MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
Đề tài gồm ba phần chính: 2
Chương I: Những vấn đề chung về văn hóa doanh nghiệp và thu hút nhân tài 2
Chương II: Thu hút nhân tài và thực trạng văn hóa doanh nghiệp tại Việt Nam 2
Chương III: Một số giải pháp xây dựng văn hóa doanh nghiệp để thu hút nhân tài 2
CHƯƠNG I 3
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA DOANH NGHIỆP VÀ THU HÚT NHÂN TÀI 3
1.1 Những vấn đề chung về văn hóa doanh nghiệp. 3
1.2 Các yếu tố cấu thanh nên văn hóa doanh nghiệp 4
1.2.1 Các yếu tố hữu hình 4
1.2.2 Chất lượng ban lãnh đạo 4
1.2.3 Các quy đinh về văn hóa 5
1.2.4 Quy ước chưa thành văn 5
1.2.5 Sự tham gia của lãnh đạo và nhân viên 6
1.3 Những đặc trưng quan trọng của văn hóa doanh nghiệp 6
1.4 Những nguyên tắc xây dựng văn hóa doanh nghiệp thu hút nhân tài 8
CHƯƠNG II 10
THU HÚT NHÂN TÀI VÀ THỰC TRẠNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM 10
2.1 Sự cần thiết xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong việc thu hút nhân tài tại Việt Nam hiện nay 10
2.1.1 Sự cạnh tranh khốc liệt 10
2.1.2 Tạo sức hút của doanh nghiệp 10
2.2 Thực trạng thu hút nhân tài bằng ở nước ta 11
2.2.1 Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam hiện nay 11
2.2.2 Cuộc chiến giành nhân tài 16
CHƯƠNG III 21
MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP ĐỂ THU HÚT NHÂN TÀI 21
3.1 Thu hút nhân tài bằng văn hóa doanh nghiệp 21
3.2 Một số giải pháp 23
3.3 Kiến nghị với nhà nước 24
KẾT LUẬN 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4523 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thu hút nhân tài bằng văn hóa doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ào quá trình tuyển dụng và sử dụng chỉ số EI để đánh giá ứng viên.
Một trong những sai lầm lớn nhất mà các doanh nghiệp nhỏ hay phạm phải trong quá trình tuyển dụng là chuyển giao quá trình này cho các đơn vị làm dịch vụ tuyển dụng. Các chuyên gia cho rằng chỉ những người chủ doanh nghiệp mới hiểu rõ về môi trường văn hóa, đường hướng và phong cách lãnh đạo của công ty, vì vậy họ nên tự mình tham gia vào quá trình tuyển dụng.
Khi tuyển dụng nhân viên, người chủ doanh nghiệp nên đánh giá kỹ những biểu hiện thuộc về cảm xúc của ứng viên (emotional intelligence – EI) bên cạnh chỉ số thong minh (IQ) vì EI sẽ cho biết một ứng viên có thích nghi tốt với tổ chức mới hay không.
Linh họat trong tuyển dụng.
Nếu một ứng viên tỏ ra thích hợp với môi trường, cơ cấu tổ chức của công ty nhưng chưa thật thích hợp với vị trí mà doanh nghiệp đang cần tuyển dụng thì doanh nghiệp nên tìm cách bố trí người đó vào một vị trí khác thích hợp hơn nhằm khai thác điểm mạnh và kinh nghiệm của họ. Thực tế cho thấy tìm người thích hợp với môi trường văn hóa của công ty bao giờ cũng khó khăn hơn tìm người phù hợp với một công việc cụ thể, cho nên phải cố gắng sử dụng và tạo cơ hội cho họ tự khẳng định tài năng.
CHƯƠNG II
THU HÚT NHÂN TÀI VÀ THỰC TRẠNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
2.1 Sự cần thiết xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong việc thu hút nhân tài tại Việt Nam hiện nay
2.1.1 Sự cạnh tranh khốc liệt
Ngày nay, các doanh nghiệp đang trên con đường cạnh tranh gay gắt để phát triển và xác định vị trí. Nhiều quốc gia đã gia nhập khối kinh tế EU. NAFTA, gia nhập tổ chức thương mại thế giới W.T.O. Việt nam đã gia nhập hiệp hội các nước Đông Nam Châu Á ASEAN, thị trường mậu dịch tự do AFTA và thực hiện hiệp định thương mại Việt- Mỹ, ta thấy rằng kinh tế các nước và đang trên đà hội nhập và mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển. Những rào cản đang được phá bỏ, đem lại cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội hợp tác làm ăn. Bên cạnh những cơ hội đó, các doanh nghiệp cũng phải đương đầu với rất nhiều thử thách và cuộc cạnh tranh cho sự tồn tại cũng ngày một sâu sắc hơn. Để thành công, nhiều doanh nghiệp đang cố gắng tạo ra môi trường làm việc hoàn thiện nhằm thu hút nhân tài và nuôi dưỡng năng lực, ngăn chặn tình trạng thất thoát nhân lực và chảy máy chất xám. Bên cạnh đó, bộ máy quản lý nhân lực ở nhiều nơi cũng đãxác định rõ mục tiêu hoạt động và thay đổi biện pháp quản lí, tăng cường hiệu quả hoạt động và phát triển ra thị trường nước ngoài.
2.1.2 Tạo sức hút của doanh nghiệp
Văn hoá doanh nghiệp chính là hình ảnh về một doanh nghiệp và tạo nên sự khác biệt với các doanh nghiệp khác. Qua văn hoá doanh nghiệp ta sẽ cảm nhận rằng hoạt động của doanh nghiệp đó là mạnh hay yếu. Khi đến liên hệ công việc với một công ty, nếu bắt gặp thái độ trân trọng từ những nhân viên bảo vệ đến chị lao công, sự chỉ dẫn tận tình của các nhân viên văn phòng với những thủ tục nhanh chóng nhất có thể, sẽ đem lại cho ta cảm giác hài lòng và hứa hẹn sự quay lại lần sau.
2.2 Thực trạng thu hút nhân tài bằng ở nước ta
2.2.1 Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
Văn hoá doanh nghiệp là toàn bộ những giá trị tinh thần mà doanh nghiệp tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh tác động tới tình cảm, lý trí và hành vi của các thành viên cũng như sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Văn hoá doanh nghiệp gắn với đặc điểm từng dân tộc, trong từng giai đoạn phát triển cho đến từng doanh nhân, từng người lao động, do đó, rất phong phú, đa dạng. Song Văn hoá doanh nghiệp cũng không phải là vô hình, khó nhận biết mà rất hữu hình, thể hiện rõ một cách vật chất, chẳng những trong hành vi kinh doanh giao tiếp của công nhân, cán bộ trong doanh nghiệp, mà cả trong hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp, từ mẫu mà, kiểu dáng đến nội dung và chất lượng. Văn hoá doanh nghiệp là cơ sở của toàn bộ các chủ trương, biện pháp cụ thể trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chi phối kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, có thể nói thành công hoặc thất bại của các doanh nghiệp đều gắn với việc có hay không có văn hoá doanh nghiệp theo đúng nghĩa của khái niệm này.
Ở nước ta nếu chỉ tính trong 100 năm qua, thì trong những năm đất nước bị đô hộ, nhiều doanh nhân đã khởi xướng những ý tưởng rất mới trong việc phát triển công thương nghiệp, hình thành những nền móng đầu tiên của văn hoá doanh nghiệp nước ta, đó là tinh thần dân tộc trong kinh doanh, dũng cảm cạnh tranh với tư bản Pháp, Hoa lúc đó đang làm chủ trên thị trường. Lịch sử đã ghi lại tên tuổi của những doanh nhân thời đó là "tư sản dân tộc" như Bạch Thái Bưởi, được coi là "vua vận tải Bắc Việt đầu thế kỷ", "bậc anh hùng trong kinh tế giới nước nhà" (lời nhà học giả Nguyễn Văn Tố), như Nguyễn Sơn Hà, chủ hãng sơn Resistanco dùng thương hiệu của mình đáng bại nhiều hãng sơn đương thời, như Trần Chánh Chiếu, đã chủ trì nhiều cơ sở kinh doanh và ra báo, là một trong những nhân vật quan trọng của phong trào Minh Tân đất Nam Kỳ vào những năm đầu của thế kỷ XX như Trương Văn Bền với nhãn hiệu xà phòng Cô Ba nổi tiếng cả nước. Thời đó, phong trào Duy Tân dấy lên rầm rộ từ miền Trung đến miền Bắc, ngoài việc khuyến khích nâng cao dân trí, canh tân đất nước, đã kích thích nhiều doanh nhân người Việt lập ra các hiệu buôn, đề cao tinh thần dân tộc trong kinh doanh. Rồi đây, chúng ta còn có dịp tổng kết để đánh giá một cách đầy đủ hơn những bước phát triển của doanh nhân Việt Nam trong lịch sử, nhưng điều có thể khẳng định là: trên khắp đất nước ta, trong những năm bị đế quốc thống trị, đã có không ít những doanh nhân ý thức được nỗi đau mất nước, luôn luôn đề cao tinh thần dân tộc trong kinh doanh, - một nội dung cơ bản của văn hoá doanh nghiệp.
Trong những năm thực hiện thể chế kế hoạc hoá tập chung, do thị trường và các quy luật của thị trường không được công nhận, các doanh nghiệp nước ta tiến hành sản xuất kinh doanh theo chỉ tiêu pháp lệnh được ban hành từ trên, sản phẩm làm ra được giao nộp lên cấp trên, không tính đến nhu cầu thị trường, không hoạch toán đến giá cả, cộng với tiền lương, tiền thưởng trong doanh nghiệp không gắn với kết quả sản xuất, v.v... Thể chế kế hoạch hoá tập trung cũng không bảo đảm trách nhiệm và quyền hạn của doanh nghiệp với tư cách là một thực thể kinh doanh, hạn chế tính sáng tạo, tinh thần kinh doanh của người quản lý doanh nghiệp. Tình trạng đó đã làm sai lệch bản chất của kinh doanh, cũng có thể gọi đó là "sản xuất mà không kinh doanh".
Tuy vậy, cũng trong thời kỳ này, có những cán bộ quản lý doanh nghiệp đã mạnh dạn tìm tòi, thử nghiệp cách làm ăn mới, tạo ra một số mô hình kinh doanh có hiệu quả. Những mô hình này đã nêu lên một số nét đặc trưng của văn hoá doanh nghiệp thời kỳ đó: tinh thần dám nghĩ dám làm, năng động sáng tạo, vươn lên khắc phục khó khăn, thiếu thốn. Truyền thống văn hoá đó đã có ảnh hưởng tốt đối với thế hệ doanh nhân ngày nay.
Công cuộc đổi mới được khẳng định từ Đại hội toàn quốc lền thứ VI của Đảng (12-1986) và thể chế kinh tế thị trường được công nhận đã mở ra cho các doanh nghiệp, doanh nhân nước ta những điều kiện mới có ý nghĩa quyết định để từng bước hình thành văn hoá doanh nghiệp phù hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội ở nước ta, đó là văn hoá doanh nghiệp Việt Nam. Công cuộc đổi mới đã đem lại sự giải phóng các lực lượng sản xuất, quyền tự do kinh doanh của mọi công dân trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Đó cũng là phát huy sức mạnh của toàn dân tộc cho công cuộc trấn hưng đất nước; mọi người được tự do phát huy tài năng, trí tuệ trong kinh doanh, làm giàu cho mình và cho đất nước,như Đại hội IX của Đảng đã quyết định. Có thể nói đây là sự thể hiện nổi bật nhất của văn hoá lãnh đạo, văn hoá quản lý: là sự lãnh đạo phù hợp quy luật phát triển của thời đại, phù hợp với nguyện vọng của cả dân tộc, một dân tộc gan góc đấu tranh chống ngoại xâm trong hàng thế kỷ, nay không cam tâm chịu mãi cảnh nghèo nàn, lạc hậu. Chính công cuộc đổi mới đã mở đường cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp dân doanh và đội ngủ doanh nhân mới, mở đường cho sự hình thành và phát triển văn hoá doanh nhân mới, mở đường cho sự hình thành và phát triển văn hoá doanh nghiệp Việt Nam.
Có thể nêu lên một số điểm nổi bật về văn hoá doanh nghiệp nước ta trong giai đạon hiện nay như sau:
Trước hết, từ công cuộc đổi mới được bắt đầu đến nay, ở nước ta đã dần dần hình thành mục đích kinh doanh mới, đó là kinh doanh vì lợi ích của mỗi doanh nghiệp và lợi ích của cả dân tộc. Đương nhiên, tranh thủ lợi nhuận tối đa là động cơ thúc đẩy ý trí kinh doanh của các doanh nghiệp, của mỗi doanh nhân, chúng ta cần đặc biệt quan tâm, không vì nhấn mạnh lợi ích chung mà coi nhẹ mục đích kinh doanh của mỗi cá nhân doanh nhân. Song, ngay trong thời kỳ Pháp thuộc, chúng ta cũng có những doanh nhân không chỉ làm giàu cho mình mà còn làm giàu cho đất nước như Bạch Thái Bưởi, vừa làm giàu vừa quan tâm những hoạt động xã hội từ thiện như Nguyễn Sơn Hà. Ngày nay, mục đích kinh doanh của mỗi doanh nghiệp gắn với công cuộc phát triển kinh tế của đất nước, vì lợi ích của cá nhân, gia đình và lợi ích của cả đất nước, dân tộc. Khác với doanh nhân các nước kinh tế phát triển và cũng không nên bị nhìn nhận như giai cấp bóc lột, doanh nhân nước ta ngày nay cũng có nỗi nhục của một dân tộc kiên cường, thông minh mà vẫn phải chịu cảnh lạc hậu, kém phát triển. Mỗi doanh nghiệp phát triển không chỉ vì bản thân doanh nhân, mà còn vì sự phát triển của quê hương, của mỗi huyện, tỉnh; động cơ đó thúc đẩy mỗi doanh nhân vươn lên. Mục đích ấy đang được thể hiện ngày càng rõ nét trong chiến lược phát triển của mỗi doanh nghiệp; cũng đã được thể hiện trong các doanh nghiệp có hàng hoá được người tiêu ding bình chọn đạt chất lượng cao trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng mục đích kinh doanh của mỗi doanh nhân ở nước ta hiện nay cũng rất đa dạng về tính chất, bởi vì lẽ sống của con người là đa dạng, phong phú, nhiều màu vẻ, nhất là trong điều kiện nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, thể chế kinh tế cũng đang được chuyển đổi từng bước. Qua các cuộc kiểm tra xã hội học, có thể thấy một số khuynh hướng nổi bật như: có những người chỉ mong kiếm được nhiều tiền; cũng có người muốn qua kinh doanh mà, có danh tiếng lớn, uy tín và địa vị xã hội cao; có người muốn vươn lên, tiếp nỗi truyền thống gia đình, báo hiếu cha mẹ; lại có những người kinh doanh vì khao khát tự hoàn thiện bản thân, có ý chí mạnh về sự phát triển tự do của con người trong chế độ xã hội mới, v.v…
Hai là, văn hoá doanh nghiệp đòi hỏi gắn bó chặt chẽ hiệu quả kinh doanh và tính nhân văn trong kinh doanh; không thể đạt hiệu quả bằng bất cứ giá nào mà coi nhẹ những giá trị nhân văn (tôn trọng con người, bảo vệ môi trường). Điều đặc biệt quan trọng là nâng cao tinh thần cộng đồng dân tộc trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, một đặc điểm của văn hoá doanh nghiệp mà chúng ta cần xây dựng: chúng ta đề cao ý chí tự lập, tự cường, sức vươn lên của mỗi doanh nghiệp, đồng thời huy động tính cộng đồng, tính truyền thống "chị ngã, em nâng" của dân tộc. Đồng thời chúng, khuyến khích doanh nghiệp tham gia các hoạt động xã hội, như xoá đói giảm nghèo, cứu trợ đồng bào gặp thiên tai, tham gia các hoạt động từ thiện.v.v…
Điều cần nhấn mạnh hiện nay là khắc phục chủ nghĩa thực dụng, dùng mọi thủ đoạn để đoạt lợi nhuận cao, thậm chí siêu lợi nhuận, bất kể việc làm đó có hại cho người khác, các thủ đoạn làm giàu bất chấp tình nghĩa, thậm chí làm giàu trên sự đau khổ của đối tác, trên sự phá sản của những doanh nghiệp yếu thế. Có thể thấy rõ nhược điểm về mặt này của doanh nghiệp nước ta trong nhiều trường hợp như cạnh tranh bất hợp pháp, tranh giành thị trường, đáng phê phán nhất là những thủ đoạn hạ giá, phá giá khi xuất khẩu hàng hoá. Trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực hiện nay, khi cuộc cạnh tranh về chất lượng và giá cả hàng hoá diễn ra gay gắt, chúng ta đề cao việc nâng cao khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp lại càng phải đề cao tính tập thể, truyền thống đoàn kết dân tộc trong kinh doanh.
Do vậy, cần đặc biệt phát huy vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp. Đó là những tổ chức xã hội – nghề nghiệp nhằm khai thác mọi nguồn lực của xã hội, kể cả thu hút tài trợ từ bên ngoài, để phát triển các hoạt động trợ giúp một cách trực tiếp, có hiệu quả thiết thực, khắc phục những yếu kém của doanh nghiệp. Các hiệp hội doanh nghiệp có thể cung cấp nhiều loại dịch vụ đa dạng cho hội viên (như cung cấp thông tin, tư vấn, đào tạo), cùng nhau thương thảo giải quyết những vấn đề cụ thể mà tong doanh nghiệp riêng lẻ không tự giải quyết được để bảo đảm lợi ích của mỗi ngành nghề, bảo đảm văn hoá doanh nghiệp, khắc phục những khiếm khuyết của thị trường. Đương nhiên, lợi ích của doanh nghiệp phải gắn bó hài hòa với lợi ích của cộng đồng, của toàn xã hội, không nên chỉ đơn thuần coi trọng lợi ích của doanh nghiệp cùng ngành nghề trở thành lợi ích phường hội.Đồng thời hiệp hội doanh nghiệp cũng được tạo điều kiện để làm tốt vai trò cầu nối giữa hội viên với cơ quan của Chính phủ, đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp, nhất là trong việc tham gia soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ba là, hình thành và phát huy văn hoá doanh nghiệp trước hết là phải dựa vào con người. Đó là vì phát triển doanh nhân không chỉ tăng vốn, tăng lợi nhuận, tăng thu nhập cho người lao động mà còn phải tạo ra môi trường văn hoá doanh nghiệp tiến bộ cũng tức là tạo ra một sức mạnh tổng thể cố kết và cổ vũ người lao động trong doanh nghiệp lao động sáng tạo với niềm tin, một lý tưởng cao đẹp.Văn hoá doanh nghiệp là lý tưởng và các nguyên tắc chi phối hành động của doanh nghiệp cũng như của mỗi thành viên là hệ giá trị tạo nên nguồn lực cho sự phát triển bền vững của một doanh nghiệp, do vậy, càng cần thiết phát huy nhân tố con người trong doanh nghiệp. Trình độ nhân lực của ta hiện nay đang còn thấp so với yêu cầu (kể cả trình độ của người lao động cũng như của người quản lý doanh nghiệp) càng làm nổi bật ý nghĩa hết sức cấp bách của việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người trong khi xây dựng văn hoá doanh nghiệp.
Có thể nêu lên ba cấp độ trong việc phát huy nhân tố con người trong doanh nghiệp; cấp độ thứ nhất là nâng cao năng lực tiềm tàng của mỗi công nhân, viên chức (thông qua biện pháp giáo dục, đào tạo về kinh tế, công nghệ, quản lý ); cấp độ thứ hai là biến năng lực tiềm tàng đó thành hiện thực, thông qua các biện pháp khuyến khích, kích thích sức sáng tạo trong lao động sản xuất; cấp độ thứ ba là tập trung cho được các tiềm lực cá nhân của công nhân viên chức vào việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp , thông qua các biện pháp tổ chức quản lý sản xuất và nhân sự. Cấp độ thứ ba có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vì văn hoá doanh nghiệp không phải kết quả của sự phát triển tự phát trong quá trình sản xuất kinh doanh mà nó được định hướng xây dựng và hình thành trong ý thức tự giác của người quản lý doanh nghiệp, biểu hiệnn tập trung quản lý doanh nghiệp, bởi người quản lý doanh nghiệp. Do vậy, phải đào tạo và trọng dụng đội ngũ doanh nhân nắm được và vận dụng được văn hoá doanh nghiệp vào trong tong hoạt động sản xuất kinh doanh cua doanh nghiệp, trong quan hệ với các đối tác cũng như trong công việc quản lý, điều hành nội bộ doanh nghiệp .
2.2.2 Cuộc chiến giành nhân tài
Cuộc chiến giành nhân tài chẳng bao giờ kết thúc, thế nên các nhà quản lý phải liên tục xem lại cách mà các công ty của họ lên kế hoạch để thu hút, thúc đẩy và giữ lại được người lao động.
Các công ty đều muốn thể hiện ý tưởng rằng những người lao động là nguồn lợi thế cạnh tranh lớn nhất của họ. Tuy nhiên, thực tế lạ lùng lại là hầu hết các công ty đó đều chưa chuẩn bị cho thử thách tìm kiếm, thúc đẩy và giữ lại được những người làm việc có năng lực hệt như một thập kỷ trước.
Cũng đã hơn mười năm sau khi học viện McKinseyđưa ra bản nghiên cứu về cuộc chiến giành nhân tài của mình, năm 1997, bản nghiên cứu chỉ ra xu hướng thiếu hụt các nhà quản lý trong thời gian tới, vấn đề còn khá nghiêm trọng – và đồng thời cũng chỉ ra xem còn vấn đề nào trở nên tồi tệ hơn không. Các công ty đều phải đối mặt với một hiện trạng về nhân khẩu học bị chi phối bởi việc xuất hiện sự rời bỏ công việc của những con người thời kỳ bùng nổ dân số trong thế giới đã phát triển, cũng như bởi một sự khan hiếm những người trẻ tuổi tham gia vào nguồn lao động ở Đông Âu. Còn trong khi đó, dấu chấm hỏi vẫn còn bao trùm cả sự phù hợp về nhân tài trong nhiều thị trường mới nổi.
Và theo như đánh giá từ hai cuộc nghiên cứu toàn cầu của học viện McKinsey thì chính những nhà lãnh đạo doanh nghiệp dành sự quan tâm nhiều nhất. Bởi thứ nhất, trong năm 2006, một nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người tham gia hết sức quý trọng việc tìm kiếm những người tài, điều đó đã trở thành một mối bận tâm quan trọng nhất của ban quan lý trong suốt những năm còn lại của thập kỷ này. Và thứ hai, theo như bản nghiên cứu tháng 11 năm 2007, đã cho thấy rằng gần một nửa những người tham gia đều cho rằng việc nâng cao cạnh tranh về nhân tài – cũng chính là việc nâng cao bản chất cạnh tranh toàn cầu – thì sẽ có một ảnh hưởng quan trọng tới các công ty của họ trong vòng năm năm tới, và không hề có một xu hướng toàn cầu nào được đánh giá quan trọng hơn điều này.
Sự tin tưởng lan rộng đó thể hiện sự cố gắng hết mình để giải quyết được những khó khăn ngày càng phổ biến của nhiều nhà quản lý cấp cao. Trong một thập kỷ qua, các tổ chức đã đầu tư rất nhiều vào việc thực hiện các quy trình và hệ thống nguồn nhân sự, cũng như các vấn đề phát sinh về nhân tài không thể chối cãi được đang được triển khai tại những cuộc họp của các cấp lãnh đạo. Mặc dù những tiến triển này đều cần thiết và đáng được khen ngợi, nhưng chúng vẫn luôn thiếu nếu mọi cái trở nên tốt hơn cũng như sẽ trở thành thừa thãi và lãng phí nếu mọi cái trở nên xấu đi. Có quá nhiều tổ chức vẫn chỉ coi việc quản lý nhân tài như một vấn đề sách lược ngắn hạn hơn là một phần không thể thiếu của cả một chiến lược kinh doanh lâu dài, việc đòi hỏi phải có sự quan tâm của quản lý cấp cao nhất cùng với những nguồn lực quan trọng.
Bởi gần đây một giám đốc điều hành ở Châu Âu đã phải thốt lên rằng: “Ai cũng đều dùng thời gian vào hoạt động kinh doanh trước mắt – bởi chúng ta đều cho rằng làm việc khác thì thu được giá trị ít hơn nhiều. Thế nhưng việc quản lý nhân tài có thể giúp cho bạn bớt căng thẳng bởi điều đó khiến cho bạn không còn phải tiếp tục làm việc quá sức."
Theo nghiên cứu của chúng tôi thì những nhà quản lý cấp cao thường vẫn phải thừa nhận sự thất bại của mình (và của cả những nhà quản lý sản xuất) đối việc quan tâm tới những vấn đề phát sinh này chưa cao. Nghiên cứu của chúng tôi về rất nhiều các tập đoàn toàn cầu vừa cho thấy được những trở ngại mà các nhà lãnh đạo gặp phải, chúng bao gồm những suy nghĩ thực dụng ngắn hạn, quá ít sự cộng tác và chia sẻ nhân tài giữa các đơn vị kinh doanh, việc quản lý sản xuất thiếu hiệu quả, và cả sự nhầm lẫn về vai trò của những nhà quản lý nhân sự.
Ảnh hưởng của nhân tài thực sự trong việc thực hiện tập thể không hề bị thu nhỏ mà còn đang được mở rộng và rõ ràng hơn nhiều trong ngày nay, và kết quả của việc mở rộng về kiến thức, theo như bản nghiên cứu, thì đó là các tổ chức không thể còn sao nhãng với những đóng góp của những người lao động khác. Một số tác giả trong những năm gần đây vừa thực sự nhấn mạnh rằng những đóng góp giá trị của những nhân tài mức B, những người có khả năng và vững vàng trong công việc cũng tạo nên một sự quan trọng cho bất kỳ nguồn lao động nào.
Công ty bảo hiểm Aviva, với chiến lược quản lý “nhiều năng lượng” hơn là rủi ro từ việc bỏ qua khối lượng lớn nguồn lao động bằng việc chỉ chăm chăm tập trung vào những người giỏi thực sự, là một công ty trung thành với nguyên tắc này. Nghiên cứu về vốn xã hội cũng vừa chỉ ra được tầm quan trọng của sự bao trùm, đó là: nhân tài thực sự thì sẽ tạo ra hiệu quả hơn khi nó điều hành trong những mạng nội bộ có sức sống cùng với một lượng người nhất định. Còn việc thực hiện sẽ kém đi ngay khi những mạng đó không có hoặc thiếu sức sống. Và kinh nghiệm của chúng tôi cũng vừa chỉ ra rằng những mạng mạnh thì đều có thể giữ được những người giỏi trẻ tuổi không kiên định như thế hệ Y.
Hơn nữa, các công ty cũng phải xác định được các nhu cầu về nhân tài ở tất cả các mức độ của tổ chức. Những phân khúc không được thừa nhận – đội ngũ nhân viên làm việc trực tiếp, các chuyên gia kỹ thuật, thậm chí cả nguồn lao động gián tiếp, chẳng hạn như những người làm việc cho các nhà cung cấp, các nhà thầu, và cả những đối tác liên doanh – vẫn luôn được coi như bộ phận cốt yếu với toàn bộ sự thành công như những người giỏi mức A. Kinh nghiệm cũng cho thấy rằng một sự tập trung chủ lực chỉ vào những người giỏi có thể sẽ gây hại đến tinh thần của cả tổ chức và dĩ nhiên là tới toàn bộ việc thực hiện.
Một phương pháp bao trùm hơn có liên quan tới việc suy nghĩ và nguồn lao động như một tập hợp các phân khúc nhân tài được tạo ra một cách tích cực hoặc để được áp dụng sự hiểu biết. Có một công ty mà chúng tôi biết đã mời những người lao động của các đối tác liên doanh mà họ tin tưởng để hướng dẫn các thao tác hoạt động giống như những chương trình đào tạo và phát triển cho những người lao động của công ty mình. Và theo cách đó, công ty này khẳng định được rằng toàn bộ nguồn lao động của mình đã đạt được kỹ năng làm việc như mong đợi.
Các doanh nghiệp cũng như nhà nước Việt Nam hiện đang thiếu những cơ chế để có thể thu hút được người tài trong nước cũng như nước ngoài. Tại sao các du học sinh được nhà nước cử đi học rồi học xong lại ở lại làm việc luôn tại nước sở tại dù rằng họ cũng rất muốn về cống hiến cho đất nước. Hay như các doanh nghiệp Việt Nam thường để mất nhân tài của mình và bị rơi vào cảnh thiếu nhân tài. Họ để mất nhân tài vào tay ai? Đó chính là những công ty đa quốc gia, công ty nước ngoài và có trường hợp chính là đối thủ cạnh tranh của mình. Vậy thì tại sao?
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt như ngày nay, những tình trạng trên không còn là hiếm, mà có tìm hiểu kỹ hơn thì mới thấy được tại sao người tài lại ra đi. Họ ra đi phần vì đồng lương trả chưa tương xứng với những gì họ đáng có được, tuy nhiên phần lớn thì lại do môi trường làm việc không có thể cho họ phát huy hết khả năng của mình, và nếu cứ ở đó thì một ngày kia họ sẽ thành những người thừa mà thôi. Và thế là họ chọn cách ra đi và chẳng cái gì có thể níu kéo được.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP ĐỂ THU HÚT NHÂN TÀI
3.1 Thu hút nhân tài bằng văn hóa doanh nghiệp
Nhân tài thường có khuynh hướng gắn bó hơn với những doanh nghiệp có văn hóa phù hợp với những giá trị cá nhân và có thể giúp họ đạt đến thành công trong sự nghiệp.
Khi chọn công ty để nộp hồ sơ, ứng viên thường quan tâm đến mức độ mà những chính sách và giá trị trong công ty phù hợp với những giá trị và sở thích của mình. Ví dụ: một vài công ty quy định sự tưởng thưởng về tài chính quan trọng hơn những hình thức thừa nhận về thành tựu khác như sự khen ngợi của cấp trên. Một số ứng viên có thể thích kiểu văn hóa doanh nghiệp coi trọng vật chất này nhưng người khác lại có thể thấy nó thiếu tình người hoặc hàm chứa sự đe dọa với công việc của họ.
Ở khâu chọn lựa ứng viên, nhà tuyển dụng sẽ ưu tiên chọn những người có thể ủng hộ, thích ứng hoặc tuân thủ đường lối & phương châm hoạt động của công ty – thành tố quan trọng nhất của văn hóa doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp có thể có tác động lớn đến thành công của các nhân viên mới được tuyển dụng, ngay cả với những nhân viên có kỹ năng và kinh nghiệm tương tự nhau. Chẳng hạn, một nhân viên có khả năng làm việc độc lập cao có thể sẽ thành công trong một công ty ít chú trọng đến hình thức làm việc tập thể. Tuy nhiên, nếu công ty khuyến khích việc ra quyết định dựa trên ý kiến tập thể thì người này có thể sẽ thất bại.
Sử dụng văn hóa doanh nghiệp như một công cụ tuyển dụng
Muốn sử dụng văn hóa doanh nghiệp như một công cụ tuyển dụng, bạn cần xác định được những khía cạnh đặc thù của nó. Vấn đề cốt yếu là bạn cần định vị những giá trị, hành vi và chính sách đặc trưng của công ty bạn.
Có 3 cách phổ biến để thực hiện điều này. Cách thứ nhất là thẩm định lại sứ mạng và tầm nhìn, báo cáo dành cho cổ đông và tài liệu marketing thể hiện bản sắc của công ty. Tuy nhiên, những tài liệu này thường thể hiện mục tiêu mà công ty muốn nhắm đến, và có thể không phản ánh chân thực về đặc tính môi trường làm việc của công ty.
Bạn cũng có thể tiến hành một cuộc khảo sát. Tuy nhiên, khảo sát thường làm hao tổn nhiều công sức, hơn nữa nó cũng hiếm khi phản ánh được chính xác những khía cạnh đặc thù của môi trường làm việc.
Cách thứ ba là phỏng vấn một nhóm nhân viên và nhà quản lý chọn lọc về môi trường làm việc. Hãy yêu cầu họ cho biết ý kiến một cách ngắn gọn về bầu không khí nơi làm việc, lý do tại sao họ thích công ty và những điều họ cảm thấy chưa hài lòng về công ty. Đây là cách hiệu quả và mang lại nhiều thông tin nhất.
Giải pháp tối ưu là sử dụng kết hợp cả 3 cách thức nói trên. Tuy nhiên, nhân viên có thể không muốn nói quá nhiều về những khía cạnh tiêu cực của công ty. Vì thế, nếu có thể, bạn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận môn văn hóa doanh nghiệp- Thu hút nhân tài bằng văn hóa doanh nghiệp.doc