Tiểu luận Thời kỳ hậu hệ thống Bretton Woods

Bong bóng thị trường chứng khoán đã tự nó giải quyết bằng cách xuống giá, và để nhằm giữ nền kinh tế khỏi tuột dốc, Cục dự trữ Liên bang (Fed) đã giữ lãi suất ở mức rất thấp và lại kéo dài thời gian quá lâu, đầu tư vào nhà cửa tiếp tục tăng, giá nhà cửa trở thành bong bóng. Trong 5 năm qua giá nhà khắp nơi tăng, thấp nhất ở các bang hẻo lánh nhiều đất cũng tăng ít nhất 17%, và ở nơi có nhiều đầu cơ tăng hơn gấp đôi. Nếu kể từ năm 1980, giá nhà ở những bang như New York, California, Massachussets tăng 5, 6 lần.

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2829 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thời kỳ hậu hệ thống Bretton Woods, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
át nên đã áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ Đồng tiền Yên Nhật Bản trước đây được phép tăng giá so với đồng đôla Mỹ sau sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods vào năm 1971, đã suy yếu đáng kể sau cú sốc dầu mỏ. Nền kinh tế Nhật Bản vốn được đánh giá là dễ bị tổn thương hơn cả khi gặp phải những biến động co giãn của giá cả dầu mỏ. Tiền Yên Nhật Bản trước đợt cấm vận dầu mỏ được định giá ở mức 265 Yên cho một đôla Mỹ. Sau đó đồng tiền này sụt giảm xuống còn 300 Yên cho 01 đôla vào giữa năm 1974, rồi dao động hẹp xung quang mức này cho đến năm 1977, thời điểm mà tổng thống mới đắc nhiệm Carter quyết định thực hiện nhiệm vụ giải quyết mức thậm hụt tăng nhanh trong cán cân thương mại với Nhật Bản. Đồng Mác Đức cũng phải đối mặt với một chiều hướng tương tự như đồng Yên Nhật, nhưng sự sụt giảm không nhiều như đồng Yên và cũng hồi phục nhanh hơn so với đồng Yên. Đồng Mác đã giảm từ 2,40 Mác cho 01 Đôla trước cấm vận dầu mỏ xuống còn 2,80 Mác cho 01 Đôla vào tháng 01 năm 1974. Tuy nhiên cho đến cuối năm 1974, đồng Mác đã mạnh hơn so với trước thời điểm khủng hoảng dầu mỏ và nó tiếp tục tăng so với đồng Đôla sau đó. Có thể nói rằng ảnh hưởng của cú sốc giá dầu lên nền kinh tế toàn cầu, mà biểu hiện chính là hiệu ứng lên cán cân vãng lai của các nước đã dẩy thế giới vào cuộc suy thoái trong những năm 1974-1975 với mức tăng trưởng kinh tế âm của các nước như Mỹ, Nhật, Anh và Đức. Cùng với sự suy thoái kinh tế này là mức thất nghiệp gia tăng ở hầu hết các nước. II. Cú sốc giá dầu lần thứ 2 (1979- 1981) Nguyên nhân Một sự kiện địa chính trị khác với những hậu quả lịch sử to lớn đã châm ngòi cho cuộc khủng hoảng dầu mỏ thứ hai. Bước vào năm 1979, OPEC quyết định tận dụng quyền lực định giá của mình sau một giai đoạn kiềm chế bằng cách công bố một mức tăng giá 15% cho năm 1979. Tuy nhiên động thái nói trên của OPEC sau đó nhanh chóng trở nên vô nghĩa với các sự kiện gây chấn động tại Iran. Sản xuất dầu mỏ tại Iran bắt đầu giảm sút khi những biến động xã hội leo thang. Tình hình thị trường xấu đi thậm chí ngay cả trước khi Đảng Shah bị lật đổ và sứ quán Mỹ tại Tehran bị các tay súng bao vây vào tháng 11 năm 1979. Cuộc cách mạng tại Iran đã gây ra thiệt hại từ 2 triệu đến 2,5 triệu thùng dầu khai thác mỗi ngày trong giai đoạn từ tháng 11 năm 1978 cho đến tháng 06 năm 1979. Sau đó thì việc sản xuất hầu như dừng hẳn, dẫn đến giá dầu tăng. Mặc dù mức suy thoái không bằng lần 1 nhưng suy thoái của các nước công nghiệp lại tỏ ra sâu sắc. Iraq tiến hành xâm lược Iran vào tháng 09 năm 1980. Chỉ trong vài tuần tổng sản lượng dầu mỏ của cả hai nước tham chiến này chỉ còn ở mức vài triệu thùng mỗi ngày hoặc có thể tính là 6,5 triệu thùng mỗi ngày ít hơn so với một năm trước đó. Trong năm 1979, sản lượng dầu thô toàn thế giới đã giảm 10%. Cũng trong thời gian này, rất nhiều nước quay lại nỗ lực củng cố các kho xăng dầu dự trữ. Cho đến thời điểm thị trường dầu thô đạt đỉnh vào giai đoàn 1980 - 1981, giá dầu thô nhẹ của Ả Rập Sêút đã tăng lên sát mức 40 Đôla một thùng, mức tăng 25 Đôla mỗi thùng hay gấp 3 lần so với mức giá trung bình năm 1978. Tác động Tình hình này dẫn đến sự suy thoái của các nước công ngiệp cũng như ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ lúc bấy giờ. Cuộc cách mạng Iran diễn ra ngay sau khi chính quyền Carter trong tháng 11 năm 1978 đưa ra chương trình chi tiết bảo vệ giá trị đồng Đôla. Chương trình này bao gồm việc vay tín dụng từ IMF cũng như phát hành các trái phiếu có tên gọi là trái phiếu Carter, theo đó Kho bạc Hoa Kỳ đứng ra vay các loại tiền tệ khác ngoài đồng Đôla. Chương trình này có hiệu quả trong một thời gian khi khôi phục lại đôi chút niềm tin thị trường, và đồng Đôla đã tăng lên đôi chút trong bảng tỷ giá. Cũng giống như thời điểm sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ nhất, trong lần khủng hoảng thứ hai đồng Yên Nhật Bản lại tiếp tục phải chịu sức ép trên thị trường ngoại hối quốc tế. Phản ứng của đồng Mác Đức cũng lại khác. Cho đến cuối năm 1979, khi tỷ lệ lạm phát của Mỹ bắt đầu tăng lên, đồng Mác Đức đã bắt đầu tăng giá mạnh mẽ. Xu hướng này đã tiếp tục cho đến vào năm 1980. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, rút kinh nghiệm từ cú sốc giá dầu lần trước, lần này các chính phủ kiên quyết hơn trong việc tránh hậu quả của các chính sách lạm phát. Kết quả là các NHTW của các nước công nghiệp đều áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ để phản ứng lại cú sốc giá dầu lần này bằng cách thực hiện những biện pháp nhằm rút bớt lượng tiền trong lưu thông, dẫn đến làm tăng mức lãi suất thế giới, kết quả là cuộc suy thoái kinh tế trong năm 1980-1981, đặc biệt ở Anh và Mỹ. III. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐÔNG Á 1. Giới thiệu: Cuộc khủng hoảng bắt đầu ở Thái Lan vào tháng 7/1997 rồi lan sang các thị trường tài chính khác trong đó có cả các con hổ châu Á. Indonesia, Hàn Quốc, Thái Lan là những nước chịu tác động mạnh nhất. Hongkong, Lào, Philippines, Malaysia cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất thình lình. Trung Hoa Đại Lục, Đài Loan, Singapore và Việt Nam không bị ảnh hưởng. Khủng hoảng 1997 là khủng hoảng toàn cầu vì tác động của nó lan tới tận các nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ. 2. Biểu hiện: Sự mất giá nhanh của các đồng tiền với quy mô chưa từng có. Sự thua lỗ và phá sản với quy mô và tốc độ bất thường của hệ thống ngân hàng và tài chính quốc gia. Sự thua lỗ và phá sản với quy mô và tốc độ bất thường của các doanh nghiệp. 3. Nguyên nhân: a. Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém: Thái Lan và một số nước Đông Nam Á cố gắng thực hiện bộ ba chính sách không thể đồng thời: cố định đồng tiền của nước mình vào USD, tự do hóa tài khoản vốn, thắt chặt tiền tệ. Chính điều này đã tạo sức ép tăng giá đồng nội tệ. Để giữ tỷ giá cố định, các NHTW đã thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ, dẫn tới lạm phát. Thực hiện chính sách vô hiệu hóa để chống lạm phát vô hình chung đẩy mạnh các dòng vốn vào nền kinh tế. Hàn Quốc vào giữa những năm 1990, đồng Won không ngừng lên giá so với USD làm hàng hóa xuất khẩu của Hàn Quốc tăng giá trên thị trường quốc tế, tài khoản vãng lai suy yếu. Đồng thời Hàn Quốc lại theo đuổi chế độ tỷ giá neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài khoản vốn làm thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp bằng các khoản vay nước ngoài mà chủ yếu là vay ngắn hạn và không có bảo hiểm rủi ro. b. Các dòng vốn nước ngoài kéo vào: Do các nước châu Á thực hiện tự do hóa tài khoản vốn và lãi suất các nước này cao hơn các nước phát triển nên thu hút các nhà đầu tư nước ngoài từ các trung tâm tiền tệ lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản và châu Âu vốn đang tìm cách thay đổi danh mục đầu tư của mình. Cho đến năm 1997, châu Á thu hút gần một nửa tổng số vốn nước ngoài dành cho những nước đang phát triển. Các nền kinh tế Đông Nam Á có tỷ lệ lợi tức cao đặc biệt có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm tỷ lệ hoàn vốn cao. Kết quả là nhiều nền kinh tế trong khu vực thu nhận được một lượng lớn "tiền nóng" và kinh qua một thời kỳ giá tài sản tăng vọt mạnh mẽ. c. Những thay đổi bất lợi của kinh tế thế giới: Từ đầu thập niên 90, Nhật Bản – một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước châu Á – bị trì trệ. Nhân dân tệ được định giá thấp so với Dollar Mỹ từ năm 1994 cùng nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn so với hàng xuất khẩu cùng loại của Đông Nam Á. Nền kinh tế Mỹ hồi phục, FED quyết định tăng lãi suất để ngăn chặn lạm phát khiến cho thị trường Mỹ hấp dẫn hơn các nước Đông Á, từ đó thu hút nguồn vốn ngắn hạn, làm cho đồng USD lên giá và hàng hóa các nước neo tỷ giá cố định theo USD kém cạnh tranh. Điều này làm suy yếu tài khoản vãng lai. d. Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt: (Nguyên nhân trực tiếp) Người ta không còn tin chính phủ có thể tiếp tục giữ tỷ giá cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu của nền kinh tế, một số thể chế đầu cô vĩ mô đã tấn công tiền tệ châu Á. Do năng lực xử lý khủng hoảng yếu kém, thay vì thả nổi đồng nội tệ ngay khi có đầu cơ thì các nước lại ra sức bảo vệ tỷ giá. Hiện tượng đầu cơ tiếp tục kéo dài. 4. Diễn biến: a. Thái Lan: Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 9%. Đến 1996, IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bong kinh tế có thể không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi. Đến giữa tháng 5/1997, đồng Baht Thái bị tấn công đầu cơ lớn. Ngày 30/6/1997, thủ tướng Thái Lan tuyên bố sẽ không phá giá Baht, song rốt cục lại thả nổi Baht vào ngày 2 tháng 7, chấm dứt thời kỳ dài duy trì chế độ tỷ giá gần như cố định theo USD (1991: 25.28, 1992: 25.32, 1993: 25.54, 1994: 25.09, 1995: 25.19, 1996: 25.61). Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 Baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar. b. Philippines: Ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng pesobằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Khủng hoảng trở nên nghiêm trọng hơn do khủng hoảng chính trị liên quan đến các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Giá trị đồng peso chỉ được phục hồi khi Gloria Macapagal – Arroyo lên làm tổng thống. c. Hongkong: Vào tháng 10/1997, HKD bị tấn công đầu cơ dù tỷ giá là 7,8 HKD/USD nhưng do lạm phát nước này cao hơn ở Mỹ. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu nên cơ quan Tiền tệ Hongkong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hongkong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hongkong bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu, công khai tuyên chiến với các nhà đầu cơ. Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hongkong và thị trường chứng khoán của nước này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi chính sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga. Tỷ giá neo giữa Dollar Hongkong và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7,8 : 1. d. Hàn Quốc: Vào thời điểm xảy ra khủng hoảng, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. Chứng khoán của Hàn Quốc giảm giá. Đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD. e. Malaysia: Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, đồng Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sự giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997. f. Indonesia: Khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử. Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt. Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống. Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000 : 1. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1. 5. Hậu quả: Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản. Khủng hoảng kinh tế còn dẫn tới mất ổn định chính trị. Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình quân đầu người tính bằng Dollar Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất giá. 6. Ý nghĩa – Bài học kinh nghiệm: Cần thiết phải có một hệ thống tài chính - ngân hàng vững mạnh, minh bạch. Các dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài và vốn vay ngân hàng nước ngoài có thể đem lại những tác động bất lợi với nền kinh tế nên cần ban hành những quy chế nhằm điều tiết các dòng vốn này. Cần có những thỏa thuận ở cấp khu vực nhằm phát triển một hệ thống phòng ngừa khủng hoảng tái diễn. IV. CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Ở MỸ HIỆN NAY: 1. Thực trạng: Những yếu kém của nền kinh tế Mỹ đã bộc lộ rõ từ trước năm 2000 nhưng đến nay mới bùng nổ. Thiếu hụt cán cân thanh toán đã tới trên 400 tỷ từ 2000, trên 4% GDP và tiếp tục tăng mức thiếu hụt, đạt 811 tỷ năm 2006 bằng 6% GDP. Năm 2007, đồng USD mất giá, có làm giảm mức thiếu hụt xuống 734 tỷ, nhưng cũng ở mức rất cao. Các nước khác nếu thiếu hụt ở mức 3% GDP thì đã phải lo lắng bằng mọi cách nhằm điều chỉnh để giảm mức thiếu hụt này. Nền kinh tế Mỹ trong hơn 10 năm, có lợi thế là được sự tin tưởng của cả thế giới, nên tiền đổ vào để cho dân chúng đầu tư và tiêu xài. Hiện nay số tiền đầu tư vào trái phiếu ở Mỹ lên tới 25,9 ngàn tỷ tính tới tháng 5 năm 2006. Tiền đổ vào làm thị trường chứng khoán và tài sản lên giá quá mức giá trị của nó. Điều này thì ai cũng biết, nhưng rất nhiều người vẫn không tin là giá có thể xuống. Đặc biệt là các nhà kinh doanh tiền tệ, họ phải thổi phồng vì càng lên giá, càng say sưa với thị trường thì giao dịch càng tăng, vay mượn càng nhiều và phí dịch vụ càng lớn. Bong bóng thị trường chứng khoán đã tự nó giải quyết bằng cách xuống giá, và để nhằm giữ nền kinh tế khỏi tuột dốc, Cục dự trữ Liên bang (Fed) đã giữ lãi suất ở mức rất thấp và lại kéo dài thời gian quá lâu, đầu tư vào nhà cửa tiếp tục tăng, giá nhà cửa trở thành bong bóng. Trong 5 năm qua giá nhà khắp nơi tăng, thấp nhất ở các bang hẻo lánh nhiều đất cũng tăng ít nhất 17%, và ở nơi có nhiều đầu cơ tăng hơn gấp đôi. Nếu kể từ năm 1980, giá nhà ở những bang như New York, California, Massachussets tăng 5, 6 lần. 2. Nguyên nhân: 2.1 Mở rộng thị trường cạnh tranh, nhưng lầm lẫn giữa “rào cản” cần phá bỏ và các “kiểm soát” cần bảo vệ. Nước Mỹ hơn 20 năm qua, từ thời Tổng thống Reagan, là nước cổ vũ mạnh mẽ cho việc xoá bỏ các luật lệ và cơ quan kiểm soát nhà nước đối với sản xuất và thương mại trong nước Mỹ, và dùng mọi biện pháp áp đặt các nước khác mở cửa tự do cho tư bản Mỹ. Thứ nhất, cho phép ngân hàng thương mại hoạt động đa năng và rộng khắp cả nước, thay vì hạn chế mỗi ngân hàng ở một bang, ngân hàng được phép hoạt động trên khắp liên bang. Trước đó ngân hàng thương mại chỉ hoạt động thu nhận tiền ký gửi rồi cho vay. Sau thay đổi, ngân hàng thương mại cũng được hoạt động như một công ty đầu tư tài chính, loại công ty này chỉ được làm dịch vụ tạo vốn đầu tư, tức là phát hành và buôn bán cổ phiếu công ty, trái phiếu, v.v. Loại hoạt động nhận tiền ký gửi và cho vay chịu sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước như Fed còn loại hoạt động sau liên quan đến chứng khoán không bị một rào cản nào, trừ việc tuân thủ các định chế buôn bán chứng khoán trên thị trường và nội dung các hợp đồng đã ký kết. Sau đại khủng hoảng năm 1929, Quốc hội đã ra luật Glass-Steagall 1933-35 phân biệt hai loại công ty hoạt động, và không cho phép ngân hàng làm dịch vụ phát hành và buôn bán cổ phiếu và trái phiếu, và bảo hiểm. Sự phá sản của các công ty đầu tư tài chính như Bear Sterns và Lehman, sự sát nhập của Merrill Lynch vào ngân hàng thương mại, và việc xin phép biến thành ngân hàng thương mại của hai đại gia còn lại là Goldman Sachs, Morgan Stanley trong kỳ khủng hoảng này coi như đã xoá sổ sự khác biệt giữa hai loại công ty trên nước Mỹ. Thứ hai, mở cửa tự do cho mọi loại công cụ tài chính mới xuất hiện mà không có sự kiểm soát nào, kể cả việc thu thập chính thức các thông tin thống kê về chúng để theo dõi. Mục đích chính là tạo cơ hội cho các hoạt động đầu tư rủi ro, cho phép các nhà đầu tư sử dụng mọi lỗ hổng, tạo ra sự tin tưởng mù quáng của đám đông để làm giàu. Thí dụ cho công ty bảo hiểm bảo hiểm cả những gì không thể bảo hiểm được, như bảo hiểm giá trị chứng khoán (nợ hay cổ phiếu), nhất là chứng khoán không có bảo chứng - hoàn toàn chỉ dựa vào niềm tin là thị trường (nhìn một cách tổng thể) không bao giờ xuống dốc. Khi thị trường xuống dốc toàn diện, các công ty bảo hiểm loại này tất phải phá sản, vì không thể lấy số thu của người thắng trả cho người thua, do ai cũng thua cả. Thí dụ đáng kể nữa và là nguyên nhân trực tiếp gây ra khủng hoảng hiện nay là các chứng khoán lấy nợ mua nhà làm bảo chứng. Các công ty đầu tư, hoặc tập trung tiền của các nhà đầu tư, hoặc mượn tiền ngắn hạn rồi cho vay (mua nhà hoặc mua các tài sản khác kể cả tài sản tài chính) hoặc mua lại các giấy nợ, sau đó gộp chung các giấy nợ lại, chia làm các chứng khoán nhỏ đem bán cho các nhà đầu tư. Vì lòng tham, họ khuyến khích cho vay cả những người không có bảo chứng về tài sản hoặc thu nhập, lại nhử bằng lãi suất ban đầu rất thấp, đây là loại lãi suất biến thiên, sau 3 hoặc 5 năm là phình bong bóng theo lãi suất thị trường. Không những dân chúng mua, mà các ngân hàng, công ty tài chính, quĩ tín dụng, nhà đầu tư nước ngoài cũng tin tưởng mù quáng vào tương lai của thị trường nhà cửa. Ngân hàng thay vì hoạt động môi giới giữa người ký gửi tiền và người đi vay thì họ cũng xông vào đầu tư, mua giữ các CMO (trái phiếu hay chứng khoán thế chấp bằng nợ cho vay mua nhà ) rác này. Chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 2007, 8 ngân hàng lớn và công ty tài chính lớn của Mỹ như Merrill Lynch, Golden Sachs, City Group, Morgan Chase, Bank of America đã phát hành 286 tỷ CMO dưới chuẩn.  Khi lãi suất tăng, dù không nhiều, tiền mượn mua nhà mất khả năng chi trả, các CMO trở thành rác thật, không còn mang giá trị gì nữa vì chúng chỉ có giá khi có tiền chi trả của người đi vay. Các ngân hàng, công ty tài chính, không những ở Mỹ mà ở khắp thế giới đang mất vốn lớn và có thể đi đến phá sản. Tháng 10 và 11 năm 2007 vừa qua, tập đoàn City Group khai mất 8,4 tỷ vốn, công ty Morgan-Stanley mất 3,7 tỷ vốn và nhiều ngân hàng như Bank of America và nhiều quĩ tài chính khác mất vốn lên hàng tỷ. Nhiều tên tuổi khác sẽ tiếp tục khai mất vốn vì đây chỉ là khởi đầu của khủng hoảng.  Thứ ba, cho phép các hành động đầu tư hoàn toàn mang tính đầu cơ. Bán khống trần trụi (naked shorting) là một thí dụ. Đây là hành động mà giới tài chính có thể sử dụng để đẩy giá một loại chứng khoán nào đó xuống để làm giàu. Họ bán chứng khoán ra (dù không có chứng khoán trong tay) – tức là bán được giá cao- và làm thế giá chứng khoán bị đẩy xuống, họ mua lại với giá thấp. Vì tình hình nguy ngập hiện nay, Ủy ban chứng khoán (SEC) đã phải ra lệnh cấm cả việc bán khống bình thường (tức là phải vay chứng khoán của ai đó thì mới có quyền bán) đối với một loạt các cổ phiếu công ty. 2.2 Sử dụng hai công ty nhằm giúp dân nghèo mua nhà Fannie Mae, Freddie Mac nhằm phục vụ ý đồ chính trị và chính sách lãi suất thấp kéo dài quá lâu nhằm vực dậy thị trường chứng khoán. Chính trị mị dân và hai công ty địa ốc Fannie Mae và Freddie Mac là điều kiện để tự do tài chính tung hoành. Hai công ty này trước năm 1968 là hai cơ quan nhà nước làm nhiệm vụ bảo hiểm nhà ở cho dân có thu nhập trung bình thấp nhằm khuyến khích ngân hàng cho họ vay tiền mua nhà. Điều kiện mua nhà thường đòi hỏi một số vốn tối thiểu (thường là 20% nhưng ít nhất là 10% giá nhà) và một điều kiện là tiền trả góp hàng tháng không hơn 30% thu nhập. Từ 1968 trở đi, Hạ viện Mỹ biến hai cơ quan này thành hai công ty tư nhân có cổ phần viên, nhưng được nhà nuớc bảo trợ nên không bị đánh thuế tiểu bang và liên bang. Đến năm 1999, Hạ viện Mỹ lại quyết định giảm thiểu, gần như xoá bỏ các điều kiện mua nhà, kể cả việc không phải trả trong vòng hai năm, và lãi suất dưới mức thị trường 1%. Việc các nhà chính trị hành động tạo điều kiện thuận lợi như thế vừa nhằm mua chuộc cử tri nghèo mà tranh thủ “ơn” mà hai công ty sẵn sàng đóng góp cho việc tranh cử; ơn này lên tới 200 triệu USD trong vòng 10 năm qua. Những người lãnh đạo công ty cũng tự trả lương cho mình ở mức quá cao mà không có sự kiểm soát nào (lương năm lên tới 7-8 triệu và tiền trả lúc về hưu lên tới 20 triệu). Cùng với Fannie Mae và Freddie Mac, các công ty tài chính khác cũng lao vào tạo ra và bán các chứng khoán dựa vào vốn cho vay từ hai công ty này. Các loại chứng khoán khác xuất phát từ các loại chứng khoán trên (như bảo hiểm) ra đời như những con thiêu thân thu hút bởi ánh sáng của đồng tiền. Lãi suất thấp khiến việc mua nhà tương đối dễ dàng, giá mua tiếp tục tăng nên người tham gia đều tin tưởng rằng giá nhà sẽ không bao giờ giảm; họ chỉ cần mua rồi bán lại ngay là có thể làm giàu. Hơn nữa các nhà đầu tư lại đánh giá là nếu có sự cố thì nhà nước sẽ nhảy vào cứu giúp. Các công ty đánh giá trên thị trường đều thi nhau cho hạng cao các loại chứng khoán trên. Chính vì thế, riêng hai công ty trên đã nắm tài sản cũng như trách nhiệm chi trả 6.000 tỷ USD (gồm cho vay, bảo hiểm tiền cho vay, và sở hữu chứng khoán dựa vào nợ mua nhà), bằng ½ số cho vay địa ốc gia cư. Trong số trên, có thể đến trên 2.000 tỷ dưới chuẩn, hiện nay không ai muốn mua. 3. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay: 3.1 Tác động về mặt kinh tế: Suy thoái ngày càng mang tính toàn cầu:lạm phát ở Mỹ quí hai bất ngờ tăng 3,3% tăng xuất khẩu, giảm nhập khẩu và tăng chi tiêu quốc phòng. Nhưng điều này sẽ không tiếp tục vì đồng Mỹ đang lên giá trở lại và dấu hiệu chi tiêu của dân chúng sẽ giảm mạnh, nhất là vào tháng 8, số thất nghiệp tăng lên 6,1% và thêm 84 ngàn người mất việc. Vừa qua quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF ước lượng thiệt hại đối với các tập đoàn tài chính – ngân hàng có thể lên tới 945 tỉ USD. Con số này chưa tính đến thiệt hại trực tiếp đối với người tiêu dùng Mỹ. Kể từ tháng 8 năm 2007 đến hết tháng 8 năm 2008, trên 770000 căn nhà ở Mỹ bị ngân hàng xiết nợ do các gia đình không đủ khả năng trả nợ tiền vay mua nhà. Cuộc khủng hoảng bất động sản cũng khiến hàng trăm ngàn người mất việc làm. Sự mất giá của các tài sản nhà đất cũng sẽ đẩy tỉ lệ nợ trên tài sản sở hữu của người tiêu dùng Mỹ lên cao hơn con số 18% hiên nay, bắt buộc họ phải thắt chặt hầu bao. Sự thay đổi thói quen tiêu dùng này sẽ tác động lớn lên nền kinh tế Mỹ vốn phụ thuộc chính vào tiêu dùng nội địa, cũng như nền kinh tế của các quốc gia xuất khẩu vào Mỹ. Khoản tiền cứu trợ 700 tỉ USD, chưa kể hàng trăm tỉ USD chính phủ Mỹ đã chi trong năm qua nhằm cứu nguy cho các công ty bất động sản, tài chính và ngân hàng, sẽ là gánh nặng lớn đối với ngân sách của chính phủ Mỹ trong nhiệm kì tới. Hiện tại, chưa kể những khoản tiền cứu trợ này, thâm hụt ngân sách trong năm 2008 đã ước tính lên tới con số 482 tỉ USD, cao nhất trong lịch sử, và số tiền nợ của chính phủ Mỹ đã lên tới con số kỉ lục trên 9.600 tỉ USD, tương đương khoảng 60% Tổng thu nhập Quốc dân của Mỹ. 3.2 Tác động tới thị trường tài chính: Khủng hoảng kinh tế không chỉ diễn ra ở nước Mỹ mà nó đã và đang ảnh hưởng trực tiếp các nền kinh tế khác (châu Âu). Tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng thấp và không bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTHOI KI HAU HE THONG BRETTON WOODS (hoan chinh).doc
  • pptBai thuyet trinh (tong hop).ppt
  • docbai thuyet trinh tcqt.doc
Tài liệu liên quan