MỤC LỤC
I/ KHÁI QUÁT VỀ XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN SƠ THẨM DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN 1
1. Khái niệm và ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án. 1
1.1. Khái niệm về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án. 1
1.2. Ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án 2
2. Cơ sở của việc xây dựng các quy định về xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án các cấp. 2
II/ QUY ĐỊNH VỀ XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN SƠ THẨM DÂN SỰ GIỮA TÒA ÁN CÁC CẤP 3
1.Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện 4
2. Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh 6
III/ THỰC TIỄN THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CÁC CẤP- MỘT SỐ KIẾN NGHỊ. 8
1. Thực tiễn thực hiện các quy định về xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện. 8
2. Kiến nghị sửa đổi các quy định về xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện. 9
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10010 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án các cấp theo quy định của bộ luật tố tụng dân sụ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân các cấp là một trong những chế định quan trọng góp phần xác định Tòa án nào có quyền thụ lý và giải quyết các vụ việc dân sự. Vậy thẩm quyền xét xử sơ thẩm dân sự của Tòa án là gì ? pháp luật quy định như thế nào về thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp, những quy định này hiện đang gặp phải một số vướng mắc và khó khăn như thế nào ? Trong bài luận này, chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu để từ đó đưa ra những giải pháp hợp lý nhằm hoàn thiện hơn pháp luật Tố tụng, góp phần đưa pháp luật Tố tụng vào cuộc sống một cách thiết thực hơn.
I/ KHÁI QUÁT VỀ XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN SƠ THẨM DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN
Khái niệm và ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án.
1.1. Khái niệm về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án.
Theo từ điển Tiếng Việt, thẩm quyền được hiểu là “quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật”. Trong khoa học pháp lý, thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước do pháp luật quy định. Từ đó, có thể khái quát chung lại “Thẩm quyền của Tòa án là toàn bộ những quyền do pháp luật quy định, theo đó Tòa án được tiến hành xem xét, giải quyết những vụ việc cụ thể theo quy định của pháp luật”.
Sơ thẩm là xét xử một vụ án với tư cách là Tòa án ở cấp xét xử thấp nhất. Như vậy sơ thẩm là cấp xét xử đầu tiên là cấp xét xử thứ nhất, là lần xét xử thứ nhất của Tòa án. Tất cả các cấp xét xử sau phải qua cấp xét xử này.
Như vậy, thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án là việc Tòa án xem xét để giải quyết một vụ việc dân sự có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam theo thủ tục sơ thẩm hay không và Tòa án nào sẽ thụ lý giải quyết.
1.2. Ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án
- Việc xác định đúng thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án sẽ là cơ sở để xác định đúng thẩm quyền phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
- Tránh tình trạng giải quyết không đúng thẩm quyền hoặc đùn đẩy trách nhiệm giữa các Tòa án trong việc thụ lý giải quyết.
- Việc xác định đúng thẩm quyền sẽ tránh được vụ việc bị hủy để xét xử sơ thẩm lại gây mất thời gian, tổn phí vật chất cho cả Tòa án và đương sự.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án dân sự, đảm bảo sự phối hợp giữa Tòa án và cơ quan thi hành án trong việc chuyển giao bản sao bản án, quyết định, giải thích bản án quyết đinh. Bởi vì, theo quy định của pháp luật thi thông thường cơ quan thi hành án dân sự nơi Tòa án đã sơ thẩm vụ việ dân sự sẽ có thẩm quyền thi hành án.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự trong việc tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án.
2. Cơ sở của việc xây dựng các quy định về xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án các cấp.
Việc xây dựng các quy định về xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án được dựa trên một số tiêu chí cơ bản sau:
- Bảo đảm đường lối chính sách của Đảng về hoạt động tư pháp.
- Tính chất phức tạp của từng loại vụ việc. Theo đó, những vụ việc mang tính chất phức tạp (như: vụ việc có yếu tố nước ngoài…) sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, còn những vụ việc đơn giản hơn sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện.
- Điều kiện cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và sự độc lập, khách quan của cán bộ Tòa án. Cụ thể như theo quy định tại Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm năm 2002, để được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh thì đòi hỏi phải là người đáp ứng đủ những điều kiện chung và đã là Thẩm phán Tòa án cấp huyện ít nhất năm năm, có tư cách đạo đức tốt…
- Sự thuận lợi và khó khăn trong quá trình giải quyết vụ việc . Việc giải quyết các vụ việc dân sự ở Tòa án cấp huyện sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự trong việc tham gia vào quá trình tố tụng như cung cấp chứng cứ, đi lại, có mặt khi được Tòa án triệu tập.
II/ QUY ĐỊNH VỀ XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN SƠ THẨM DÂN SỰ GIỮA TÒA ÁN CÁC CẤP
Hiện nay pháp luật trao thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ việc dân sự cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện.
1.Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện
Theo quy định tại Điều 33 BLTTDS thì Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những vụ việc sau:
1.1. Các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án.
Các tranh chấp về dân sự, bao gồm: tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam; tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, hợp đồng dân sự, quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, thừa kế di sản, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai; các tranh chấp liên quan để hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật và các tranh chấp về dân sự mà pháp luật có quy định.
Các yêu cầu về dân sự, bao gồm: Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự; yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó; yêu cầu tuyên bố một người mất tích, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích; yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người đã chết; và các yêu cầu khác về dân sự mà pháp luật có quy định.
Các tranh chấp về hôn nhân và gia đình, bao gồm: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, xác định cha mẹ, con, tranh chấp về cấp dưỡng và các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình, bao gồm: Yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật; yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; yêu cầu công nhận sự thỏa thuận và thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn; yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi và các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
1.2. Một số tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại.
Tranh chấp này phát sinh giữa cá nhân, tổ chức đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích thuận lợi, bao gồm: “mua hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý, ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vẫn chuyển hàng hóa, hành khác bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa” (điểm a, b, c, d, đ, e, g, h và i khoản 1 Điều 29 BLTTDS).
1.3. Những tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động.
Theo các quy định của BLTTDS thì đối với những tranh chấp, yêu cầu trên mà nó đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài thì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, theo xu hướng mở rộng thẩm quyền của Tòa án cấp quận, huyện hiện nay là phần I mục 4 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng quy định những ngoại lệ về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án cấp quận, huyện mặc dù vụ việc có yếu tố nước ngoài. Theo đó, đối với yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha, mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng nơi cư trú ở khu vực biên giới Việt Nam, thì theo quy định tại khoản 3 Điều 102 của Luật hôn nhân và gia đình là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi cư trú của công dân Việt Nam.
Ngoài ra, để tránh việc thay đổi các quyết định của Tòa án không cần thiết, tại tiểu mục 4.4 nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP cũng quy định. Đối với những vụ việc dân sự không thuộc khoản 3 của điều 33 BLTTDS tuy nhiên được Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết đúng thẩm quyền nếu trong quá trình giải quyết mới có sự thay đổi như có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài thì theo quy định tại điều 412 của BLTTDS, Tòa án nhân dân cấp huyện tiếp tục xử lý vụ việc đó.
2. Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Điều 34 BLTTDS đã quy định cụ thể những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Theo đó, Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử trong các vụ việc sau:
2.1 Những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh do yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, bao gồm:
Tranh chấp về vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;
Tranh chấp về mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác;
Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;
Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động giải thể, sát nhập, hợp nhất, chia tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty;
Các yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trong tại thương mại;
Các tranh chấp lao động tập thể giữa lao động với người sử dụng lao động đã được Hội đồng trọng tài lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài lao động về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác; về việc thực hiện thỏa ước lao động tập thể; về quyền thành lập, gia nhập hoạt động công đoàn và các tranh chấp khác về lao động mà pháp luật có quy định.
2.2 Các vụ việc dân sự mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài. Đương sự ở nước ngoài là người Việt Nam hay người nước ngoài mà vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc không có mặt tại Việt Nam; Tài sản ở nước ngoài là tài sản được xác định theo quy định của Bộ luật dân sự ở ngoài biên giới lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc.
2.3. Các yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về dân sự của Tòa án nước ngoài, trọng tài nước ngoài hoặc công nhận bản án, quyết định đó, bao gồm:
Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính, quyết định về hôn nhân và gia đình, quyết định lao động của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính, quyết định về hôn nhân và gia đình, quyết định lao động của Tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
2.4. Những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện nhưng Tòa án cấp tỉnh lấy lên đề giải quyết do sự phức tạp, khó khăn hoặc cần đảm bảo tính khách quan trong việc giải quyết.
Đó là những trường hợp vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện quy định tại Điều 33 BLTTDS nhưng việc áp dụng pháp luật gặp khó, phức tạp, quá trình thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ khó có thể hoàn thành với điều kiện của Tòa án cấp huyện; vụ việc có liên quan tới thẩm phán, chánh án, phó chánh án Tòa án cấp huyện; đương sự trong vụ việc là cán bộ chủ chốt ở địa phương mà xét thấy xét xử ở Tòa án gây những ảnh hưởng về chính trị, ổn định khu vực.
Ngoài ra, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án cấp tỉnh trong việc giải quyết nhanh chóng vụ việc dân sự, tại điều 44 BLTTDS và tiểu mục 4.4 nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP của Tòa án nhân dân tối cao cũng đã có những quy định về việc phân định thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Theo đó, Đối với vụ việc dân sự thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 33 của BLTTĐS (và được hướng dẫn tại các tiểu mục 4.1 , 4.2 và 4.3 mục 4 nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP) và được Toà án nhân dân cấp tỉnh thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, nếu trong quá trình giải quyết có sự thay đổi không còn đương sự, tài sản ở nước ngoài và không cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài thì theo quy định tại Điều 412 của BLTTDS, Toà án nhân dân cấp tỉnh đã thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự đó.
III/ THỰC TIỄN THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CÁC CẤP- MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.
1. Thực tiễn thực hiện các quy định về xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện.
Hiện nay, các quy định của BLTTDS về thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện đã có nhiều thay đổi so với các văn bản pháp luật trước đây. Theo định hướng cải cách tư pháp và trên cơ sở kế thừa các quy định của ba pháp lênh trước đó về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động thì BLTTDS đã quy định về thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp hiện nay theo hướng mở rộng thẩm quyền của Tòa án cấp huyện.
Thực hiện các quy định về xác định thẩm quyền sơ thẩm giữa các cấp Tòa án trong BLTTDS hiện nay cho thấy đã nảy sinh những bất cập. Dưới đây là một trong số những bất cập ấy:
Thứ nhất, BLTTDS quy định thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện tại điều 33 chủ yếu bằng phương pháp liệt kê, dẫn chiếu sang các quy định của các điều luật khác. Quy định như vậy rất khó khái quát được hết nội dung các vấn đề, bởi trong chính các điều luật mà điều 33 dẫn chiếu tới cũng là các điều luật liệt kê, chưa thể “thâu tóm” được hết các quan hệ pháp luật phát sinh trong lĩnh vực dân sự. Đơn cứ một trường hợp, đó là tại điểm b khoản 2 điều 33. Tại điều luật này đã quy định Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu theo khoản 1,2,3,4,5 điều 28 BLTTDS là các trường hợp: yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn, yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi. Như vậy, đối với những yêu cầu như: không công nhận quan hệ vợ chồng hay các yêu cầu liên quan đến việc nuôi con nuôi của công dân Việt Nam thì Tòa án có quyền giải quyết hay không? Đây là một vấn đề cần đặt ra. Rõ ràng, quy định mang tính chất liệt kê này rất hạn chế, rất khó khăn cho Tòa án khi thụ lý giải quyết vụ việc dân sự.
Thứ hai, trên thực tế có những tranh chấp về dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động… là những vụ án có nhiều khó khăn, phức tạp (ví dụ như những vụ án về nhà ở, các tranh chấp về quyền sử dụng đất, những vụ án có giá ngạch lớn…) lại thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện. Trong khi đó, một số những tranh chấp có nội dung đơn giản hơn lại thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh như tranh chấp về hợp đồng tính dụng, tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, tái phiếu… Mặt khác, tính chất phức tạp của vụ án phụ thuộc nhiều vào vấn đề chứng cứ của tranh chấp, vì vậy sẽ rất khó khăn cho Tòa án nhân dân cấp huyện trong việc giải quyết tranh chấp phức tạp đó.
Thứ ba, theo quy định tại khoản 2 Điều 34 BLTTDS thì: “Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 33 của Bộ luật này mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để giải quyết”. Tuy nhiên pháp luật chưa có quy định cụ thể tiêu chí của vụ việc mà Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết. Dẫn tới việc không thống nhất, tạo ra sự tùy tiện khi Tòa án cấp tỉnh lấy các tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện để giải quyết.
Thứ tư, thực tiễn cho thấy, trong việc giải quyết một số tranh chấp, các cơ quan có thẩm quyền còn dây dưa, các cơ quan đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Ví dụ như tranh chấp về quyền sử dụng đất. Đây là loại tranh chấp thường phức tạp và liên quan đến nhiều cơ quan đặc biệt là các cơ quan chuyên môn về quản lý đất đai. Do đó, khi giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất cần sự phối hợp của các cơ quan có liên quan. Tuy nhiên hiện nay, pháp luật với quy định UBND và các cơ quan Nhà nước có liên quan phải phối hợp với nhau và phối hợp với TAND trong hoạt đọng giải quyết tranh chấp nhưng không có văn bản nào quy định cụ thể trách nhiệm phối hợp của từng cơ quan tới đâu. Dẫn đến sự việc các cơ quan “đá qua đá lại cho nhau”, đùn đẩy nhau không giải quyết. Điều này còn gây khó khăn cho công tác giải quyết tranh chấp, đặc biệt là Tòa án trong việc thu thấp tài liệu, giầy tờ liên quan.
2. Kiến nghị sửa đổi các quy định về xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện.
Thứ nhất, khái quát hóa các quy định về Thẩm quyền của Tòa án theo tính chất của vụ việc. ví dụ điểm b, khoản 2 điều 33 có thể khái quát thành: “Tòa án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về hôn nhân gia đình”, còn các yêu cầu về hôn nhân gia đình như thế nào, thì luật nội dung đã quy định hết sức cụ thể. Như vậy, Tòa án cũng có thể “linh động” hơn trong quá trình thụ lý vụ việc dân sự.
Thứ hai, cụ thể hóa các vụ việc mà Tòa án cấp tỉnh được quyền lấy liên để giải quyết
Theo quy định tại khoản 2 Điều 34 BLTTDS thì Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện mà Tòa án cấp tỉnh lấy lên để giải quyết. Theo phân tích ở trên thì quy định này có thể dẫn tới sự tùy tiện của Tòa án cấp tỉnh trong việc áp dụng. Do vậy, thiết nghĩ nhà làm luật cần phải dựa trên các cơ sở khoa học về xác định thẩm quyền giữa Tòa án các cấp như đã phân tích tại Chương 1 để có những quy định bổ sung theo hướng xác định cụ thể những trường hợp mà Tòa án cấp tỉnh chỉ có thể lấy vụ việc lên để giải quyết. Ngoài ra, cũng cần phải quy định rõ là khi lấy vụ việc lên để giải quyết thì Tòa án cấp tỉnh phải ra quyết định bằng văn bản để hạn chế tình trạng tùy tiện trong việc áp dụng của Tòa án cấp tỉnh.
Thứ ba, phân định rõ thẩm quyền của Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh trong các văn bản hướng dẫn để tránh tình trạng các Tòa đùn đẩy nhau trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.
Thứ tư, sửa đổi pháp luật tố tụng theo hướng mở rộng tối đa thẩm quyền sơ thẩm dân sự cho Tòa án cấp huyện, trừ những trường hợp vì lý do đặc biệt mà Tòa án cấp tỉnh phải lấy vụ việc lên để giải quyết.
Theo quy định tại Nghị quyết số 32/2004/QH11 của Quốc hội về việc thi hành BLTTDS thì kể từ ngày BLTTDS có hiệu lực, những TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có đủ điều kiện thực hiện thì được giao thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự quy định tại Điều 33 của Bộ luật này. Những TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh chưa đủ điều kiện thì tiếp tục thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm quy định tại khoản 1 Điều 11 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, khoản 1 Điều 13 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và khoản 1 Điều 12 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, nhưng chậm nhất đến ngày 01 tháng 7 năm 2009, tất cả TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thực hiện thống nhất thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự quy định tại Điều 33 của BLTTDS. Như vậy, tính đến thời điểm này, các Tòa án cấp huyện đều đã thực hiện thẩm quyền như quy định tại BLTTDS. So sánh đối chiếu với các văn bản pháp luật trước đây, BLTTDS 2004 đã quy định theo hướng mở rộng thẩm quyền cho Tòa án cấp huyện, phạm vi thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh bị thu hẹp hơn, và việc quy định như vậy là hợp lý và năm trong xu thế chung của quá trình cải tạo tư pháp, bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc hai cấp xét xử. Thiết nghĩ, để có một cơ chế giải quyết vụ việc dân sự ngày càng hiệu quả và phù hợp hơn, trong tương lại, pháp luật tố tụng có thể quy định theo hướng mở rộng tối đã thẩm quyền sơ thẩm dân sự cho Tòa án cấp huyện trong việc giải quyết vụ việc dân sự, chỉ trừ những trường hợp vì lý do đảm bảo tính khách quan trong việc giải quyết vụ việc mà Tòa án cấp tỉnh phải lấy vụ việc lên để giải quyết. Điều này có nghĩa là Tòa án cấp huyện sẽ có thẩm quyền giải quyết hầu hết tất cả các vụ việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm, còn Tòa án cấp tỉnh sẽ chỉ xét xử sơ thẩm trong những trường hợp thực sự đặc biệt. Lý do của hướng quy định này đó là do các vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh theo thủ tục sơ thẩm dựa vào tính chất “khó khăn” của vụ việc, mà tính chất “khó khăn” ấy như thế nào thì chưa được quy định cụ thể, nên có những vụ án mà tòa án cấp tỉnh xét xử sơ thẩm chưa hẳn đã là những vụ án khó. Tòa án cấp tỉnh vừa có thẩm quyền sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm nên dẫn tới tình trạng quá tải về công việc. Vì vậy cần phải mở rộng hơn thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Như vậy, qua những phân tích trên chúng ta đã hiểu hơn về thẩm quyền của tòa án nhân dân các cấp. Do hạn chế về nhận thức nên những giải pháp mà chúng em đưa ra có thể còn chưa chính xác! Mong được sự góp ý của các thày cô và các bạn !
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án các cấp theo quy định của bộ luật tố tụng dân sụ.doc