưởng cao hơn mức bình quân của thế giới. Mặt khác sự gia tăng dân số, tốc độ đô thị hóa cùng với sự tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua tác động tích cực đến mức tiêu thụ bánh kẹo, do đó triển vọng phát triển của ngành là rất khả quan. Với lợi thế của ngành cùng với nỗ lực của Công ty rõ ràng triển vọng phát triển của Công ty trong thời gian sắp tới là rất khả quan.
2.Các nhân tố thuận lợi, khó khăn tác động đến sự tăng trưởng của công ty
a>Thuận lợi
Về kinh tế :Tốc độ tăng trưởng kinh tế và thu nhập bình quân đầu người có ảnh hưởng đến việc tiêu thụ sản phẩm bánh kẹo. Những năm trở lại đây Việt Nam có tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định, trung bình đạt 7,3%/năm. Các chuyên gia phân tích đều cho rằng trong các năm tới việc Việt nam duy trì tốc độ tăng trưởng GDP ở mức 7%-8%/năm là hoàn toàn khả thi và sự tăng trưởng này có tác động tích cực đến sự phát triển của ngành sản xuất bánh kẹo .
Về luật pháp : Có thể nói, bánh kẹo là một trong những sản phẩm cần thiết trong cuộc sống hàng ngày của con người, đảm báo nhu cầu dinh dưỡng của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Mặt khác, các do
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tăng trưởng trong Doanh nghiệp thương mại- ví dụ công ty cổ phần Kinh Đô.doc