Hoạt động Ngân hàng hiện đang nóng với những diễn biến trái chiều và ba vấn đề nổi cộm: các Ngân hàng thương mại khan hiếm tiền đồng Việt Nam, cung ngoại tệ trong nền kinh tế tăng cao và sức ép dư luận về chống lạm phát từ việc cung ứng tiền ra lưu thông.
Ba vấn đề trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Để đáp ứng nhu cầu về tiền đồng Việt Nam, cũng như cung ngoại tệ quá lớn và tăng mạnh, thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) phải đẩy mạnh mua ngoại tệ vào cung ứng đồng Việt Nam ra lưu thông. Song cung ứng đồng Việt Nam ra lưu thông thì lại gặp phải sức ép của dư luận về chống lạm phát đang tăng cao từ góc độ tiền tệ.
Càng về cuối năm khối lượng ngoại tệ chuyển vào Việt Nam càng tăng mạnh, lớn nhất đó là kiều hối. Cũng về thời điểm cuối năm, các NHTM cổ phần và doanh nghiệp cổ phần gấp rút phát hành cổ phiếu mới để hoàn thành kế hoạch năm 2007 về tăng vốn điều vốn lệ theo nghị quyết đại hội cổ đông biểu quyết nhất trí từ đầu năm. Cổ đông là người Việt Nam ở nước ngoài, cổ đông nước ngoài phải chuyển tiền về Việt Nam để góp vốn. Một bộ phận khác người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về cho người thân vay mượn hoặc đầu tư hộ vào các loại trái phiếu khác nhau.
28 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 4275 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thị trường tài chính và vai trò của thị trường tài chính đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường đó sẽ không thể hoạt động tốt. Đồng thời, nhà đầu tư trên thị trường khi tìm kiếm nguồn vốn tài trợ cho các hoạt động đầu tư phải nhận thức được việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất, có hiệu suất sử dụng đồng vốn cao nhất để bảo toàn vốn, sinh lời và tích lũy. Chính vì vậy, thị trường tài chính có chức năng nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động của toàn bộ nền kinh tế, kích thích đổi mới, áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để tăng hiệu quả đầu tư, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội.
Chức năng thứ ba của thị trường tài chính là làm gia tăng tính thanh khoản cho các tài sản tài chính. Tính thanh khoản là tính chất dễ dàng chuyển hóa các tài sản tài chính thành tiền mặt và được thực hiện ở thị trường thứ cấp, là thị trường mua bán, giao dịch cổ phiếu và các giấy tờ có giá đã phát hành trên thị trường sơ cấp. Tính thanh khoản ở thị trường tài chính càng cao thì càng thu hút nhiều chủ thể tham gia vào thị trường và giúp chủ sở hữu các tài sản tài chính dễ dàng chuyển đổi danh mục đầu tư theo yêu cầu. Do đó, mỗi thị trường khác nhau có tính thanh khoản khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển các định chế tài chính của thị trường ấy. Nếu các cơ chế của thị trường thông thoáng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các công cụ tài chính lưu thông thông suốt. Ngoài ra, thị trường tài chính còn có chức năng định giá tài sản tài chính, phân phối vốn trên thị trường theo tín hiệu của thị trường.
Tùy thuộc vào các chức năng khác nhau của thị trường cũng như các tiêu chí phân loại khác nhau, thị trường tài chính cũng có nhiều cách phân loại khác nhau. Nhưng tựu trung lại, thị trường tài chính thường có ba cách phân loại cơ bản: theo thời hạn, tính chất luân chuyển vốn và theo cơ cấu của thị trường.
Phân loại thị trường tài chính:
Căn cứ theo thời hạn luân chuyển vốn, thị trường tài chính được phân thành: thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái và thị trường chứng khoán.
- Thị trường tiền tệ là thị trường giao dịch, mua bán các chứng từ có giá ngắn hạn. Các chứng từ có giá ngắn hạn như: tín phiếu Kho bạc, khoản vay ngắn hạn giữa các Ngân hàng, thỏa thuận mua lại, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, … Đây là thị trường nhằm thỏa mãn những nhu cầu vốn trong ngắn hạn. Căn cứ theo mục đích này của thị trường mà không cần quan tâm đến thời hạn của các chứng từ có giá, khái niệm trên được hiểu theo nghĩa của thị trường mở thì thị trường tiền tệ là thị trường giao dịch, mua bán ngắn hạn các giấy tờ có giá.
- Thị trường hối đoái là thị trường giao dịch, mua bán, trao đổi ngoại tệ và các phương tiện thanh toán quốc tế. Thị trường ngoại hối là một cơ chế mà nhờ đó giá trị tương đối của các đồng tiền quốc gia được xác lập. Đặc điểm của thị trường ngoại hối là tiền được đổi lấy tiền, đây là thị trường thực sự và tất yếu mang tính quốc tế; cứ khi nào mà dân chúng ở những khu vực đồng tiền khác nhau còn kinh doanh với nhau thì các giao dịch ngoại hối còn rất cần thiết. Ngày nay, thị trường hối đoái mang tính toàn cầu nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin. Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, các doanh nghiệp trong nước đều phải tham gia các thị trường hối đoái để mua - bán, vay - cho vay ngoại tệ. Các nghiệp vụ trên thị trường hối đoái phần lớn mang tính chất ngắn hạn (không quá một năm) nên thị trường này được xem là một bộ phận của thị trường tiền tệ. Khi đó, thị trường tài chính chỉ bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
- Thị trường chứng khoán là thị trường giao dịch, mua bán các chứng từ có giá trung hạn và dài hạn. Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng nhất của thị trường vốn dài hạn, thực hiện cơ chế chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang nhà phát hành; qua đó, thực hiện chức năng của thị trường tài chính là cung ứng nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Sản phẩm tài chính trên thị trường chứng khoán là các loại trái phiếu, cổ phiếu và các công cụ tài chính khác như: chứng chỉ quỹ đầu tư, công cụ phát sinh - hợp đồng tương lai, quyền chọn, quyền mua cổ phiếu, chứng quyền. Thị trường chứng khoán tập trung vốn cho đầu tư và phát triển kinh tế. Do đó, nó có tác động rất lớn đến môi trường đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Căn cứ vào cơ cấu của thị trường, thị trường tài chính được phân thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
- Thị trường sơ cấp là thị trường phát hành lần đầu các chứng từ có giá để huy động và tập trung vốn. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. Thị trường sơ cấp có đặc điểm là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem lại vốn cho người phát hành, tạo ra hàng hóa cho thị trường giao dịch và làm tăng vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế. Những người bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp thường là Kho bạc, Ngân hàng Nhà nước, Công ty phát hành, Tập đoàn bảo lãnh phát hành, …Thị trường sơ cấp thường diễn ra trong một thời gian nhất định.
- Thị trường thứ cấp là thị trường mua bán trao đổi các chứng từ có giá đã phát hành lần đầu. Trên thị trường này, các nhà đầu tư chuyển nhượng quyền mua bán chứng khoán và điều đó làm cho chứng khoán đã phát hành có tính thanh khoản. Khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về nhà phát hành nên luồng tiền chỉ vận chuyển giữa những nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường. Thị trường thứ cấp là một bộ phận quan trọng của thị trường chứng khoán, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp. Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá giao dịch chứng khoán do cung - cầu trên thị trường quyết định.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thị trường sơ cấp là cơ sở và là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thị trường thứ cấp; vì đó là nơi cung cấp hàng hóa chứng khoán lưu thông trên thị trường thứ cấp. Ngược lại, thị trường thứ cấp là động lực, là điều kiện cho sự phát triển của thị trường sơ cấp; vì nếu không có thị trường thứ cấp để lưu hành, mua bán, trao đổi tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán thì rất khó để phát hành và thu hút nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp. Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết. Trên thực tế, tổ chức thị trường không phân biệt đâu là thị trường sơ cấp, đâu là thị trường thứ cấp. Vì tại một thị trường có thể cùng diễn ra đồng thời hoạt động mua bán chứng khoán mới phát hành và chứng khoán mua bán lại. Điều cần quan tâm là phải coi trọng thị trường sơ cấp vì đây là thị trường tạo vốn và có cơ chế giám sát chặt chẽ thị trường thứ cấp để bảo vệ thị trường tài chính ổn định.
Căn cứ vào tính chất luân chuyển vốn, thị trường tài chính được phân thành thị trường công cụ nợ và thị trường công cụ vốn.
- Thị trường công cụ nợ là thị trường phát hành, mua bán các chứng khoán nợ. Thực chất các công cụ nợ (trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, …) là các thỏa thuận có tính hợp đồng. Trong đó, người vay vốn thanh toán cho người giữ công cụ một khoản tiền cố định trong những khoản thời gian nhất định (thanh toán lãi) cho tới kỳ hạn cuối cùng thì thanh toán giá trị gốc. Trên cơ sở kỳ hạn thanh toán, công cụ nợ được chia làm ba loại khác nhau:
Công cụ nợ ngắn hạn.
Công cụ nợ trung hạn.
Công cụ nợ dài hạn.
Quan hệ vay mượn dựa trên công cụ nợ thường ấn định trước thời hạn và lãi suất cố định. Người sở hữu công cụ nợ không có quyền biểu quyết trong quản trị điều hành của bên vay.
- Thị trường công cụ vốn là thị trường phát hành, mua bán các chứng khoán vốn. Vốn được huy động trên thị trường bằng việc bán cổ phần, chứng chỉ quỹ đầu tư, …Người nắm giữ cổ phiếu gọi là cổ đông, họ góp vốn vào các doanh nghiệp cổ phần trên cơ sở gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được chia cổ tức dựa trên kết quả kinh doanh theo số lượng cổ phần mà họ nắm giữ. Chính vì vậy mà giá trị cổ tức không ổn định như người giữ công cụ nợ nhưng cổ tức có thể cao hoặc thấp hơn lãi trái phiếu, vì nó tùy thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng họ có quyền biểu quyết trong quản trị điều hành doanh nghiệp vì họ là chủ sở hữu. Người giữ chứng khoán vốn có nhiều rủi ro hơn người giữ chứng khoán nợ trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Người giữ chứng khoán nợ được ưu tiên thanh toán nợ trước.
Ngoài ra, trong cách phân loại này, còn có thị trường công cụ phái sinh. Đây là thị trường phát hành và mua bán các chứng khoán phát sinh, như: chứng quyền, quyền chọn, hợp đồng tương lai, …
Ngày nay, một thị trường tài chính không nhất thiết phải có không gian vật lý. Vì vậy, thị trường tài chính còn được phân theo thể thức sau:
Thị trường thô sơ và thị trường vi tính hóa.
Thị trường thường trực và thị trường huy động.
Thị trường chứng khoán đã đăng ký và thị trường lưu lượng chứng khoán.
Mỗi cách phân loại thị trường tùy thuộc vào tiêu chí mà chúng ta muốn hướng đến. Từ những cơ sở lý luận nêu trên, thị trường tài chính tại Việt Nam cũng đã được hình thành và phát triển. Nhằm đánh giá thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam, tiểu luận này chỉ tập trung phân tích trên ba thị trường trong phân loại theo thời hạn luân chuyển vốn. Đó là thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái và thị trường chứng khoán.
THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
Thị trường tiền tệ:
Thị trường vốn ngắn hạn:
(Về thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị trường tiền tệ) Nhìn chung, thị trường này chưa thực sự phát triển và Ngân hàng Nhà nước (NHTW) chưa thực sự đóng vai trò can thiệp có hiệu quả vào thị trường này. Các loại lãi suất của NHTW: lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước có tác động rõ nét đến thị trường. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ dự trữ bắt buộc... thiếu linh hoạt. Các Ngân hàng thương mại (NHTM) và Tổ chức tín dụng cạnh tranh với nhau tăng lãi suất huy động vốn một cách một chiều, tạo nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho chính các NHTM.
Thị trường liên ngân hàng
Hoạt động Ngân hàng hiện đang nóng với những diễn biến trái chiều và ba vấn đề nổi cộm: các Ngân hàng thương mại khan hiếm tiền đồng Việt Nam, cung ngoại tệ trong nền kinh tế tăng cao và sức ép dư luận về chống lạm phát từ việc cung ứng tiền ra lưu thông.
Ba vấn đề trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Để đáp ứng nhu cầu về tiền đồng Việt Nam, cũng như cung ngoại tệ quá lớn và tăng mạnh, thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) phải đẩy mạnh mua ngoại tệ vào cung ứng đồng Việt Nam ra lưu thông. Song cung ứng đồng Việt Nam ra lưu thông thì lại gặp phải sức ép của dư luận về chống lạm phát đang tăng cao từ góc độ tiền tệ.
Càng về cuối năm khối lượng ngoại tệ chuyển vào Việt Nam càng tăng mạnh, lớn nhất đó là kiều hối. Cũng về thời điểm cuối năm, các NHTM cổ phần và doanh nghiệp cổ phần gấp rút phát hành cổ phiếu mới để hoàn thành kế hoạch năm 2007 về tăng vốn điều vốn lệ theo nghị quyết đại hội cổ đông biểu quyết nhất trí từ đầu năm. Cổ đông là người Việt Nam ở nước ngoài, cổ đông nước ngoài phải chuyển tiền về Việt Nam để góp vốn. Một bộ phận khác người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về cho người thân vay mượn hoặc đầu tư hộ vào các loại trái phiếu khác nhau.
Bên cạnh đó là tiền từ nước ngoài chuyển về đầu tư vào thị trường trường bất động sản. Một nguồn vốn ngoại tệ quan trọng khác đó là vốn đầu tư gián tiếp vào thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam thường sôi động vào cuối năm. Số vốn này bao gồm cả việc mua chứng khoán trên Sở GDCK TP.HCM, Trung tâm GDCK Hà Nội, cả số vốn mua cổ phần trở thành cổ đông lớn, cổ đông chiến lược của các doanh nghiệp Việt Nam.
Tất cả số ngoại tệ đó phải chuyển sang nội tệ, tức là đồng Việt Nam. Song NHNN Việt Nam với tư cách người mua bán cuối cùng can thiệp trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thì hạn chế mua vào.
Những nguồn vốn ngoại tệ lớn tiếp theo đó là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn ODA và nguồn thu từ khách quốc tế chi tiêu tại Việt Nam.
Về kim ngạch xuất nhập khẩu, đến hết tháng 11/2007, Việt Nam đạt kim ngạch nhập khẩu 54,11 tỷ USD, tăng 31,1% so với cùng kỳ năm ngoái, kim ngạch xuất khẩu tăng 20, nhập siêu 9,0 tỷ USD và dự báo cả năm 2007 cũng dừng ở mức 9,0 tỷ USD. Do nhập siêu nên thu hút một lượng vốn ngoại tệ rất lớn. Tuy nhiên, cung ngoại tệ vẫn dồi dào thể hiện tập trung ở thặng dư cán cân vãng lai, đến nay chưa có con số thống kê được công bố chính thức.
Nguồn thông tin từ Văn phòng Chính phủ cho hay, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2007, NHNN đã mua vào 9 tỷ USD để tăng quỹ dự trữ, tương ứng cung ứng ra lưu thông 144.000 tỷ đồng. Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, phát biểu tại cuộc hội thảo hai Luật Ngân hàng, tổ chức sáng ngày 29/11/2007 tại TP.HCM thì con số này của cả năm 2007 không thấp hơn 12 tỷ USD. Như vậy số tiền đồng Việt Nam cung ứng ra lưu thông qua kênh mua ngoại tệ lên tới gần 200.000 tỷ đồng. Với việc mua vào một khối lượng lớn USD đã làm cho quỹ dự trữ ngoại tệ của quốc gia hiện nay lên tới 20 tỷ USD.
Song mua khối lượng lớn như vậy nhưng lượng cung USD hiện nay trên thị trường vẫn đang rất lớn, nếu không mua vào, tỷ giá VND/USD giảm mạnh và các NHTM trở nên tình trạng thừa vốn USD, nhưng khan hiếm đồng Việt Nam.
Cũng do tình trạng thiếu hụt đồng Việt Nam, nên có thời điểm lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường nội tệ liên ngân hàng đã lên tới 12%/năm, thậm chí có thời điểm lên tới 18%/năm, cao hơn lãi suất cho khách hàng vay vốn. NHNN thông qua nghiệp vụ thị trường mở mua vào giấy tờ có giá ngắn hạn cung ứng hơn 10.000 tỷ đồng cho các NHTM, nhưng không thấm gì so với nhu cầu khan hiếm tiền đồng Việt Nam hiện nay của thị trường tiền tệ. Cũng chính do tình trạng đó, nên hiện nay các NHTM đang đẩy mạnh huy động vốn trong nền kinh tế bằng nhiều biện pháp khác nhau, như tăng chi phí khuyến mãi, tăng lãi suất, từ đó tạo áp lực tăng lãi suất cho vay và từ đó góp phần tạo thêm áp lực gia tăng lạm phát.
Bởi vậy, trong điều hành chính sách tiền tệ cần có chiến lược dài hạn, chủ động hơn, đảm bảo khoa học và sát thông lệ quốc tế. Cần tham khảo và học hỏi kinh nghiệm của các nước trong khu vực, như: Trung Quốc, Philippines,… có điều kiện giống Việt Nam nhưng họ không lúng túng như nước ta.
Thị trường hối đoái:
Tỷ giá hối đoái sụt giảm gần đây chủ yếu do áp lực giảm cung ứng tiền VND trong lưu thông để kiềm chế lạm phát. Chính vì vậy, nhiều định chế tài chính lớn đều đưa ra nhận định, khả năng tỷ giá VND/USD sẽ theo chiều hướng đi xuống trong thời gian từ nay đến hết năm 2007.
Tuy nhiên ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho rằng, tỷ giá hối đoái sẽ không mất hơn 0,5% trong những tháng còn lại của năm (từ đầu năm đến nay tỷ giá giảm 0,5%). NHNN sẽ có động thái can thiệp khi đồng USD giảm dưới mức 16.000 VND/USD.
Thị trường đang xuất hiện tình trạng khan hiếm tiền đồng, tỷ giá sụt giảm. Vậy tại sao NHNN vẫn chưa có động thái tích cực trong việc hút USD về?
Đây là một bài toán đã được NHNN tính toán, vì nếu tiếp tục tung VND hút USD về thì lượng tiền trong lưu thông sẽ gia tăng, kéo theo lạm phát. Điều này cho thấy, nếu NHNN không thực hiện chủ trương trên, tốc độ lạm phát còn cao hơn.
Nhiều khả năng, tốc độ lạm phát của Việt Nam trong năm nay sẽ cao hơn mức tăng trưởng của nền kinh tế, khó đạt được mục tiêu mà Chính phủ và Quốc hội đã đề ra. Như vậy, để kiềm chế lạm phát buộc NHNN phải hạn chế việc đưa tiền ra. Theo đó, ngoài các chính sách khác, NHNN đành giảm hoặc ngưng mua USD.
Trên thị trường, lãi suất huy động VND đang chuyển động tăng do khan hiếm VND, kéo theo lãi suất đầu ra tăng. Hậu quả là giá cả tăng, doanh nghiệp phải điều chỉnh giá bán đảm bảo lợi nhuận, lúc này lạm phát sẽ còn cao hơn?
Việc khan hiếm tiền đồng chỉ là nhất thời. Trên thực tế, hiện còn nhiều ngân hàng đang dư vốn khả dụng và chưa giải ngân kịp. Điều này được chứng minh, gần đây nhiều nhà băng phải chạy đua giải ngân để đảm bảo chỉ tiêu cuối năm, trong đó đáng chú ý là cho vay mua bất động sản; gia tăng hạn mức, thời gian, đồng thời giảm lãi suất đầu ra để thu hút khách hàng.
Tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam năm nay dự báo sẽ lên đến 30 - 40%. Như vậy, nếu tăng thêm cung tiền, khả năng tín dụng tăng trưởng nóng còn cao hơn sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Lãi suất qua đêm có những thời điểm lên đến 16 - 17%/năm và hiện vẫn duy trì trên mức 10%/năm, cao gần gấp 3 lần so với trước, thưa ông?
Về căn bản, mức tăng trưởng tín dụng đang gia tăng nóng, tính thanh khoản trên thị trường liên ngân hàng chỉ biến động trong một thời gian ngắn. Có thể gần đây, nhu cầu thanh toán hàng hóa của khách hàng tăng mạnh nên họ cần đến vốn ngân hàng.
Từ đó, các ngân hàng đổ xô vay trên thị trường liên ngân hàng khiến lãi suất qua đêm biến động. Nhưng sau Tết Dương lịch, tính thanh khoản của thị trường liên ngân hàng sẽ ổn định trở lại.
Tuy nhiên, một thực tế cho thấy, việc dự báo và quản trị rủi ro thanh khoản của một số ngân hàng còn yếu kém. Nếu các ngân hàng xây dựng được bảng cân đối tài sản đến từng ngày, chắc chắn sẽ không xảy ra hiện tượng khan hiếm tiền đồng như thời gian gần đây.
Tỷ giá hối đoái sẽ biến động như thế nào trong thời gian tới và NHNN sẽ có động thái điều chỉnh vào lúc nào?
Với tỷ giá hối đoái, nếu đã biến động thì sẽ mạnh hơn cả lãi suất, có thể lên đến 5 - 10%. Nếu kinh doanh trên thị trường hối đoái mà không có dự báo trước dẫn đến lỗ là chuyện bình thường. Người mua cuối cùng bao giờ cũng là NHNN.
Nếu thấy cần, NHNN sẽ mua vào và ngưng mua khi thấy không cần thiết. Tuy nhiên, khi tỷ giá xuống mức 16.000 VND/USD sẽ có điều chỉnh ngay, vì nếu để tỷ giá xuống thấp sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Do đó, nhiều khả năng tỷ giá chỉ có thể sụt giảm xuống mức xấp xỉ 16.000 VND/USD. Hiện nay mức giảm của tỷ giá là 0,5%, nên mức tối đa chỉ xuống khoảng 1% cho cả năm 2007.
Thực tế, NHNN có mua vào USD và lượng USD hút về từ đầu tháng 8 đến nay đạt gần 6 tỷ USD. Nhưng do vốn đầu tư gián tiếp và trực tiếp vào Việt Nam tăng nhanh, cung dội, trong khi cầu yếu đã góp phần làm tỷ giá suy giảm.
Thị trường chứng khoán:
Những thành tựu đạt được của thị trường chứng khoán Việt Nam
Về tổ chức và phát triển thị trường: Thị trường chứng khoán có tổ chức phá triển nhanh về quy mô, tổng mức vốn hóa trên thị trường ngày càng tăng. Doanh nghiệp và chính phủ đã sử dụng thị trường chứng khoán như một kênh đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.
Khung pháp lý, chính sách cho hoạt động và phát triển thị trường chứng khoán từng bước được hoàn thiện.
Tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường, hoạt động sản xuất kinh doanh có bước phát triển khá về quy mô, doanh số và lợi nhuận. Thị trường chứng khoán đã làm gia tăng uy tín của công ty niêm yết.
Thị trường chứng khoán góp phần tạo sự thành công của chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước kết nối với niêm yết và đăng ký giao dịch.
Thị trường chứng khoán tạo điều kiện nâng cao trình độ quản lý, đều hành hoạt động nghiệp vụ chuyên môn trong lĩnh vực chứng khoán.
Góp phần đa dạng hóa va phát triển các định chế tài chính trung gian.
Thị trường chứng khoán giúp đẩy mạnh việc phổ biến kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán trong công chúng.
Thị trường chứng khoán từng bước thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế.
Những hạn chế của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thị trường chứng khoán chưa thật sự khẳng định được vai trò của một kênh huy động vốn chủ lực trong nền kinh tế hiện nay.
Môi trường pháp lý chưa có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển, thể chế cho hoạt động thị trường còn chưa hoàn chỉnh.
Sự phối hợp giữa tài chính, chứng khoán, ngân hàng trong chính sách điều hành quản lý thị trường còn nhiều hạn chế.
Quy mô thị trường chứng khoán còn nhỏ, hàng hóa giao dịch với số lượng chưa nhiều, chất lượng chưa cao. Chỉ số VN-Index chưa thực sự trở thành phong vũ biểu của nền kinh tế.
Quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường chứng khoán còn mất cân đối gây nên những biến động cho thị trường. Thị trường chứng khoán hoạt động chưa thực sự ổn định, vững chắc, kể cả hoạt động giao dịch mà nguyên nhân chính vẫn phụ thuộc vào tâm lý đầu tư ngắn hạn.
Tổ chức hoạt động của thị trường chứng khoán còn nhiều hạn chế, hoạt động của thị trường tự do còn rộng.
Hệ thống các tổ chức trung gian và hổ trợ thị trường còn hạn chế về năng lực tài chính, quản trị công ty và chất lượng dịch vụ.
Hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt về hệ thống công nghệ thông tin của các thị trường giao dịch chứng khoán, công ty chứng khoán còn bất cập trước sự phát triển quá nhanh của thị trường đòi hỏi cần phải có đầu tư, nâng cấp theo hướng hiện đại.
Khả năng giám sát, cưỡng chế thực thi còn hạn chế một phần do công nghệ tin học, một phần do cơ sở pháp lý và lực lượng cán bộ còn yếu.
Thị trường chứng khoán còn thiếu khả năng tiếp cận với thị trường chứng khoán thế giới trong xu thế hội nhập.
Chưa có kinh nghiệm trong quản lý chính sách.
Từ thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam, để củng cố và phát triển, chúng ta phải thực sự nâng cao vai trò của thị trường tài chính trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY
Việt Nam đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục và luôn giữ ở mức cao trong vòng năm năm qua và trong chiến lược phát triển đến năm 2020, Việt Nam phấn đấu trở thành nước công nghiệp về cơ bản. Cho nên, để đáp ứng nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2020, nền kinh tế Việt Nam luôn đòi hỏi nguồn vốn huy động rất lớn. Chính vì thế, thị trường tài chính Việt Nam hình thành và phát triển có vai trò rất to lớn là nơi tập trung mọi nguồn lực về tài chính cho sự nghiệp phát triển của đất nước.
Thị trường tài chính tạo lập nguồn vốn cho nền kinh tế
Với vai trò là tích tụ và tập trung tư bản cho nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng thương mại là một kênh huy động vốn giáp tiếp để tạo lập nguồn vốn. Hệ thống Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng huy động vốn của mọi thành phần kinh tế trong xã hội thông qua các dịch vụ tiền gửi tiết kiệm, dịch vụ thanh toán, …Lãi suất huy động trên thị trường có ảnh hưởng rất quan trọng đến lượng vốn mà các Ngân hàng thương mại huy động được. Lãi suất này phải đảm bảo là lãi suất thực dương, tức là phải cao hơn tỷ lệ mất giá của tiền tệ nhưng phải thấp hơn lãi suất cho vay để đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho hệ thống Ngân hàng. Từ nguồn vốn huy động này, các Ngân hàng thương mại cung ứng một lượng vốn dồi dào cho nền kinh tế thông qua hoạt động cấp tín dụng. Lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và mua bán chứng khoán trên thị trường vốn.
Khi lãi suất tiết kiệm chưa thật sự hấp dẫn những người có tiền nhàn rỗi mong muốn có nơi đầu tư sinh lợi cao hơn, mạo hiểm hơn thì thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn trực tiếp cho nền kinh tế. Dựa vào tính thanh khoản cao của tài sản tài chính trên thị trường này cũng như tính linh hoạt trong lựa chọn danh mục đầu tư sao cho mức sinh lời tối ưu, thị trường chứng khoán ra đời ở Việt Nam đã thật sự là nơi thu hút vốn rất lớn vì tính hấp dẫn ở suất sinh lời cao hơn lãi suất tiết kiệm hay sự kỳ vọng vào g
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thị trường tài chính và vai trò.doc