MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Bố cục 4
NỘI DUNG 5
Chương I: Những vấn đề chung 5
1.1. Khái niệm ca dao 5
1.2. Khái niệm không gian nghệ thuật trong ca dao 5
1.3.Khái niệm thời gian nghệ thuật trong ca dao 5
1.3. Mối quan hệ giữa không gian và thời gian trong ca dao 6
Chương II: Không gian và thời gian trong ca dao 8
2.1. Vấn đề nghiên cứu không gian nghệ thuật trong ca dao 8
2.1.1. Không gian vật lí 8
2.1.2. Không gian xã hội 11
2.2. Vấn đề nghiên cứu thời gian nghệ thuật trong ca dao 14
2.2.1. Thời gian nghệ thuật trong ca dao là thời gian hiện tại, thời gian diễn xướng 14
2.2.2. Các công thức miêu tả thời gian 18
KẾT LUẬN 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9231 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thời gian và không gian trong ca dao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Việt Nam qua bao thế hệ.
Trong tiến trình lịch sử, thể loại ca dao đã có sự vận động rõ rệt từ bộ phận ca dao truyền thống đến bộ phận ca dao hiện đại. Đặc biệt là mảng không gian và thời gian trong ca dao. Đây thực sự là một “chân trời mới lạ” nên có nhiều điều để khám phá.
Nghiên cứu ca dao theo hướng tiếp cận thi pháp, người ta có thể tìm hiểu ở các phương diện đề tài, cảm hứng sáng tác, nhân vật trữ tình, không gian - thời gian nghệ thuật, hình thức diễn xướng Trong đó không gian và thời gian nghệ thuật được coi là yếu tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện nội dung và ý đồ nghệ thuật của tác phẩm. Nền văn học Luận Văn - Đề Án - Tiểu Luận Văn Học dân gian Việt Nam Thư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam rất nổi bật với sự kết hợp nhiều thể loại như truyền thuyết ,truyện cổ tích ,thần thoại ,sử thi và một bộ phận không thể thiếu đó là ca dao. Ca dao là một thể loại khá tiêu biểu và có một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội Luận Văn - Đề Án - Tiểu Luận Xã Hội. Nội dung ca dao phản ánh cuộc sống của người dân lao động Luận Văn - Đề Án - Tiểu Luận Lao Động, tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước
Khi nghiên cứu về ca dao đã có không ít nhà nghiên cứu tìm hiểu nhân vật trong ca dao hay cấu trúc ca dao Theo chân của một số nhà nghiên cứu như Trần Thị An , GS Nguyên Xuân Kính , ThS Trần Tùng Chinh. Tôi đi vào tìm hiểu đề tài “thời gian và không gian trong ca dao” ,qua đó thấy được sự quan trọng của không gian, thời gian trong ca dao đồng thời thấy được những sáng tạo về không gian, thời gian trong ca dao tạo sự độc đáo và sâu sắc về đời sống tâm hồn người Việt Nam qua bao thế hệ
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trước đây, việc tìm hiểu ca dao nói chung và mảng không gian thời gian trong ca dao nói riêng chỉ tập trung chủ yếu vào việc sưu tầm ca dao và miêu tả những hình thức sinh hoạt ca hát dân gian. Các nhà Nho biên soạn ca dao với mục đích cung cấp tài liệu cho việc nghiên cứu lịch sử thơ ca dân gian như:
Vương Trịnh Duy (1903) soạn Thanh Hóa quan phong;
Nguyễn Văn Mại (1914) soạộc đã quan tâm Việt Nam phong sử…
Các nhà tri thức Tây học, với ý thức giữ gìn di sản văn hóa dân tâm đến việc sưu tầm, miêu tả ca dao như:
Nguyễn Văn Ngọc (1928) với Tục ngữ phong dao có giá trị cao về mặt sưu tầm tuyển chọn.
Những năm gần đây, việc nghiên cứu ca dao đã có phần phát triển vượt bậc. Các nhà nghiên cứu đã chú ý đến nhiều lĩnh vực của ca dao như thi pháp, thể thơ, kết cấu, lời, thời gian và không gian nghệ thuật, hình ảnh biểu tượng, đặc điểm ngôn ngữ,…
Nhìn chung, công trìh nghiên cứu ca dao có khá nhiều. Tuy nhiên, việc nghiên cứu chưa quan tâm đi vào một cách có hệ thống. Chỉ mang tính khái quát, không đi sâu vào nghiên cứu chuyên biệt.
Một số công trình giá trị như: Tục ngữ ca dao dân ca của Vũ Ngọc Phan;
Kho tàng ca dao người Việt của Vũ Xuân Kính, Phan Đăng Nhật(chủ biên) và Thi pháp ca dao của Nguyễn Xuân Kính,…
Cùng với nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu cũng như tài liệu thống kê của các cơ quan tổ chức là tài liệu giúp em hoàn thành bài tiểu luận về đề tài: “Không gian thời gian trong ca dao”
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khảo sát vấn đề không gian và thời gian trong ca dao, bài tiểu luận tập trung vào những vấn đề sau:
Thời gian và không gian là những mặt của hiện thực khách quan, được phản ánh trong tác phẩm tạo thành thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
Thời gian nghệ thuật trong ca dao là thời gian hiện tại, thời gian diễn xướng.
Thời gian và không gian nghệ thuật trong ca dao có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Do đó, bài tiểu luận đi sâu vào tìm hiểu vấn đề không gian, thời gian và các phương thức, phương tiện miêu tả thời gian ca dao được rút ra từ các công trình sưu tầm và tuyển chọn ca dao của các nhà nghiên cứu văn học dân gian như: Vũ Ngọc Phan, Phan Đang Nhật, Nguyễn Xuân Kính,…
Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành bài tiểu luận này em đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Thu nhập và xử lí tài liệu
Phân tích và tổng hợp
Nhận định đánh giá
Bố cục
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận bài tiểu luận còn có hai chương:
Chương I : Những vấn đề chung
Chương II: Không gian thời gian trong ca dao
NỘI DUNG
Chương I: Những vấn đề chung
Khái niệm ca dao
Ca dao là lời ca dân gian. Lời ca là lời của làn điệu dân ca và các sáng tác ngâm vịnh của các nhà Nho được hòa vào dòng chảy dân gian. Khái niệm ca dao được xem là phần lời của những câu hát trữ tình truyền thống. Bộ phận là lời đơn bắt nguồn từ các loại Dân ca nghi lễ, Dân ca lao động, Dân ca sinh hoạt như ru con,…là những loại Dân ca không có hình thức đối đáp và các sáng tác ngâm vịnh của các cá nhân đước hòa vào dòng chảy Ca dao. Bộ phận lời đôi hình thành từ Dân ca giao duyên là loại Dân ca có hình thức đối đáp nên một lời bao gồm một chỉnh thể các vế đối đáp.
Khái niệm không gian nghệ thuật trong ca dao
Không gian nghệ thuật trong ca dao là môi trường hoạt động của nhân vật. Trong văn học có không gian vũ trụ, không gian xã hội, không gian tĩnh, không gian động, không gian công cộng, không gian đời tư,…Trong mỗi giai đoạn văn học hoặc ở từng tác giả lớn, không gian nghệ thuật có đặc điểm riêng. Chẳng hạn, trong thơ trữ tình bác học, không gian vũ trụ lấn át không gian xã hội; còn trong thơ trữ tình hiện đại, không gian xã hội chiếm ưu thế.
1.3.Khái niệm thời gian nghệ thuật trong ca dao
Thời gian nghệ thuật trong ca dao là thời gian hiện tại và thời gian diễn xướng. Không ít trường hợp trong đó thời gian được miêu tả có tính chất công thức, ước lệ; thời gian khách quan, thời gian cá thể của “cái tôi” tác giả, thời gian xã hội bị mờ nhạt. Đã xuất hiện cảm giác về sự thay đổi, vận động của dòng thời gian.
Mối quan hệ giữa không gian và thời gian trong ca dao
Thời gian và không gian là những mặt của hiện thực khách quan , được phản ánh trong tác phẩm tạo thành thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật một mặt thuộc phương diện đề tài, mặt khác thể hiện nguyên tác cơ bản của việc tổ chức tác phẩm của từng tác giả, từng thể loại, từng hệ thống nghệ thuật. Mối quan hệ giữu thời gian, không gian và việc tổ chức thời gian, không gian trong tác phẩm là nội dung của vấn đề thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật.
Khác với thời gian của hiện thực khách quan, có khi thời gian nghệ thuật mang tính chủ quan của con người “Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê”. Thời gian có thể thong thả mà cũng có thể trôi nhanh như bóng con ngựa phi qua cửa. Một khoảnh khắc có thể dừng lại, nhưng một thời đại có thể vụt qua. Tuy nhiên, tác phẩm văn học cũng sử dụng cả thời gian khách quan, có khi nó tuân thủ triệt để nguyên tác thống nhất giữa thời gian được phản ánh và thời gian của người xem như kịch cổ điển Pháp.
Trong văn học, thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật có mốt liên hệ chặt chẽ. Mỗi thời kì văn học, mỗi dòng văn học, mỗi thể loại văn học,…đều thể hiện mối liên hệ đó theo phong cách của mình. Chẳng hạn, trong các tác phẩm bi kịch của văn học cổ đại Hi Lạp, thời gian đột biến (không có liên hệ với thời gian sinh hoạt và thời gian lịch sử) thường đi liền với không gian trừu tượng (không xác định về địa lí, xã hội). Còn kịch cổ điển Pháp (thế kỉ XVII), hành động kịch chỉ được xảy ra tại một thời điểm và chỉ được diễn ra trong vòng 24 tiếng. Trong ca dao cổ truyền, chúng ta cũng nhận thấy mối liên hệ giưa các phạm trù đó. Chẳng hạn trong các lời ca dao đượm buồn thì không gian vật lí, không gian xã hội thường đi liền với thời gian là lúc ban đêm:
+ Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ...
+ Đêm qua nguyệt lặn về Tây
Sự tình kẻ đấy người đây còn dài...
Để thể hiện tâm trạng buồn, nếu miêu tả không gian và con người không phải vào lúc ban đêm thì tác giả dân gian cũng sẽ không chọn các công thức sáng ngày, rạng ngày, trưa hè trong thi liệu dân gian truyền thống mà sẽ sử dụng công thức thời gian khác:
Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi ai câu
Ai sầu ai thảm
Ai thương ai cảm
Ai nhớ ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
Bến Văn Lâu, con đò Đông Ba, dòng sông Tô Lịch, phong cảnh Cầu Quan,...là những không gian có tên gọi cụ thể. Song trong ca dao, những trường hợp như thế không nhiều.
Chương II: Không gian và thời gian trong ca dao
2.1. Vấn đề nghiên cứu không gian nghệ thuật trong ca dao
Không gian trong ca dao cũng mang tính hai mặt: vừa là không gian thực tại khách quan như nó vốn tồn tại, vừa là không gian chỉ có trong hư cấu, tưởng tượng của nhân vật trữ tình.
Ca dao là tiếng nói chân thật của tình cảm những người dân lao động, là cây đàn muôn điệu, là dòng sữa trong lành đã nuôi ta khôn lớn. Là người Việt Nam, ai chẳng từng lớn lên bên vành nôi cánh võng với lời ru của bà của mẹ. Trong lời ru, ta bắt gặp hình ảnh của con cò, của dòng sông, của “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông” (Nguyễn Khoa Điềm). Không gian trong ca dao không còn yếu tố hư ảo như các thể loại trước đó, mà thay vào đó là không gian sinh hoạt, không gian lao động của con người:
Bao giờ cho đến tháng hai
Con gái làm cỏ, con trai be bờ
Qua những bài ca dao đó, chúng ta thấy được những sắc thái, những cung bậc tình cảm khác nhau của người lao động.
2.1.1. Không gian vật lí
Khi không gian là đối tượng phản ánh trực tiếp thì đó sẽ là không gian được tái hiện đúng như ngoài thực tại. Dó là những “xứ Huế”, xứ Nghệ”, xứ Quảng’, là “nước non Cao bằng”, là “núi Nùng – sông Nhị”, là “sông Hương- núi Ngự”…Trong ca dao những địa danh đó vanglên như những “m thanh của đất” gợi nhớ đến các miền quê với những đặc điểm điển hình về phong thổ, cảnh vật, sản vật, những nghề truyền thống nổi tiếng. Nói chung, trong ca dao, “những không gian vật lí” ấy “là những không gian bình dị của làng quê” với cây đa, giếng nước, sân đình, ngõ chùa, ao sen, cánh đồng, lũy tre…tất cả hợp thành những “hoàn cảnh điển hình”, những bối cảnh không gian trữ tình cho sự nảy sinh cảm xúc- tâm lí của con ngừoi lao động chân chất, cần cù, giàu tình cảm cộng đồng.
Dòng sông, con thuyền, cái cầu, bờ ao, cây đa, mái đình, ngôi chùa, mảnh vườn, cánh đồng, con đường, trong nhà, ngoài sân, bên khung cửi, trong ngõ nhỏ,…là những không gian vật lí thường gặp trong ca dao. Ở đó, người bình dân (chủ yếu là những chàng trai làng và các cô thôn nữ) sinh sống, làm lụng, tình tự và than thở:
+ Nước chảy xuôi, thuyền anh trôi ngược
Anh chống không được, anh bỏ sào xuôi
Sào xuôi, thuyền cũng trôi xuôi
Khúc sông bỏ vắng để người sầu riêng…
+ Qua sông em đứng em chờ
Qua cầu e đứng ngẩn ngơ vì cầu
+ Gặp nhau giữa đường vắng thì chào
Gặp nhau giữu chợ lao xao thì đừng.
Trong ca dao cũng có những cảnh “Hải Vân bát ngát nghìn trùng”, “non cao, cao mấy từng mây”, cũng có khi người bình dân “ ngó hoài ra tận biển Đông”, thậm chí đã “chèo thuyền giữu biển”, đã có khi họ quan niệm:
Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng.
Và cũng đã có chàng trai vỗ ngực tự phụ:
Anh đây lên thác xuống ghềnh
Thuyền nan đã trãi, thuyền mành chử chơi
Đi cho khắp bốn phương trời
Cho trần biết mặt, cho đời biết tên.
Nhưng nhìn chung, trong kho tàng ca dao, dân ca của người Việt, không gian vật lí là những không gian bình dị của làng quê, có quy mô vừa phải.
Nếu như ở thơ trữ tình bác học, không gian tĩnh chiếm ưu thế so với không gian động thì ở ca dao, tình hình có khác. Những lời ca dao được dẫn ở trên đã một phần chứng tỏ điều đó. Ở đây, xin nêu thêm một vài ví dụ:
+ Cầu quan vui lắm ai ơi
Trên thì chợ họp dưới bơi thuyền rồng
(Cầu Quan thuộc Thanh Hóa)
+ Sông Tô nước chảy trong ngần
Con thuyền buồm trắng chạy gần chạy xa
Thon thon hai mũi chèo hoa
Lướt đi lướt lại như là bướm bay.
(Sông Tô: sông Tô Lịch thuộc Hà Nội)
2.1.2. Không gian xã hội
Trong ca dao cũng còn có cả “không gian xã hội” nơi diễn ra mọi hoạt động đời sống, mọi mối quan hệ giữa người với người.Trong những câu hát than thân hay những câu hát yêu thương, nghĩa tình, nhất là trong những câu hát giao duyên, không gian xã hội ấy trở thành “không gian tâm trạng”:
- “Qua đình ngả nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
- “Gặp nhau đường vắng thì chào,
Gặp nhau giữa chợ lao xao xin đừng”
- “Đất đâu đất lạ đất lùng,
Đi làm lại có thổ công ngồi bờ.
Ngồi bờ lại chả ngồi không,
Hai tay chống gối, mắt trông người làm”…
Không gian tâm trạng ấy nhiều khi mang tính tượng trưng, hoặc không phải là tấm ảnh chụp nguyên xi không gian vật lí đúng như nó ở ngoài thực tại. Không gian ấy được chủ quan nhà nghệ sĩ dân gian sắp xếp lại sao cho “khớp” với cảm xúc- tâm lí của nhân vật trữ tình:
“Chiều nay có kẻ thất tình,
Tựa mai-mai ngả, tựa đình- đình xiêu”
“Ra đi anh có lời thề,
Dù đất Thổ Sơn có mất máu đỏ anh cũng trở về với em”
“Ước gì sông rộng một gang,
Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi”
Ngay cả không gian xã hội cũng có thể sắp xếp lại được:
“Con vua thì lại làm vua,
Con sãi ở chùa thì quét lá đa.
Bao giờ dân nổi can qua,
Con vua thất thế lại ra quét chùa”
Phần lớn không gian trong ca dao mang tính phiếm chỉ với những “cầu”, “quán”, “cây đa”, “bến đò”…:
- “Qua cầu ngả nón trông cầu,
Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu”
“Cây đa cũ, bến đò xưa,
Bộ hành có nghĩa nắng mưa vẫn chờ”.
Trong không gian xã hội có những mối quan hệ hết sức đa dạng giữu con người với con người:
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư trộc đầu.
Câu cai buông áo em ra
Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa
Không chỉ thể hiện không gian xã hội, người bình dân còn bộc lộ quan niệm của họ về những mối quan hệ đó. Nếu như trong tục ngữ, người bình dân tâm niệm: “Người ta (là) hoa đất” thì ở ca dao, họ cũng đặt tình người lên trên sự giàu sang, phú quý:
- Chẳng tham nhà ngói ba tòa
Tham vì một lỗi mẹ cha hiền lành
- Kiếm nơi cha thảo mẹ hiền
Giờ thân khuya sớm, bạc tiền không ham.
Tầm nhìn của họ đã có lúc vượt khỏi lũy tre làng:
- Đừng nài lương giáo khác dòng
Vốn đều con Lạc cháu Hồng khi xưa
- Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Đó là những không gian mang tính cá thể hóa có thể được nhiều “nhân vật diễn xướng” sử dụng trong những bối cảnh khác, thích hợp với những gì chung nhất của cảm xúc- tâm lí của nhiều người đến mức trở thành không gian ước lệ mở ra khoảng không rộng lớn cho sự cộng cảm giữa người sáng tác với người diễn xướng, giữa người diễn xướng với người thưởng thức. Đó là một trong những “điều bí mật” tạo nên sức hấp dẫn muôn đời của ca dao.
2.2. Vấn đề nghiên cứu thời gian nghệ thuật trong ca dao
2.2.1. Thời gian nghệ thuật trong ca dao là thời gian hiện tại, thời gian diễn xướng
Trong cuốn sách nổi tiếng Thi pháp văn học Nga cổ, Li –kha –chốp đã viết về thời gian diễn xướng của thơ ca dân gian. Tác giả cho rằng, trong thơ ca dân gian, tác giả với tư cách là một cá thể, là “cái tôi” trữ tình không được biểu hiện lộ ra. Đây chính là tính chất độc đáo của việc thơ ca dân gian thể hiện thời gian. Trong thơ ca dân gian, không chỉ có việc sáng tạo, sáng tác văn bản tác phẩm mà còn có khâu diễn xướng tác phẩm. Người diễn xướng có vai trò rất quan trọng. Ai hát, hát trong hoàn cảnh nào là những điều rất đáng chú ý. Do sự vắng mặt của tác giả với tư cách là người đầu tiên sáng tạo nên văn bản lời ca, ở đây không có khoảng cách giữa thời gian của tác giả và thời gian của người đọc, người thưởng thức như ở trong văn học viết, trong thơ bác học. Trong thơ ca dân gian, thời gian của tác giả và thời gian của “người đọc” (người thưởng thức) hòa lẫn với thời gian của người diễn xướng. Thời gian ở đây là thời gian hiện tại.
Những nhận xét trên của Li –kha –chốp có giá trị phổ quát, không chỉ đúng với thơ ca dân gian Nga, mà còn đúng với ca dao, dân ca người Việt, đặc biệt là với ca dao về tình yêu, hôn nhân và gia đình.
Trong ca dao,tác giả với tư cách là một cá nhân- cá thể, là một cái tôi trữ tình riêng biệt, tách biệt với cộng đồng không được biểu lộ ra. Chính đó là điều tạo ra sắc điệu trữ tình độc đáo của ca dao so với thơ trữ tình bác học. Tính độc đáo ấy cũng được thể hiện cả ở cách xử lí thời gian của ca dao.
Trong những cuộc hát ca dao được cất lên.Tác giả bài ca hoàn toàn vắng mặt, trong thời điểm hiện tại của cuộc hát, ca dao được cất lên từ cửa miệng những người khác, ca dao được cả người diễn xướng lẫn người thưởng thức cùng như thể đang diễn đạt những cảm xúc- tâm lí nảy sinh từ chính trái tim mình ở vào khoảnh khắc dương thời đang tiếp diễn. Rút cục, trong ca dao, thời gian của tác giả và thời gian của người diễn xướng và cả thời gian của người thưởng thức hòa lẫn làm một. Thời gian đó luôn luôn là thời gian hiện tại (Điều này khác với thời gian trong truyện cổ tích luôn luôn là thời gian quá khứ phiếm định, khác với thời gian trong truyền thuyết luôn luôn là thời gian quá khứ xác định.)
Ca dao sử dụng hàng loạt cụm từ để chỉ thời gian: “bây giờ”, “hôm nay”, “chiều chiều”, “đêm đêm”, “hôm qua”, “ đêm qua”, “sáng ngày”, “khi xưa”…Nói chung thời gian nghệ thuật trong ca dao vừa là thời gian thực tại khách quan, lại vừa là thời gian của sự tưởng tượng, hư cấu mang tính chủ quan của nhân vật trữ tình.
Khi thời gian thuộc về đối tượng phản ánh thì đó là thời gian thực tại được ca dao tái hiện lại. Ví dụ như cách tính thời gian trong những bài ca nông lịch.:
- “Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà…” .
- “ Nào khi gánh nặng em chờ
Qua truông em đợi, bây giờ phụ em”.
Ở những trường hợp khác, các từ láy chỉ thời gian được sử dụng và có tác dụng diễn tả quá trình của sự việc (hoặc hiện tượng) kéo dài từ một quá khứ gần đến hiện tại:
- “ Chiều chiều ra đứng bờ ao
Nước kia không khát, khát khao duyên chàng”.
Ở đây chu kì thời vụ được tính bằng tháng. Bài ca cho thấy tính chất dồn dập của công việc nhà nông hết tháng này sang tháng khác trong năm, đồng thời cũng hé lộ tính lặp lại đều đều của thứ “nông lịch” ấy từ năm này sang năm khác. Qua đó, bài ca diễn đạt, một cách nghệ thuật, tính cách kiên nhẫn, bền bỉ, sự chịu đựng không biết mệt mỏi của người làm ruộng.
Nhưng khi cần diễn đạt một sự dồn dập với tốc độ nhanh hơn, đòi hỏi một cường độ làm việc căng hơn, đơn vị thời gian sẽ không còn là tháng nữa, mà là ngày:
“Một ngày hai bận trèo non,
Lấy gì mà đẹp mà giòn hỡi anh.”
Thậm chí đơn vị thời gian còn ngắn hơn cả ngày:
“Thân anh khó nhọc trăm phần,
Sớm đi ruộnglúa, tối nằm ruộng dưa.
Vội đi quên cả ăn trưa,
Vội về quên cả trời mưa ướt đầu.”
Khi thời gian chỉ là một yếu tố góp phần tạo nên hoàn cảnh, là một phương tiện nghệ thuật được mượn đến để làm phát lộ cảm xúc- tâm lí của nhân vật trữ tình thì thời gian hoàn toàn do chủ quan của nhân vật tưởng tượng hư cấu mà nên. Về cách sử dụng thời gian nghệ thuật hư cấu như thế này, chúng ta có một ví dụ thú vị sau:
“Tìm em đã tám hôm nay,
Hôm qua là tám, hôm nay là mười”
“Những con số này rõ ràng là rất cụ thể, song đặt trong tương quan cả câu lại có thể không chính xác. Ở câu trên, tương quan giữa ba con số thời gian là một con số thiếu logic. Tại sao đã “tám hôm nay” rồi lại còn cộng thêm “hôm qua” và “hôm nay” lần nữa? Việc thiếu logic ở đây chỉ có thể giải thích bằng logic tâm trạng: sự bồn chồn của người đang yêu. Như vậy, thời gian ở đây chỉ là cái cớ, con số dù cụ thể song không nhất thiết phải chính xác.”(Trần Thị An. “Về một phương diện nghệ thuật của thơ ca tình yêu”,Tạp chí văn học,số 6-1990.)
Trong những trường hợp như thế, thời gian thường mang tính tượng trưng, ước lệ để có thể dùng chung cho nhiều người, ở nhiều địa điểm và thời điểm khác nhau. Chẳng hạn:
“Chiều chiều ra đứng bờ ao,
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ”
Với câu trên, chẳng ai lại bắt bẻ tại sao “chiều chiều” lại không thể trông thấy sao được? tất nhiên, có khi người hát mở đầu bằng “đêm qua - nghe có vẻ hợp lí hơn. Nhưng thực ra ở đây ca dao không nhằm bảo đảm “cái lí thông thường” mà chỉ cốt biểu đạt ‘cái lí của lòng người”, “ cái logic của tâm trạng”. Và như vậy cũng là đảm bảo “cái lí của nghệ thuật”. Chính vì thời gian ở đây chỉ là ước lệ nên có thể thay thế “chiều chiều” bằng “đêm qua” và ngược lại, tùy người hát và thời điểm hát, cốt sao đảm bảo thể hiện được cảm xúc trữ tình trong bài hát,câu hát, tạo sự cảm thông, gần gũi giữa những người đang tham gia cuộc hát trong hiện tại.
Trên đây là những từ những lời có từ chỉ thời gian. Trong ca dao, còn nhiều lời không có từ chỉ thời gian. Trong những trường hợp này, người bình dân hát (hoặc ngâm, đọc) vào lúc nào (sáng, trưa, chiều, tối,…) thì lúc đó chính là thời gian bộc lộ tâm trạng của người diễn xướng. Chính vì vậy, Li –kha –chốp đã gọi thời gian nghệ thuật trong thơ ca dân gian la thời gian diễn xướng:
“Nuôi con mới biết sự tình
Thảm thương cha mẹ nuôi mình khi xưa”.
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt thương bà bấy nhiêu”.
Như vậy, dù có hay không có từ chỉ thời gian, thời gian nghệ thuật trong ca dao là thời gian hiện tại, thời gian diễn xướng.
2.2.2. Các công thức miêu tả thời gian
Khi nghiên cứu về thời gian nghệ thuật trong ca dao tình yêu, Trần Thị An đã nhận xét rất đúng rằng, ở đây thời gian cá nhân riêng biệt, thời gian khách quan, thời gian xã hội bị nhạt nhòa. Tính chất công thức, ước lệ là đặc điểm nổi bật trong việc tác giả dân gian miêu tả thời gian. Ngay cả khi người bình dân đưa ra những con số có vẻ cụ thể thì thời gian ở đây cũng không phải là một đại lượng chính xác:
Tìm em đã tám hôm nay
Hôm qua là tám, hôm nay là mười.
Khi nghe cô gái Bắc Ninh hát:
Ngày ngày ra đứng bờ ao
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ
Trông người, người vẫn làm ngờ
Trông sao, sao mờ, em biết trông ai!
Răng đen còn có khi phai
Má hồng khi nhạt, tóc dài khi thưa
Người ta sẽ không bắt bẻ: Tại sao ban ngày lại có thể trông thấy sao được? Bởi vì, người ta có thể thay đổi hai tiếng “ngày ngày” bằng các từ “chiều chiều”. “đêm đêm” mà ý nghĩa của lời ca vẫn không thay đổi.
Như vậy, việc thể hiện thời gian trong ca dao đã trở nên thành công thức, ước lệ.
* Như đã nêu các ví dụ ở trên, các từ “bây giờ”, hôm nay”, “chiều chiều”, “ngày ngày”, “hôm qua”, “đêm đêm”, “đêm qua” luôn luôn làm trạng ngữ, thường đứng ở vị trí mở đầu tác phẩm. Số lần mở đầu bằng “chiều chiều” là 87; bằng từ “đêm qua”: 51; bằng từ “bây giờ”: 43; bằng từ “hôm qua”: 12; bằng từ “ngày ngày”: 11, bằng từ “đêm đêm”: 5, bằng từ “hôm nay”: 5.
Ngoài ra con có 54 lời mở đầu bằng từ “đêm khuya”;
Những từ khác như “đềm hè”, “chiều nay”, “tối qua”,...cũng được sử dụng để mở đầu lời ca, tuy tần số không cao.
* Qua phần trên, chúng ta thấy những từ chỉ thời gian vào buổi chiều, buối tối và ban đêm (“chiều chiều”, “đêm khuya”, “đêm qua”, “đêm rằm”, “sáng trăng”) được sử dụng nhiều nhất, các từ chỉ thời gian con lại (“sáng ngày”, “ngày ngày”) được sử dụng ít hơn.
* Những công thức miêu tả đối lập quá khứ với hiện tại, hiện tại với quá khứ không những giúp cho việc thể hiện tâm trạng đạt hiệu quả cao mà còn tạo nên cảm giác về sự thay đổi, vận động của thời gian.
Đối lập quá khứ - hiện tại, tác giả dân gian dùng các cặp từ “khi xưa” –“đến nay”, “khi xưa” –“bây giờ”, “khi đầu” –“ngày về”, “nào khi” –“bây giờ”, “ngày nào” –“bây giờ”, “xưa kia” –“bây giờ”,...
Có khi trong cùng một lời, các cặp từ trên được dùng lặp đi lặp lại đến hai, ba lần, nhấn mạnh sự thay đổi của hiện thực:
Khi đi trúc mới le te
Giờ về trúc đã cánh bè sang sông
Khi đi thì trúc chưa chồng
Giờ về trúc đã hóa long ra rồi.
Nếu các cặp đối lập quá khứ -hiện tại được sử dụng phổ biến bao nhiêu (trên 200 lần) thì các cặp đối lập hiện tại –quá khứ, hiện tại –tương lai lại có mặt thưa thớt bấy nhiêu (không quá 10 lần).
KẾT LUẬN
Ca dao là tiếng nói trung thực, phản ánh rõ nét nhất trong văn chương bình dân, được miêu tả sự việc xảy ra hằng ngày giữa cuộc đời và trở thành những câu hò, điệu hát của nhân gian như nhưng bản tình ca bất diệt, đượm màu thế tục, tình yêu, tình đời với một ẩn dụ tự nhiên làm cho người ca ngâm cũng như người nghe có một cảm nhận gần gủi, tuyệt vời. Ca dao còn hóa giả mọi tình huống uẩn khúc, lời ca ấy làm cho con người không còn cảm thấy đau khổ nữa.
Không gian nghệ và thời gian trong ca dao là một phạm trù nghệ thuật có vai trò quan trọng trong việc thể hiện tính tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Không gian và thời gian nghệ thuật trong ca dao là một phạm trù quan trọng của thi pháp học, là phương tiện chiếm lĩnh đời sống, là mô hình nghệ thuật về cuộc sống. Không gian và thời gian nghệ thuật góp phần thể hiện quan điểm nghệ thuật của mỗi nhà văn.
Không gian và thời gian nghệ thuật trong ca dao luôn có sự biến đổi theo dòng chảy văn học. Ở mỗi thời kì, giai đoạn văn học, không gian và thời gian nghệ thuật mang những đặc trưng riêng làm nên dấu ấn thời đại trong đặc sắc nghệ thuật. Không gian và thời gian trong ca dao dần dần gần gũi với cuộc sống của cá nhân con người, đi sâu phản ánh hiện thực cuộc sống đầy nhọc nhằn vất vả, không gian nghệ thuật được cá thể hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Cấu trúc ca dao trữ tình người Việt (Lê Đức Luận)
2 Hà Minh Đức (chủ biên) (1999), Lí luận văn học, NXBGD.
3 Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ vă
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Văn học dân gian.doc