Mục lục
Lời nói đầu 1
NỘI DUNG 2
I, Nhận thức chung về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân các cấp. 2
1, Khái niệm và căn cứ quy định thẩm quyền xét xử của tòa án. 2
2, Xét xử vụ án hình sự và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 3
2.1, Quan niệm xét xử vụ án hình sự. 3
3, Mục đích của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 5
4, ý nghĩa của việc quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm. 6
II, Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo quy định của luật TTHS Việt Nam năm 2003. 6
1, Thẩm quyền xét xử theo sự việc. 6
2. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng. 8
3 Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ. 9
4, Thẩm quyền chuyển vụ án. 10
III, Hướng hoàn thiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân các cấp. 11
1, Nhưng bất cập vướng mắc trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo quy định của bộ luật TTHS hiện hành. 11
1.1, Những bất cập trong quy định của pháp luật vê thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân các cấp. 11
1.2, Những bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự. 12
2, yêu cầu đối với việc xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 13
2.1, Một số kến nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 14
Kết luận 16
Danh mục tài liệu tham khảo 17
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8947 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của luật tố tụng hình sự 2003, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lực nhà nước do tòa án thực hiện, nhằm giải quyết những vụ án hình sự, dân sự…theo quy định của pháp luật.
Xét xử án hình sự, như trên đã phân tích bao gồm xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, xét lại bản án và quyết định cảu tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Xét xử phúc thẩm là việc tòa án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nhị theo quy định của pháp luật nhằm kiểm tra lại tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án và quyết định sơ thẩm.
Giám đốc thẩm là việc xét lại bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị do phát hiện có sự vi phạm pháp luật trong quá trình xử lý vụ án.
Tái thẩm là việc xét lại bản án và quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó.
Xét xử sơ thẩm đúng người đúng tôi, đúng pháp luật có ý nghĩa rất lớn đối với xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm bởi lẽ:
Xét xử sơ thẩm đúng người đúng tội, đúng pháp luật sẽ dẫn tới không có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án sơ thẩm, hoặc án phúc thẩm sẽ tuyên y án sơ thẩm nếu bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Xét xử sơ thẩm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật sẽ không làm phát sinh kháng nghị giám đốc thẩm.
Còn xét xử sơ thẩm không đúng người đúng tội, đúng pháp luật sẽ dẫn tới phải phúc thẩm, giám đốc thẩm và kết quả là bản án sơ thẩm sẽ bị sửa hoặc hủy để điều tra xét xử lại.
3, Mục đích của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Xét xủ sơ thẩm vụ án hình sự là quyết định trung tâm, quyết định của quá trình tố tụng hình sự. Trong quá trình xét xử sơ thẩm, Nội dung vụ án được điều tra xem xét, một cách toàn diện, từ đó hội đồng xét xử xác định bị cáo có tội hay không. Nếu bị cáo phạm tội, thì tòa án quyết định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội hoặc cho họ được miễn hình phạt. Quyền và lợi ích hợp pháp tội phạm và người tham gia tố tụng khác nhau phụ thuộc vào kết quả việc xét xử. Kết quả đó thể hiện bằng bản án văn bản tố tụng quan trọng nhất trong toàn bộ quá trình hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Để giải quyết được vấn đề đó, việc xét xử phải được tiến hành một cách nghiêm ngặt theo các nguên tắc của luật tố tụng hình sự. Tòa án, thẩm tra, xét xử khách quan, tòa diện đầy đủ các chứng cứ của vụ án đã được thu thập trong quá rình điều tra, cũng như được đưa ra trong quá trình xét xử, kết hợp với việc tranh tụng công khai và bình đẳng giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng. bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ được xem xét tại phiên tòa. Hội đồng xét xử của tòa án mang tính chất quyết định để xác định tội phạm, người phạm tội và áp dụng các hình phạt tương úng theo quy định của pháp luật. Khi bản án của tòa án có hiệu lực pháp luật thì các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, mọi công dân và những người liên quân trực tiếp đến bản án phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Vì vậy xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có mục đích là:
Bỏa vệ chế độ chính trị, trật tự an tòa xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tập thể và của công dân…
Nội dung cơ bản của hoạt động xét xử sơ thẩm là thực hiện tốt nhiệm vụ của bộ luật TTHS. Đó là:
Phát hiện nhanh chóng và xác định tội phạm một cách khách quan, tòa diện xử lý công minh không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Từ đó áp dụng mức hình phạt tương xứng đối với người phạm tội, đảm bảo tính cưỡng chế, thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta và tăng cường tính giáo dục trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Trách nhiệm của tòa án là phải áp dụng mọi biện pháp mà pháp luật đã quy định để làm sáng tỏ các yếu tố buộc tội cũng như gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, đảm bảo nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự còn nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm: Phòng ngừa tội phạm là công việc của toàn xã hội, của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội. Công tác này đòi hỏi phải có những biện pháp tổng hợp về mặt kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng và cả những tác động của pháp luật. Trong đó tòa án giữ vai trò rất quan trọng. Đó là thông qua việc giả quyết vụ án một cách đúng đắn và kịp thời.
4, ý nghĩa của việc quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai đoạn đầu tiên và có ý nghĩa rất quan trọng trong cả quá trình xét xử vụ án. Bởi vì, phạm vi xét xử sơ thẩm rộng, tòa bộ nội dung vụ án sẽ được xem xét trong giai đoạn này, khác với cấp xét xử phúc thẩm chỉ xem xét vụ án theo nội dung kháng cáo kháng nghị. Do vậy việc xác định đúng thẩm quyền so thẩm có ý ngĩa sâu sắc về mặt chính trị xã hội.
- Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm sẽ bảo đảm được quyền tự do dân chủ của công dân.
- Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm đảm bảo tính tiết kiệm và hiệu quả của các hoạt động tố tụng.
- Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cơ sở để tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp.
- Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cơ sở cho việc xác định thẩm quyền xét xử phúc thẩm, tái thẩm.
- Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm xét xử chính xác, khách quan các cụ án hình sự.
II, Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo quy định của luật TTHS Việt Nam năm 2003.
Bộ Luật TTHS năm 2003 được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003 đã đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình xây dựng và trưởng thành của pháp luật nước ta. Như quy định của Bộ luật TTHS nay đã có những đổi mới sâu sắc thể chế hóa đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới.
Một trong những sửa đổi cơ bản của Bộ luật TTHS năm 2003 chính là sửa đổi thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo hướng tăng thẩm quyền xét xử cho tòa án cấp Huyện. Đó là một trong những nội dung quan trọng của quá trình cải cách tư pháp ở nước ta.
1, Thẩm quyền xét xử theo sự việc.
Thẩm quyền xét xử theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa Tòa án các cấp với nhau và căn cứ vào tính chất của tội phạm.
Nếu thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp Huyện và Tòa án Quân sự khu vực được quy định hợp lý, chặt chẽ thì phần lớn tội phạm xẩy ra sẽ được xử lý kịp thời, phát huy được tác động giáo dục răn de và góp phần bảo vệ trật tự xã hội.
* Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp Huyện và Tòa án quân sự khu vực.
Tòa án nhân dân cấp Huyện là cấp xét xử đầu tiên trong trình tự các cấp xét xử theo quy định của luật TTHS Việt Nam hiện hành. Việc phân định thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp Huyện có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh, Tòa án nhân dân tối cao, bởi vì các nhà lập pháp bao giờ cũng bắt đầu từ việc xác định thẩm quyền của cấp xét xử thấp nhất sau đó mới quy định thẩm quyền của các cấp xét xử cao hơn.
Khoản 1 Điều 170 Luật TTHS 2003 quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân các cấp. Theo quy định của điều này, TAND cấp Huyện có thẩm quyền xét xử những vụ án hính sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng trừ những tội phạm sau đây:
- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia.
- Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
- Tội phạm quy định tại Điều 93, 95, 96, 172, 216, 218, 219, 221, 222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 Bộ luật Hình Sự.
Như vậy, thẩm quyền xét xử theo vụ việc của TAND cấp huyện theo quy định của Bộ luật TTHS 2003 bao gồm các loại tội phạm có mức hình phạt cao nhất theo quy định của BLHS 1999 là 15 năm tù trừ những tội phạm được quy định tại điểm a, b, c Điều 170 Bộ luật TTHS.
Theo quy định tại Điều 170 Bộ luật TTHS thì thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp Huyện được mở rộng hơn so với quy định tại Điều 145 Bộ luật TTHS năm 1988 theo hướng tăng cường thẩm quyền xét xử cho TAND cấp Huyện. Đây là một chủ trương mới và rất kịp thời của Đảng và Nhà nước ta nhằm chuyên môn hóa hoạt động của các cấp Tòa án và có ý nghĩa chiến lược trong quá trình cải cách tư pháp theo Nghị định 49-NĐ/TW của Bộ chính trị và đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
Việc tăng thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện là một giải pháp giảm lượng án tồn đọng ở tòa án cấp tỉnh và tòa án phúc thẩm TAND tối cao. Đây cũng là một bước cải cách phù hợp với tình hình của ngành tòa án hiện nay khi trình độ truyên môn của Thẩm phán TAND huyện đang từng bước được nâng cao, cơ sở vật chất của ngành tòa án cấp huyện cũng đã đáp ứng được với nhiệm vụ xét xử mới.
* Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh và tóa án quan sự cấp quân khu.
Thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh và tòa án quân sự cấp quân khu được quy định tại khoản 2 Điều 170, Bộ luật TTHS 2003. Theo quy định của điều luật TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử.
TAND cấp tỉnh và tòa án quân sự khu vực có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự về những tội phạm nghiêm trọng, từ những vụ án về những tội mà mức cao nhất của khung hình phạt trên 15 năm tù.
Những vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực được quy định tại điểm a.b, c khảo 1 Điều 170 Bộ luật TTHS.
Những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp dưới (cấp huyện, khu vực) nhưng TAND cấp tỉnh thấy cần thiết phải lấy lên để xét xử do tính chất đặc biệt của vụ án.
Bộ luật TTHS không quy định cụ thể những vụ án nòa thuộc thẩm quyền của tòa án cấp huyện nhưng tòa án cấp tỉnh lấy lên để xét xử. Do đó, Chánh án tòa án, VTVKS và thủ trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh cần căn cứ vào khả năng thực tế của các thẩm phán, kiểm sát viên và điều tra viên ở cấp huyện mà xác định những vụ án nào cần lấy lên điều tra, truy tố và xét xử ở cấp tỉnh. Cơ quan điều tra, VKS và TA cấp tỉnh cần lấy lên điều tra, truy tố và xét xử các vụ án sau:
vụ án phức tạp (có nhiều tình tiết khó đánh giá thống nhất một vấn đề của vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành).
Vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, kiểm sát viên, sĩ quan công an, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong cộng đồng dân tộc ít người.
Như vậy, khi có những vụ án thuộc vào các trường hợp này thì cơ quan điều tra cấp huyện trao đổi với viện kiểm sát cùng câp và chuyển hồ sơ vụ án lên cơ quan điều tra cấp tỉnh để điều tra. Nếu hồ sơ đã chuyển lên thì viện kiểm sát cấp huyện chuyển vụ án cho viện kiểm sát cấp tỉnh trước tòa án cấp tỉnh.
2. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng.
Đối tượng phạm tội được xem là một trong những dấu hiệu để xác định thẩm quyền xét xử của tòa án. Ở Việt Nam, phân định thẩm quyền xét xử theo đối tượng là phân định thẩm quyền xét xử giữa TAND và TAQS.
Trong bộ luật TTHS năm 2003 không có điều luật quy định cụ thể phân định đối tượng nào thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS, đối tượng nào thuộc thẩm quyền xét xử của TAND.
Tại Điều 3 pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự năm 2002 quy định “Các tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là:
1, Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sang chiến đấu, dân quân tự vệ phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý;
2, Những người không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 điều này mà phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội.
Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự quy định: Quân nhân tại ngũ phạm tội trong quân đội và ngoài xã hội đều thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS. Trường hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền của TAQS, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND thì TAQS xét xử toàn bộ vụ án. Nếu có thể tách ra để xét xử thì TAQS và TAND xét xử theo những bị cáo thuộc thẩm quyền của mình. Những người không phục vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian phục vụ quân đội, hoặc những người bị phát hiện là phạm tội trước khi nhập ngũ thì thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS về những tội phạm liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội. Những tội phạm khác do TAND xét xử (Điều 4, 5 pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự năm 2002).
Thẩm quyền xét xử đối với thường dân phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội được xác định tùy từng trường hợp cụ thể.
Theo quy địn tịa Điều 26, 29 của pháp lệnh tổ chức TAQS thì: các vụ án mà bị can, bị cáo phạm tội có cấp bậc từ Thượng tá trở lên, có chức vụ từ Đoàn trưởng và tương đương trở lên thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS cấp quân khu mà không phụ thuộc vào tội phạm được thực hiện thuộc loại nào: ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Các vụ án còn lại thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS khu vực.
Đối với TAND, bộ luật TTHS không đặt ra thẩm quyền xét xử theo đặc điểm nhân thân của người phạm tội tuy nhiên, trong hướng dẫn về việc tòa án cấp tỉnh quyết định lấy vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án cấp huyện lên xét xử lại có đề cập đến vấn đề này. Theo thông tư lien tịch nghành 02/TTLN ngày 12/01/1998 của TANDTC, VKSNDTC, BTP, BNV thì những vụ án mà bị cáo là thẩm phán , kiểm sát viên, sỹ quan công an, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người nước ngoài, người có chức sắc cao trong tôn giáo hoặc người có uy tín cao trong dân tộc ít người được TA cấp tỉnh lấy lên để xét xử, tức là thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án cấp tỉnh.
Nếu có tranh chấp về thẩm quyền giữa TAND & TAQS thì Chánh án TATC xem xét quyết định.
3 Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ.
Khoản 1 Điều 171 bộ luật TTHS năm 2003 quy định “tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là tòa án nới tội phạm được thực hiện. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì tòa án có thẩm quyền xét xử là tòa án nơi kết thúc việc điều tra.
Bị cáo phạm tội ở nươc ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì do TAND cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị can, bị cáo ở trong nước xét xử. nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy trường hợp Chánh án TANDTC ra quyết định giao cho tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc tòa án nhân dân thành phố Hồ Chính Minh xét xử.
Bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định của Chánh án TAQS trung ương.
Đối với những vụ án xẩy ra trên tầu bay, tàu biển của nước CHXHCN Việt Nam đang hoạt động ở nước ngoài thì TAND Việt Nam nơi có sân bay, bến cảng mà tầu bay, tầu biển đó trở về đầu tiên trên lãnh thổ Việt Nam hoặc nơi tầu bay, tầu biển đó được đăng ký có thẩm quyền xét xử”.
Việc quy định thẩm quyền xét xử thuộc về tòa án nơi tội phạm được thực hiện nhằm tọa điêù kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng người tham gia tố tụng. Các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ dễ rang tìm kiếm được nhiều thời gian hơn trong việc tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng hoặc người liên quan trong vụ án. Mặt khác việc xử lý vụ án tại nơi tội phạm được thực hiện cũng đảm bảo tốt hơn sự có mặt của những người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra truy tố xét xử.
Tuy nhiên, trên thực tế có những trường hợp không thể xác định được nơi thực hiện tội phạm hoặc được tội phạm thực hiện ở nhiều nơi khác nhau. Trong những trường hợp đó thẩm quyền xét xử thuộc về tòa án nơi kết thúc việc điều tra.
Đối với những vụ án thuộc thẩm quyền của TAQS thì ngoài quy tắc chung trên, việc xác định thẩm quyền còn phải căn cứ vào thông tư liên tịch số 01/TLT ngày 18/04/2005 của TANDTC, VKSNDTC, BQP, BCA “hướng dẫn về thẩm quyền xét xử của TAQS”. Theo hướng dẫn của thông tư thì các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của các TAQS khu vực thuộc quân khu được xét xử theo quy định của của Điều 171 bộ luật TTHS về thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ. Còn các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án Quân chủng hải quân và và tòa án quân sự khu vực quân chủng hải quân thì không áp dụng nguyên tắc lãnh thổ. Các tòa án này có thẩm quyền xét xử các vụ án xẩy ra trong các đơn vị quân chủng, các vụ án mà bị cáo là người do quân chủng quản lý hoặc người khác phạm tội liên quan đến bí mật quân sự, gây thiệt hại cho các đơn vị thuộc quân chủng hải quân.
4, Thẩm quyền chuyển vụ án.
Theo quy định tại Điều 174 Bộ luật TTHS năm 2003 thì Tòa án có quyền chuyển vụ án cho tòa án có thẩm quyền xét xử, nếu thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình. Việc chuyển vụ án cho tòa án trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc trong phạm vi quân khu do tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự khu vực quyết định. Việc chuyển vụ án cho tòa án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu do tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án quân sự cấp quân khu quyết định.
Tòa án chỉ được chuyển những vụ án cho tòa án có thẩm quyền khi vị án chưa được xét xử. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do Chánh án tòa án quyết định. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự hoặc tòa án cấp trên thì vụ án dù đã được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho tòa án có thẩm quyền. Trường hợp này, việc chuển vụ án do hội đồng xét xử quyết định.
III, Hướng hoàn thiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân các cấp.
1, Nhưng bất cập vướng mắc trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo quy định của bộ luật TTHS hiện hành.
1.1, Những bất cập trong quy định của pháp luật vê thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân các cấp.
- BLTTHS hạn chế quá nhiều trường hợp vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng mà tòa án cấp huyện không được xét xử tại điểm c khoản 1 Điều 170 (21 tội cụ thể). Trước đây năng lực, tổ chức và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp huyện còn nhiều hạn chế, cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động còn hạn chế, quy định như vậy là phù hợp. Tuy nhiên hiện nay năng lực thực tế của cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và cơ quan tố tụng hình sự cấp huyện nói riêng đã được nâng cao rất nhiều so với thời điểm bộ luật TTHS có hiệu lực. Đối với tội phạm quy định tại điểm c khoản 1 Điều 170 giảm xuống còn 9 tội thay vì 21 điều như hiện nay đó là các tội quy định tại các Điều 172, 216, 218, 219, 221, 222, 223, 263 vì các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại chương XI luật hình sự liên quan đến sự vững mạnh và tồn vong đất nước của chế độ, việc xử lý tội phạm phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan khác, các trường hợp cần đảm bảo bí mật nhà nước các tội phạm quy định tại chương XXIV bộ luật Hình sự, các tội phạm ít nhiều liên quan đến mối quan hệ pháp luật quốc tế vì chúng thuộc phạm vi quốc gia nên không thể giao cho tòa án cấp huyện được. Còn lại các tội phạm quy định tai điểm c khoản 1 Điều 170 tòa án cấp huyện đều có khả năng xét xử được.
- Thẩm quyền xét xử tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án quân sự quân khu, có thể lấy vụ án thuộc thẩm quyền tòa án cấp dưới lên xét xử như hiện nay là chưa hợp lý, còn nhiều quy định chung chung như vậy dẫn đến sự tùy tiện trong áp dụng và trong thực tế gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án do việc khi chuyển vụ án từ cấp dưới lên cấp trên sẽ phải làm lại cáo trạng truy tố, hồ sơ vụ án chuyển qua lại nhiều lần mất nhiều thời gian không cần thiết.
-Thẩm quyền xét xủ theo lãnh thổ quy định tại Điều 171 bộ luật TTHS đối với tội phạm xẩy ra trên tầu bay, tầu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng Việt Nam. Bộ luật TTHS quy định thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án nơi có sâm bay, bến cảng tàu bay, tầu biển trở về đầu tiên ở trong nước hoặc tòa án nơi tầu bay, tầu biển đó đăng ký. Quy định như vậy dẫn đến việc tranh chấp hoặc đùn đẩy lẫn nhau giữa các tòa án nói trên. Mặt khác, việc quy định cả những tòa án nơi đăng ký tầu bay, tầu biển có thẩm quyền xét xử chắc chắn xẽ gây khó khăn cho việc điều tra, thu thập chứng cứ vì thực tế nếu có tội phạm xẩy ra trên tầu bay, tầu biển à người phạm tội bị bắt quả tang hay khẩn cấp thì khi tầu bay, tầu biển trở về sân bay, bến cảng đầu tiên ở trong nước, do không có thẩm quyền điều tra vụ án nên người chỉ huy tầu bay, tầu biển phải giao ngay người bị bắt cho cơ quan điều tra có thẩm quyền, chính là cơ quan điều tra sở tại, cho nên thực chất hoạt động điều tra ban đầu như lập biên bản, nhận người bị bắt bàn giao vật chứng (nếu có) đã được tiến hành ngy khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
- Tại khoản 2 Điều 170 bộ luật TTHS trong đó có quy định: TAND cấp Tỉnh có thẩm quyền lấy những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân cấp dưới lên để xét xử ở cấp mình. Tuy nhiên trong bộ luật TTHS không quy định trong trường hợp nào thì TAND cấp tỉnh được lấy những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND huyện lên để xét xử.
- Còn tồn tại những điểm bất hợp lý trong cách diễn đạt điều luật. Trong Điều 174, bộ luật TTHS về việc chuyển vụ án quy định “chỉ được chuyễn vụ án cho tòa án khác khi vụ án chưa được xét xử”. Tuy nhiên ở đoạn dưới lại quy định: “nếu vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án quân sự hoặc tòa án cấp trên thì vụ án đã được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho tòa án có thẩm quyền”. Cách diễn đạt như vậy tạo nên mâu thẫn trong điều luật, làm cho người áp dụng pháp luật nếu không cẩn thận sẽ dễ lung túng khi gặp trường hợp này.
- Bộ luật TTHS không có quy định phân biệt thẩm quyền xét xử giữa tòa án nhân dân và tòa án quân sự. Việc quy định này chỉ quy định trong pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự, là văn bản có hiệu lục pháp luật thấp hơn. Theo quy định của Điều 5 pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự thì nếu vụ án vừa có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND, vừa có tội phạm thuộc thẩm quyền của tòa án quân sự thì TAND xét xử tội phạm thuộc thẩm quyền của TAND, TAQS xét xử tội phạm thuộc thẩm quyền của TAQS. Trong trường hợp vụ án không tách được thì TAQS xét xử tòa bộ vụ án. Quy định này mâu thuẫn với điều 171 bộ luật TTHS là chỉ được chuyển những vụ án trong trường hợp thật cần thiết khi không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm và nếu việc tách ra không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án.
1.2, Những bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự.
- Trong thủ tục xác định thẩm quyền của tòa án.
Theo quy định của bộ luật TTHS thì việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử do Chánh án tòa án cấp trên trực tiếp quyết định.
Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa TAND cấp Huyện thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau do Chánh án TAND cấp tỉnh nơi kết thúc điều tra quyết định.
Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa TAND và TAQS do Chánh án TAND tối cao quyết định.
Việc tranh chấp về thẩm quyền xét xử là một trong những vướng mắc thường gặp khi tòa án và viện kiểm sát không thống nhất với nhau về thẩm quyền giải quyết vụ án. Bộ luật TTHS quy định “khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì tòa án chuyển vụ án cho tòa án có thẩm quyền giải quyết”. Tuy nhiên, bộ luật TTHS không quy định và các văn bản khác không hướng dẫn chuyển vụ án cho nên trên thực tế việc áp dụng quy định này thiếu thống nhất, có trường hợp tòa án chuyển trả hồ sơ cho VKS để VKS chuyển cho cấp có thẩm quyền truy tố, có tòa lại chuyển thẳng cho tòa án cấp có thẩm quyền để trả cho VKS cùng cấp để truy tố lại…
Hiện nay các cơ quan tiến hành tố tụng cũng đang rất lúng túng trong việc xác định thẩm quyền xét xử các vụ án có yêu tố nước ngoài. Bộ luật TTHS chỉ quy định thẩm quyền TAND thành phố Hà Nội, TAND thành phố Hồ Chí Minh hoặc tòa án quấn sự cấp quân khu có thẩm quyền xét xử các vụ án xẩy ra ở nước ngoài. Còn các vụ án có yếu tố nước ngoài khác nhưng bị can, bị cáo, người bị hại là người nước ngoài, trường hợp tội phạm vừa thực hiện ở nước ngoài vừa thực hiện ở trong nước… thì không có quy định. Vì vậy các cơ quan tiến hành tố tụng rất lung túng trong việc điều tra, truy tố, xét xử. Trên thực tế các vụ án mà bị can, bị cáo là người nước ngoài thì do TAND cấp tỉnh xét xử. Các vụ án mà người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự là người nước ngoài thì chưa có sự thống nhất.
Việc xác định thẩm quyền xét xử cỉa TAND theo đối tượng cũng gặp nhiều khó khăn vướng mắc ở thực tiễn. Thông thường, TAND cấp tỉnh quyết định lấy các vụ án mà người phạm tội là cán bộ chủ chốt cáp Huyện, Tỉnh, Trung ương, những người có chức sắc tôn giáo, người có uy tín lơn trong xã hội…lên để xét xử. Tuy nhiên cho đến nay chưa có văn bản nào quy định vấn đề này. Vì vậy, thực tiễn cũng còn nhiều bất cập.
2, yêu cầu đối với việc xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Yêu cầu xác định lại thẩm quyền xét xử hợp lý cho tòa án các cấp.
Thực tiễn xét xử cho thấy việc tăng thẩm quyền xét xử cho tòa án nhân dân cấp huyện là một chử trương đúng đắn và đã đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của luật TTHS 2003 và những ưu điểm, hạn chế cũng như ý nghĩa của việc mở rộng thẩm quyền xét xử.doc