Hiện nay cả nước mới chỉ có 107 TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và TAQS khu vực có đủ điều kiện để thực hiện quy định mới về thẩm quyền xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2003. Trình độ của đội ngũ cán bộ thẩm phán cấp huyện hiện nay có nhiều bất cập, chênh lệch giữa khả năng trình độ và nhiệm vụ được giao.
Việc tăng thẩm quyền cho toà án cấp huyện không giải quyết triệt để được tình trạng dồn án, đọng án ở toà án các cấp hiện nay. Sự phân bố không đồng đều các cấp toà do gắn với hệ thống hành chính dẫn đến tình trạng là án của một tỉnh nhỏ chưa bằng số án phải giải quyết của một quận ở nội thành Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi rất nhiều thẩm phán ở toà án huyện, tỉnh không có việc hay đủ việc để làm thì ở nơi khác số án quá nhiều gây tình trạng tồn đọng và đi theo đó là những vi phạm trong tố tụng. Tăng thẩm quyền cho toà án cấp huyện dẫn đến phải đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường đội ngũ cán bộ nhưng quy mô của một toà án cấp huyện không thể xây dựng như một toà án cấp tỉnh.
Nhìn chung các toà án đã thực hiện thống nhất những vấn đề liên quan đến giới hạn xét xử sơ thẩm. Tuy vậy, trong thực tiễn xét xử còn có trường hợp toà án đề nghị VKS chuyển sang tội danh nặng hơn nhưng VKS không nhất trí, hai cơ quan đã báo cáo lên cấp trên của mình nhưng vẫn không thống nhất được quan điểm.
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2733 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và hướng hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phân xử những việc hình sự nhỏ không phải mở phiên Tòa; sơ thẩm những vụ án hình sự có thể bị phạt tù từ 2 năm trở xuống.
Năm 1980, khi Hiến pháp 1980 ban hành, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật tổ chức TAND ngày 04/7/1981 theo quy định tại Điều 36 Luật này thì các TAND các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án hình sự trừ những loại việc sau đây:
+ Những tội xâm phạm an ninh quốc gia;
+ Những tội xâm phạm khác có tính chất nghiêm trọng, phức tạp hoặc gây hậu quả quá lớn.
Theo quy định trên TAND cấp huyện có quyền xét xử những vụ án mà luật quy định hình phạt từ 5 năm tù trở xuống. Quy định này được QUốc hội thong qua trước khi ban hành Bộ luật hình sự. Vì vậy, khi Bộ luật hình sự được thi hành đã nảy sinh một số vướng mắc nhất định về thẩm quyền của TAND cấp huyện, quận và cấp tương đương.
Thứ nhất,trước đây các tội xâm phạm an ninh quốc gia được quan niệm là những tội phản cách mạng nên không giao cho Tòa án cấp huyện xét xử. Theo Bộ luật hình sự năm 1985 thì những tội xâm phạm an ninh quốc gia bao gồm 2 loại tội: những tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia và những tội khác xâm phạm an ninh quốc gia.
Do vậy, Tòa án cấp huyện có khả năng và cần phải được xét xử một số tội khác xâm phạm an ninh quốc gia. Nhưng Luật tổ chức TAND năm 1981 lại loại trừ điều đó.
Thứ hai, theo tinh thần Điều 36 Luật tổ chức TAND 1981, Tòa án cấp huyện không được xét xử những tội có tính chất nghiêm trọng, tức là tội mà luật quy định hình phạt trên 5 năm tù. Do đó, Tòa án cấp huyện không được xử những tội thông thường như tham ô, nhận hối lộ… vì hình phạt do luật quy định đến 7 năm tù.
Để giải quyết những vướng mắc trên, Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 26/7/1986 đã hướng dẫn: Các Tòa án huyện cũng được xét xử cả một số tội mà pháp luật quy định hình phạt từ 7 năm tù trở xuống nhưng có tình tiết giảm nhẹ cho phép xử 5 năm tù trở xuống. Hướng dẫn trên cũng có một số điểm bất hợp lý:
Về nguyên tắc, Tòa án chỉ quyết định hình phạt sau khi đa xét hỏi và cho tiến hành tranh luận tại phiên tòa, do đó chưa xử mà đã biết mức án là 5 năm tù trở xuống là trái với quy định của pháp luật vì bản án đã được quyết định trước khi xét xử.
Có những trường hợp, việc dự kiến mức hình phạt của VKS và Tòa án không thống nhất vì thẩm quyền của Tòa án không được quy định cụ thể. Giữa Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh cũng xảy ra tình trạng tương tự.
Ngày 28/8/1988 Quốc hội khóa VIII đã thông qua BLTTHS, đồng thời Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung luật TAND và Hội đồng Nhà nước thông qua Pháp lệnh tổ chức TAQS. Theo quy định tại hai văn bản pháp quy này thì thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh được quy định cụ thể hơn. Theo Khoản 1 Điều 145 BLTTHS năm1988 thì TAND huyện và TAQS khu vực có thẩm quyền xét xử những tội phạm mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù từ 7 năm tù trở xuống trừ các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia và trừ các tội quy định tại các Điều 89, 90, 91, 92, Khoản 3 Điều 101, các Điều 102, 179, 231, và 232 Bộ luật hình sự. Quy định trên về thẩm quyền của TAND các cấp tập trung vào TAND huyện. Khi quy định và hướng dẫn này đã đầy đủ thì việc thực hiện thẩm quyền xét xử của TAND tỉnh sẽ giảm đi nhiều vướng mắc. Vì vậy, sau khi BLTTHS ban hành, để thi hành một số quy định của Bộ luật này về thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện, TAND tối cao, VKS nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ đã có văn bản hướng dẫn như Thông tư liên ngành số 02 ngày 12/1/1989 và Thông tư liên ngành số 02 ngày 15/2/1990. Ngày 9/6/2000 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS đã quy định: “ TAND cấp huyện và TAQS khu vực xét xử sơ thẩm những tội phạm mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù từ 7 năm tù trở xuống trừ những tội sau đây:
- Các tội xâm phạm an ninh quốc qia.
- Các tội quy định tại các Điều 95, 96, khoản 1 Điều 172 và các Điều 222, 223, 263, 293, 294, 295, 296, Bộ luật hình sự.
Sau một thời gian tương đối thực hiện quy định này, thực tiễn cho thấy số vụ án mà TAND cấp tỉnh phải xét xử sơ thẩm ngày càng nhiều. Do vậy, BLTTHS năm 2003 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003 một lần nữa lại mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án cấp huyện vì những lý do sau:
Thứ nhất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán ở hầu hết Tòa án cấp huyện ngày càng được nâng cao và có khả năng xét xử được những vụ án mà mức ca nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là 15 năm tù trở xuống.
Thứ hai, số lượng biên chế của Tòa án cấp huyện và cơ sở vật chất đã tương đối ổn định.
Thứ ba, việc tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án cấp huyện sẽ tránh được việc tồn đọng án ở cấp tỉnh, dành thời gian cho Tòa án cấp tỉnh tập trung xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Thứ tư, việc mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện sẽ tiết kiệm được thời gian và tranh được việc hoãn phiên tòa vì lý do vắng mặt những người tham gia tố tụng.
Thứ năm, việc xét xử ở Tòa án cấp huyện sẽ phát huy được tác dụng giáo dục.
Thứ sáu, việc xét xử ở Tòa án cấp huyện có hiệu quả kinh tế hơn vì người làm chứng nơi xảy ra vụ án sẽ không phải đi xa, Tòa án không phải thanh toán tiền phương tiện đi lại, tiền lưu trú, tiền ở trong trường hợp vụ án phải được xét xử nhiều ngày…
3)Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo BLTTHS hiện hành
Theo pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được phân định theo sự việc, đối tượng và lãnh thổ.
3.1.Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc:
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa các cấp tòa án, căn cứ vào tính chất và mức đọ nguy hiểm của tội phạm. Do TAND tối cao không có thẩm quyền xét xử sơ thẩm nên thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa 2 cấp tòa án còn lại: TAND cấp huyện và TAQS khu vực; TAND cấp tỉnh và TAQS cấp quân khu.
Điều 170 BLTTHS quy định:
“1. TAND cấp huyện và TAQS khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây :
a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b) Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
c) Các tội được quy định tại các Điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự.
2. TAND cấp tỉnh và TAQS cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện và TAQS khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử.”
3.1.1 .Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện và TAQS khu vực:
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 170 BLTTHS thì không phải mọi trường hợp và mọi tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng đều thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và TAQS khu vực. Cụ thể:
Những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và TAQS khu vực:
+ TAND cấp huyện và TAQS khu vực đã được giao thẩm quyền mới xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về các tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng.
+ Trong trường hợp điều luật về tội phạm cụ thể có nhiều khoản thì TAND cấp huyện và TAQS khu vực xét xử theo khoản thuộc thẩm quyền của mình. TAND cấp huyện và TAQS khu vực có thẩm quyền xét xử cùng một lúc một lần một người phạm nhiều tội, nếu các tội phạm đó đều thuộc thẩm quyền xét xử của các tòa án này. Trong trương hợp một người đang chấp hành hình phạt mà bị truy tố về tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và TAQS khu vực thì các tòa án này cũng có quyền xét xử, trừ trường hợp người bị kết án đã bị tuyên hình phạt tử hình hoặc tù chung than mà chưa được giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
Những vụ án hình sự bị loại trừ khỏi thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện và TAQS khu vực gồm những vụ án do pháp luật quy định hoặc do cơ quan tiến hành tố tụng quyết định:
+ Những vụ án hình sự không thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và TAQS khu vực theo quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 170 BLTTHS. Đó là những vụ án về các tội:
Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
Các tội phá hoại hòa bình, chống loại người và tội phạm chiến tranh;
Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự năm 1999. Cụ thể: Tội giết người (Điều 93); Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95); Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 96); Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu thăm dò, khai thác tài nguyên (Điều 172); Tội vi phạm quy địnhh điều khiển tàu bay (Điều 216); Tội cản trở giao thong đường không không đảm bảo an toàn (Điều 218); Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường không (Điều 219); Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy (Điều 221); Tội điều khiển tàu bay vi phạm các quy địnhh về hàng không của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 222); Tội điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm các quy định về hàng hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 223); Tội tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình vi – rút tin học (Điều 224); Tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử (Điều 225); Tội sử dụng trái phép thong tin trên mạng và trong máy tính (Điều 226); Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước (Điều 263); Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 293); Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 294); Tội ra bản án trái pháp luật (Điều 295); Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296); Tội đàu hàng địch (Điều 322); Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh (Điều 323).
Những tội phạm này, dù là tội phạm ít nghiêm trọng cũng không thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và TAQS khu vực.
+ Những vụ án được lấy lên để xét xử ở cấp trên theo quy định tại khoản 2 Điều 170 BLTTHS. Việc đưa vụ án lên xét xử ở cấp trên căn cứ vào khả năng giải quyết vụ án của những người tiến hành tố tụng ở cấp dưới. Đó thường là những vụ án phức tạp, khó chứng minh hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; những vụ án mà bị cáo là thẩm phán, kiểm sát viên, sĩ quan công an, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người nước ngoài, người có chức sắc cao trong tôn giáo, có uy tín cao trong dân tộc ít người(1), sĩ quan quân đội có quân hàm từ Thượng tá trở lên hoặc có chức vụ từ Phó Sư đoàn trưởng, Phó Cục trưởng và tương đương trở lên.(2)
+ Vụ án được xét xử toàn bộ ở cấp trên theo quy định tại Điều 173 BLTTHS: “Khi bị cáo phạm nhiều tội, trong đó có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp trên, thì Tòa án cấp trên xét xử toàn bộ vụ án”. Đây là trường hợp bị cáo phạm nhiều tội thuộc thẩm quyền của tòa án các cấp. Nghĩa là bị cáo phạm hai tội trở lên, trong đó có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện hoặc TAQS khu vực và tội phạm khác thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh hoặc TAQS cấp quân khu thì toàn bộ vụ án gồm tất cả các tội sẽ thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án cấp trên tức TAND cấp tỉnh hoặc TAQS cấp quân khu.
3.1.2. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh và TAQS cấp quân khu:
So với những quy định trước đây, thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh và TAQS cấp quân khu được quy định trong BLTTHS không có gì khác nhau. Theo khoản 2 Điều 170 BLTTHS nưm 2003, TAND cấp tỉnh và TAQS cấp quân khu có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các loại việc sau:
Những vụ án về những tội phạm không thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện và TAQS khu vực;
Những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án cấp dưới nhưng được lấy lên để xét xử;
Những vụ án được xét xử ở toàn bộ cấp trên do bị cáo phạm nhiều tội mà có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án cấp trên.
3.2. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng:
Thẩm quyền xét xử theo đối tượng là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa TAND và TAQS căn cứ vào đối tượng phạm tội.
3.2.1. Đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS:
Điều 3 Pháp lệnh tổ chức TAQS năm 2002 quy định: “Các TAQS có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là:
Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huân luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sang chiến đấu; dân quân, tự vệ phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý;
Những người không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này mà phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội.”
Theo đó, TAQS xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự mà người phạm tội thuộc 2 nhóm đối tượng:
Người phạm tội là quân nhân và những người có nghề nghiệp hoặc nhiệm vụ quân sự bao gồm các đối tượng được quy định tại Khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh tổ chức TAQS. Những người này bị TAQS xét xử không phụ thuộc vào việc họ phạm tội gì và phạm tội ở đâu.
Người phạm tội không phải là các đối tượng nêu trên. Những đối tượng này chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp:
+ Liên quan đến bí mật quân sự. Bí mật quân sự là bí mật của Quân đội, bí mật về an ninh quốc phòng được xác định là bí mật quân sự và được quy định trong các văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
+ Gây thiệt hại cho quân đội. Gây thiệt hại cho quân đội là gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm của quân nhân hoặc của những người có nghề nghiệp, nhiệm vụ quân sự được quân đội cấp phát để thực hiện nhiệm vụ quân sự; gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của quân đội. Tài snr của Quân đội là tài sản do Quân đội quản lý, sử dụng, kể cả trường hợp Quân đội giao tài sản đó cho dân quân, tự vệ hoặc bất kỳ người nào khác quản lý, sử dụng để chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc thực hiện nhiệm vụ quân sự. Cũng được coi là gây thiệt hại cho Quân đội trong trường hợp người đang bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù trong nhà tạm giữ, trại tạm giam do Quân đội quản lý mà lại tiếp tục phạm tội.
+ Cùng một vụ án, vừa có người phạm tội hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS, vừa có người phạm tội hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND. Có nghĩa trường hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND thì TAQS xét xử toàn bộ vụ án (trừ trường hợp tách vụ án). Trường hợp những người không còn phục vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian phục vụ quân đội; hoặc những người bị phát hiện là phạm tội trước khi nhập ngũ thì thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS về những tội liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội.
3.2.2. Đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND:
TAND xét xử sơ thẩm những đối tượng không thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS.
TAND xét xử những người không còn phục vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian phục vụ trong quân đội; những người đang phục vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trước khi vào quân đội nếu những tội phạm đó không liên quan đến bí mật quân sự hoặc không gây thiệt hại cho quân đội.
*Tách vụ án để TAQS và TAND xét xử sơ thẩm theo thẩm quyền:
- Trường hợp tách vụ án:
Về nguyên tắc, TAQS xét xử sơ thẩm toàn bộ vụ án trong trường hợp cùng 1 vụ án, vừa có người phạm tội hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS, vừa có người phạm tội hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND. Tuy nhiên, có thể tách vụ án để TAND và TAQS xét xử riêng theo thẩm quyền, nếu không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án.
-Thủ tục tách vụ án:
TAQS đã thụ lý vụ án trao đổi với VKS quân sự có nhiệm vụ thực hành quyền công tố về việc tách vụ án. Nếu VKS quân sự thống nhất tách vụ án, TAQS chuyển hồ sơ vụ án cho VKS quân sự để giải quyết theo thẩm quyền. Trường hợp VKS quân sự không thống nhất tách vụ án, TAQS đã thụ lý vụ án phải xét xử toàn bộ vụ án.
3.3. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ:
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền xét xử của các tòa án căn cứ vào những dấu hiệu địa điểm nhất định, nơi tội phạm được thực hiện và nơi kết thúc điều tra.
3.3.1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo nơi thực hiện tội phạm và nơi kết thúc điều tra:
- Về nguyên tắc, tòa án nơi tội phạm được thực hiện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
Tuy nhiên, TAQS của quân chủng hoặc tổ chức tương đương có tổ chức TAQS có thẩm quyền xét xử sơ thẩm không phụ thuộc vào vơi thực hiện tội phạm, nếu người phạm tội thuộc đơn vị của quân chủng hoặc tổ chức tương đương, hoặc tội phạm gây thiệt hại trực tiếp cho quân chủng hoặc tổ chức tương đương.
Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì tòa án nơi kết thúc việc điều tra có thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
Trong trường hợp không xác định được nơi thực hiện tội phạm hoặc trong trường hợp có nhiều TAQS khác nhau có thẩm quyền xét xử vụ án do trong vụ án có nhiều bị can thuộc nhiều đơn vị khác nhau hoặc do tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi nếu VKS quân sự truy tố bị can trước TAQS nào thì TAQS đó có thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
3.3.2. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm trong trường hợp bị cao phạm tội ở nước ngoài nhưng được xét xử tại Việt Nam:
- Nếu bị cáo thuộc thẩm quyền xét xử của TAND thì TAND cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước có thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Trường hợp không xác định được nơi này, Chánh án TANDTC ra quyết định giao cho TAND thành phố Hà Nội hoặc TAND thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm.
- Nếu bị cáo thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS thì TAQS cấp quân khu xét xử sơ thẩm theo quyết định của Chánh án TAQS trung ương.
3.3.3. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm trong trường hợp tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải Việt Nam:
Tòa án Việt Nam nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký có thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
3.4. Thẩm quyền chuyển vụ án (Điều 174 BLTTHS)
Điều 174 BLTTHS quy định: “Khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử. Việc chuyển vụ án cho Tòa án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu do TAND cấp tỉnh, TAQS cấp quân khu quyết định.
Chỉ được chuyển vụ án cho Tòa án khác khi vụ án chưa được xét xử. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do Chánh án Tòa án quyết định. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền của TAQS hoặc Tòa án cấp trên thì vụ án đã được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho Tòa án có thẩm quyền. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do Hội đồng xét xử quyết định.
Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án, Tòa án phải thông báo cho VKS cùng cấp, báo cho bị cáo và những người có liên quan trong vụ án.”
Tòa án chuyển vụ án cho tòa án khác có thẩm quyền xét xử trong trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình. Việc chuyển vụ án ngoài phạm vi tỉnh do TSND cấp tỉnh quyết định. VIệc chuyển vụ án ngoài phạm vi quân khu do TAQS cấp khu vực quyết định. Việc chuyển vụ án được thực hiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa.
3.4.1.Chuyển vụ án trước khi mở phiên tòa:
Trước khi mở phiên tòa, việc chuyển vụ án do chánh án tòa án quyết định. Trong giai đoạn này, pháp luật không cho phép bất kỳ vi phạm nào về thẩm quyền xét xử.
3.4.2.Chuyển vụ án tại phiên tòa:
Tại phiên tòa, việc chuyển vụ án do hội đồng xét xử quyết định nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS hoặc tòa án cấp trên. Do đó, TAND vẫn tiếp tục xét xử trong trường hợp vụ sn thuộc thẩm quyền xét xử của TAND khác cùng cấp và tương tự, TAQS vẫn tiếp tục xét xử trong trường hợp vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS khác cùng cấp. Như vậy, trong giai đoạn này, pháp luật cho phép vi phạm thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ, nhưng không cho phép tòa án cấp dưới vi phạm thẩm quyền xét xử của tòa án cấp trên và không cho phép TAND vi phạm thẩm quyền xét xử của TAQS.
4) Giới hạn xét xử sơ thẩm
Giới hạn xét xử sơ thẩm được quy định tại Điều 196 BLTTHS, theo đó phạm vi xét xử của tòa án cấp sơ thẩm bị giới hạn trong phạm vi truy tố và quyết định đưa vụ án ra xét xử, nhưng cũng có thể vượt khỏi phạm vi truy tố trong những trường hợp nhất định.
4.1. Xét xử trong phạm vi truy tố và quyết định đưa vụ án ra xét xử:
Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Trong khi chuẩn bị xét xử sơ thẩm, nếu có căn cứ cho rằng bị can phạm 1 tội khác (nặng hơn tội mà VKS truy tố) hoặc có đồng phạm khác thì thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết địnhh trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Qua việc xét xử tại phiên tòa, nếu phát hiện tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra thì hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự (theo khoản 1 Điều 104 BLTTHS).
Theo quyết định giám đốc thẩm số 08/2006/HS-GĐT ngày 08/5/2006 của HĐTP TANDTC, việc tòa án cấp sơ thẩm quyết định về tài sản, quyền và nghĩa vụ về tài sản của những người có hành vi phạm tội nhưng không bị truy tố là vi phạm giới hạn xét xử.
4.2. Xét xử theo khoản khác hoặc về tội phạm khác với truy tố:
*Khung hình phạt khác với khung hình phạt mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật: Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn hoặc nhẹ hơn khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật.
*Tội phạm khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố:
Tòa án không được xét xử theo tội phạm khác nặng hơn tội mà VKS đã truy tố. Nếu có căn cứ cho rằng bị cáo phạm tội khác mà nặng hơn, tòa án yêu cầu VKS điều tra bổ sung. Trong trường hợp VKS không thay đổi cáo trạng theo tội danh nặng hơn, tòa án phải xét xử theo tội danh mà VKS đã truy tố, không được tuyên là bị cáo không phạm tội mà VKS đã truy tố.
Tòa án có thể xét xử bị cáo về 1 tội phạm khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố.
-Tội phạm nhẹ nhất trong các tội mà VKS truy tố hoặc tội nhẹ hơn tất cả các tội mà VKS truy tố.
-Tội phạm khác bằng tội phạm mà VKS đã truy tố. Đây là trường hợp điều luật quy định về trách nhiệm hình sự (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) đối với 2 tội như nhau.
-Tội phạm khác nhẹ hơn tội phạm mà VKS đã truy tố. Đây là trường hợp điều luật quy định về trách nhiệm hình sự (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) đối với tội khác nhẹ hơn so với tội phạm mà VKS đã truy tố.
II/ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ:
1)Thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hiện nay và những vấn đề bất cập đang tồn tại:
Hiện nay cả nước mới chỉ có 107 TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và TAQS khu vực có đủ điều kiện để thực hiện quy định mới về thẩm quyền xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2003. Trình độ của đội ngũ cán bộ thẩm phán cấp huyện hiện nay có nhiều bất cập, chênh lệch giữa khả năng trình độ và nhiệm vụ được giao.
Việc tăng thẩm quyền cho toà án cấp huyện không giải quyết triệt để được tình trạng dồn án, đọng án ở toà án các cấp hiện nay. Sự phân bố không đồng đều các cấp toà do gắn với hệ thống hành chính dẫn đến tình trạng là án của một tỉnh nhỏ chưa bằng số án phải giải quyết của một quận ở nội thành Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi rất nhiều thẩm phán ở toà án huyện, tỉnh không có việc hay đủ việc để làm thì ở nơi khác số án quá nhiều gây tình trạng tồn đọng… và đi theo đó là những vi phạm trong tố tụng. Tăng thẩm quyền cho toà án cấp huyện dẫn đến phải đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường đội ngũ cán bộ nhưng quy mô của một toà án cấp huyện không thể xây dựng như một toà án cấp tỉnh.
Nhìn chung các toà án đã thực hiện thống nhất những vấn đề liên quan đến giới hạn xét xử sơ thẩm. Tuy vậy, trong thực tiễn xét xử còn có trường hợp toà án đề nghị VKS chuyển sang tội danh nặng hơn nhưng VKS không nhất trí, hai cơ quan đã báo cáo lên cấp trên của mình nhưng vẫn không thống nhất được quan điểm.
Thực tiễn xét xử trong thời gian qua đã cho thấy quy định về giới hạn xét xử của toà án có nhiều điểm không hợp lí:
- Thứ nhất, giới hạn tòa án không được xét xử theo tội danh khác nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố là gián tiếp thừa nhận tội danh do VKS truy tố là đúng nên toà án chỉ xét xử theo tội danh đó và lựa chọn mức hình phạt đã quy định trong điều luật do VKS đã viện dẫn. Điều này trái với chức năng của VKS được pháp luật quy định vì như thế VKS đã thực hiện một phần chức năng xét xử và xác định tội danh được tiến hành trước khi xét xử là vi phạm nguyên tắc “không ai có thể bị coi là có tội, nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của tòa án”.
- Thứ hai, quy định về giới hạn xét xử buộc tòa án phải xét xử theo tội danh mà VKS đã truy tố là trái với nguyên tắc đã được Hiến pháp quy định “Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Nguyên tắc này cho phép tòa án xét xử độc lập mà không bị lệ t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bai tap hoc ki to tung hinh su.doc