Văn bản uỷ thác tư pháp về dân sự. Văn bản uỷ thác tư pháp về dân sự thực chất là những nội dung chính trong yêu cầu tương trợ của nước yêu cầu. Văn bản uỷ thác tư pháp về dân sự được quy định tại Điều 12 Luật Tương trợ tư pháp; tại Khoản 1 Điều 6 HĐTTTP giữa Việt Nam và Lào; tại Khoản 2 Điều 15 HĐTTTP giữa Việt Nam và Pháp; tại Khoản 1 Điều 7 HĐTTTP giữa Việt Nam và trung Hoa; . Theo đó, văn bản ủy thác bao gồm các nội dung như: ngày, tháng, năm và địa điểm lập văn bản; tên, địa chỉ cơ quan uỷ thác tư pháp; tên, địa chỉ cơ quan được uỷ thác tư pháp; họ, tên, địa chỉ nơi thường trú hoặc nơi làm việc của cá nhân, tên đầy đủ, địa chỉ hoặc văn phòng chính của cơ quan, tổ chức có liên quan trực tiếp đến uỷ thác tư pháp; nội dung công việc được uỷ thác tư pháp về dân sự (trong phần nội dung công việc này, cơ quan yêu cầu uỷ thác phải nêu rõ mục đích uỷ thác, công việc và các tình tiết liên quan, trích dẫn điều luật có thể áp dụng, các biện pháp để thực hiện uỷ thác và thời hạn thực hiện uỷ thác).
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5909 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực hiện uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Song song với việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế trên mọi mặt của đời sống xã hội, các giao lưu dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình… có yếu tố nước ngoài theo đó cũng phát triển ngày càng mạnh mẽ. Trong bối cảnh hiện nay, tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều hơn. Tương trợ tư pháp là một công cụ trợ giúp hữu hiệu để giải quyết tranh chấp đó. Hoạt động tương trợ tư pháp quốc tế trong lĩnh vực dân sự bao gồm ba hoạt động chủ yếu là i) Thực hiện uỷ thác tư pháp về dân sự; ii) Công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài và iii) Công nhận và thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài. Trong phạm vi bài viết này em chỉ xin đề cập đến nội dung thứ nhất, đó là việc thực hiện uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự.
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về UTTTQT
Hoạt động UTTTQT được hiểu là việc một quốc gia này (hoặc cơ quan có thẩm quyền của quốc gia đó) thực hiện một số hoạt động mang tính chất tố tụng dân sự theo nghĩa rộng trên cơ sở yêu cầu của quốc gia khác (hoặc cơ quan có thẩm quyền của quốc gia ấy). Quốc gia thứ nhất (hoặc cơ quan có thẩm của quốc gia đó) được gọi là quốc gia (hoặc cơ quan của nó) thực hiện UTTTQT, còn quốc gia thứ hai (hoặc cơ quan của nó) được gọi là bên nhận ủy thác.
Trong lĩnh vực dân sự, hoạt động uỷ thác tư pháp giữa các cơ quan tư pháp các nước là hoạt động chủ yếu nhằm giúp đỡ nhau thực hiện một số công việc có liên quan đến hoạt động tố tụng như: tống đạt giấy tờ, lấy lời khai, điều tra thu thập chứng cứ.
Xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền quốc gia, các hoạt động đó chỉ có thể tiến hành theo nguyên tắc lãnh thổ. Hay nói một cách khác, quốc gia không thể tiến hành các hoạt động trên lãnh thổ quốc gia khác nếu như quốc gia đó không đồng ý.
II. Cơ sở pháp lý bảo đảm thực hiện UTTTQT giữa Việt Nam và các nước
1. Hệ thống pháp luật quốc gia
Hiện nay, hoạt động tương trợ tư pháp quốc tế (trong đó có UTTTQT) của Việt Nam trong lĩnh vực dân sự với các nước được thực hiện trên cơ sở pháp lý sau: Bộ luật Tố tụng Dân sự 2003 và Luật Tương trợ tư pháp 2007.
Thực trạng hoạt động tương trợ tư pháp ở nước ta trong những năm qua cho thấy, uỷ thác tư pháp về dân sự thường bao gồm:
- Tống đạt cho đương sự giấy gọi ra Toà, quyết định của Toà án;
- Thông báo ngày giờ xét xử vụ án;
- Lấy lời khai đương sự, người làm chứng, người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan;
- Thu thập chứng cứ;
- Xác minh địa chỉ của đương sự;
- Trưng cầu giám định…
2. Các điều ước quốc tế song phương mà Việt Nam ký kết với các nước
Do tình hình phát triển quan hệ giữa Việt Nam và các nước, đặc biệt là phát triển quan hệ lao động, do nhu cầu phát triển nội tại của nước ta trong điều kiện mới từ sau năm 1975 đến nay và nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam ở nước ngoài, cũng như cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam, từ năm 1980, Việt Nam đã ký kết một số HĐTTTP với một số nước liên quan. Hoạt động tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước đã có từ khá sớm, chủ yếu được tiến hành trên cơ sở các văn bản của các Bộ, ngành, các cơ quan bảo vệ pháp luật. HĐTTTP (và pháp lý) được ký kết giữa Nhà nước ta với nước ngoài. Hiện nay, Việt Nam đã ký 16 HĐTTTP (và pháp lý) với nước ngoài, cụ thể là:
Số TT
Tên nước
Ngày ký
Ghi chú
1
Ba Lan
22/3/1993
Đang có hiệu lực
2
Bêlarút
14/9/2000
Đang có hiệu lực
3
Bungari
3/10/1986
Đang có hiệu lực
4
CHDCND Triều Tiên
4/5/2002
Chưa có hiệu lực
5
Cu Ba
30/11/1984
Đang có hiệu lực
6
Hungari
18/1/1985
Đang có hiệu lực
7
Lào
6/7/1998
Đang có hiệu lực
8
Liên Xô (cũ)
10/12/1981
Nga đang kế thừa
9
Mông Cổ
17/4/2000
Đang có hiệu lực
10
Nga
25/8/1998
Chưa có hiệu lực
11
Pháp
24/2/1999
Đang có hiệu lực
12
Tiệp Khắc
12/10/1982
CH Séc và CH Xlôvakia kế thừa
13
Trung Quốc
19/10/1998
Đang có hiệu lực
14
Ucraina
6/4/2000
Đang có hiệu lực
15
16
Hàn Quốc
Ấn Độ
15/9/2003
19/ 02/ 2009
Chưa có hiệu lực
Chưa có hiệu lực
III. So sánh cách thức UTTPQT quy định trong pháp luật Việt Nam với cách thức UTTPQT trong điều ước quốc tế song phương Việt Nam ký kết với các nước
Trước năm 1992, khi còn tồn tại Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã ký kết 06 HĐTTTP với các nước là: CHDC Đức, Liên Xô, Tiệp Khắc, CuBa, Hungary, Bungary. Đến nay, Hiệp định với CHDC Đức đã hết hiệu lực, Hiệp định với Liên Xô được Liên bang Nga kế thừa, Hiệp định với Tiệp Khắc được cả Séc và Xlôvakia kế thừa. Nội dung của các Hiệp định được ký trong giai đoạn này về cơ bản tương đối giống nhau. Các Hiệp định này đều điều chỉnh một cách tổng thể hai mảng quan hệ, đó là tương trợ tư pháp giữa các cơ quan tư pháp các nước ký kết và phương pháp thống nhất các quy tắc chọn pháp luật áp dụng để giải quyết xung đột luật và quy tắc xác định thẩm quyền của cơ quan tư pháp trong việc giải quyết các vấn đề dân sự, lao động, hôn nhân gia đình.
Sau năm 1992, kể từ khi có Hiến pháp mới cho đến nay, Việt Nam đã ký thêm 10 HĐTTTPvới các nước là: Ba Lan, Lào, Trung Quốc, Liên bang Nga, Pháp, Ucraina, Mông Cổ, Bêlarút, CHDCND Triều Tiên và Ấn Độ. Các HĐTTTP trong giai đoạn này so với giai đoạn trước được ký với những nước có chế độ chính trị đa dạng hơn, nội dung của các Hiệp định cũng không giống nhau. Trong khi các Hiệp định ký với Ba Lan, Ucraina, Mông Cổ, Bêlarút, CHDCND Triều Tiên có phạm vi điều chỉnh tổng thể như các Hiệp định giai đoạn trước năm 1992, thì Hiệp định ký với Pháp và Trung Quốc chỉ điều chỉnh các vấn đề tương trợ tư pháp giữa các cơ quan tư pháp hai nước mà không quy định về vấn đề chọn pháp luật áp dụng giải quyết xung độ tư pháp luật.
Cách thức, trình tự thực hiện các UTTPQT được các nước quy định trong các điều ước quốc tế liên quan hoặc được quy định trong chính Pháp luật quốc gia. Và tùy vào từng điều kiện của mỗi quốc gia mà cách thức thực hiện UTTTQT được quy định khác nhau.
1. Giống nhau
Pháp luật Việt Nam, cụ thể là Luật Tương trợ tư pháp không quy định một cách rõ ràng cách thức thực hiện UTTTQT như các HĐTTTP mà Việt Nam ký kết với các nước. Tuy nhiên, xét về bản chất, pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế song phương về tương trợ tư pháp đều quy định cách thức ủy thác như sau:
Thứ nhất, khi thực hiện ủy thác tư pháp, cơ quan được yêu cầu áp dụng luật của nước mình. Theo đề nghị của cơ quan yêu cầu, cơ quan được yêu cầu có thể áp dụng các quy phạm pháp luật tố tụng của nước ký kết yêu cầu, nếu những quy phạm đó không mâu thuẫn hoặc trái với pháp luật của nước được yêu cầu. Điều này được thể hiện như sau:
Đối với Pháp luật Việt Nam, Điều 3 Luật tương trợ tư pháp quy định rõ: “1. Tương trợ tư pháp được thực hiện theo quy định của Luật này; trường hợp Luật này không quy định thì áp dụng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật tố tụng hình sự và các quy định khác của pháp luật Việt Nam có liên quan.
2. Việc áp dụng pháp luật nước ngoài chỉ được thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”. Theo quy định này thì các hoạt động tương trợ tư pháp (trong đó có ủy thác tư pháp) sẽ được thực hiện theo các quy định của Luật tương trợ tư pháp, nếu luật này không quy định thì sẽ áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan như Luật Tố tụng dân sự. Đối với trường hợp áp dụng luật nước ngoài để thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp thì chỉ được thực hiện trên cơ sở các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, việc áp dụng này chỉ được tiến hành khi những quy định của pháp luật nước ngoài “phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam” (Khoản 1 Điều 4 Luật Tương trợ tư pháp).
Đối với các Điều ước quốc tế song phương mà Việt Nam ký kết, cách thức ủy thác này cũng được quy định một cách khá rõ ràng, giúp cho tiến trình thực hiện ủy thác tư pháp nhanh chóng, thuận tiện. Chẳng hạn như trong HĐTTTP giữa Việt Nam và Pháp quy định thể thức thực hiện uỷ thác tư pháp (Điều 17): “1. Cơ quan tư pháp, khi thực hiện uỷ thác tư pháp, áp dụng pháp luật của nước mình về thể thức thực hiện uỷ thác tư pháp.
2. Tuy nhiên, nếu cơ quan yêu cầu đề nghị, cơ quan được yêu cầu có thể thực hiện uỷ thác tư pháp theo một thể thức đặc biệt, trừ khi trái với pháp luật của Nước ký kết được yêu cầu hoặc không thể thực hiện được theo thể thức đó vì trái với thông lệ của Nước ký kết được yêu cầu hoặc vì có khó khăn trong thực tế”. Hay Khoản 1 Điều 7 HĐTTTP giữa Việt Nam với Lào cũng quy định cách thức thực hiện ủy thác tư pháp: “ Khi thực hiện ủy thác tư pháp, Cơ quan tư pháp của Nước ký kết được yêu cầu áp dụng pháp dụng pháp luật nước mình. Trong trường hợp có đề nghị của cơ quan tư pháp của nước ký kết yêu cầu, Cơ quan tư pháp của nước ký kết được yêu cầu có thể áp dụng pháp luật của Nước ký kết yêu cầu, nếu pháp luật được áp dụng không trái với pháp luật của Nước ký kết được yêu cầu”.
Ngoài ra, vấn đề này còn được quy định trong các HĐTTTP giữa Việt Nam với các nước khác, ví dụ: Điều 8 HĐTTTP giữa Việt Nam với Trung Hoa; Khoản 1 Điều 6 HĐTTTP giữa Việt Nam với Mông Cổ….
Có thế thấy, với những quy định nêu trên Toà án Việt Nam sẽ chấp nhận thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp của Toà án nước ngoài nếu yêu cầu tương trợ tư pháp đó không trái với trật tự xã hội và không làm phương hại đến an ninh của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ hai, để thực hiện ủy thác, cơ quan được yêu cầu lập các giấy tờ tương ứng nói rõ thời gian, địa điểm thực hiện và gửi các giấy tờ đó cho cơ quan yêu cầu. Nếu việc ủy thác không thực hiện được thì khi gửi trả lại các giấy tờ, cơ quan được yêu cầu cần thông báo lý do không thực hiện được.
* Giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về dân sự có thể bao gồm:
- Văn bản của cơ quan có thẩm quyền yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự. Văn bản này thực chất là công văn hoặc công hàm yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu gửi tới nước nhận yêu cầu.
- Văn bản uỷ thác tư pháp về dân sự. Văn bản uỷ thác tư pháp về dân sự thực chất là những nội dung chính trong yêu cầu tương trợ của nước yêu cầu. Văn bản uỷ thác tư pháp về dân sự được quy định tại Điều 12 Luật Tương trợ tư pháp; tại Khoản 1 Điều 6 HĐTTTP giữa Việt Nam và Lào; tại Khoản 2 Điều 15 HĐTTTP giữa Việt Nam và Pháp; tại Khoản 1 Điều 7 HĐTTTP giữa Việt Nam và trung Hoa;….. Theo đó, văn bản ủy thác bao gồm các nội dung như: ngày, tháng, năm và địa điểm lập văn bản; tên, địa chỉ cơ quan uỷ thác tư pháp; tên, địa chỉ cơ quan được uỷ thác tư pháp; họ, tên, địa chỉ nơi thường trú hoặc nơi làm việc của cá nhân, tên đầy đủ, địa chỉ hoặc văn phòng chính của cơ quan, tổ chức có liên quan trực tiếp đến uỷ thác tư pháp; nội dung công việc được uỷ thác tư pháp về dân sự (trong phần nội dung công việc này, cơ quan yêu cầu uỷ thác phải nêu rõ mục đích uỷ thác, công việc và các tình tiết liên quan, trích dẫn điều luật có thể áp dụng, các biện pháp để thực hiện uỷ thác và thời hạn thực hiện uỷ thác).
- Quyết định của Toà án. Trong vụ việc dân sự, Quyết định của Toà án có thể là Quyết định ly hôn, Quyết định về truy nhận cha cho con, Quyết định về quyền nuôi con, Quyết định về việc phân chia tài sản, Quyết định về phân chia di sản trong thừa kế…
- Giấy triệu tập đến Toà án. Trong vụ việc dân sự, Giấy triệu tập có thể liên quan đến việc phân chia tài sản trong ly hôn, nuôi con, cấp dưỡng, thừa kế…
* Nếu việc ủy thác không thực hiện được thì khi gửi trả lại các giấy tờ, cơ quan được yêu cầu cần thông báo lý do không thực hiện được. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 15 của Luật tương trợ tư pháp thì “Trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ ủy thác tư pháp của cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu, Bộ Tư pháp vào sổ ủy thác tư pháp, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và chuyển cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện. Trường hợp hồ sơ không hợp lệ thì Bộ Tư pháp trả lại cho cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu và nêu rõ lý do”. Và Khoản 3 của Điều luật này cũng quy định: “Trường hợp ủy thác tư pháp không thực hiện được hoặc quá thời hạn mà nước ngoài yêu cầu hoặc cần bổ sung thông tin, tài liệu liên quan, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện ủy thác tư pháp phải thông báo bằng văn bản cho Bộ Tư pháp và nêu rõ lý do để Bộ Tư pháp thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu”.
Ngoài ra, cả pháp luật Việt Nam và các HĐTTTP đều ghi nhận việc thực hiện uỷ thác tư pháp do cơ quan có thẩm quyền trong nước yêu cầu thông qua đại sứ quán, lãnh sự quán của nước mình ở nước ngoài.
2. Khác nhau
Như đã đề cập ở trên, Luật Tương trợ tư pháp của Việt Nam không dành một điều luật quy định cụ thể về cách thức thực hiện UTTTQT như các Điều ước quốc tế song phương, mà Việt Nam quy định cách thức thực hiện ủy thác dựa trên cơ sở phân chia phạm vi uỷ thác tư pháp, thường bao gồm các loại vụ việc chính sau:
Thứ nhất, các uỷ thác tư pháp do Toà án nước ngoài yêu cầu Toà án Việt Nam thực hiện (Điều 15). Theo sự phân chia này, quy trình ủy thác sẽ được thực hiện như sau:
“1. Trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ ủy thác tư pháp của cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu, Bộ Tư pháp vào sổ ủy thác tư pháp, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và chuyển cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện. Trường hợp hồ sơ không hợp lệ thì Bộ Tư pháp trả lại cho cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu và nêu rõ lý do.
2. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thông báo kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, Bộ Tư pháp chuyển văn bản đó cho cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước yêu cầu là thành viên hoặc thông qua kênh ngoại giao.
3. Trường hợp ủy thác tư pháp không thực hiện được hoặc quá thời hạn mà nước ngoài yêu cầu hoặc cần bổ sung thông tin, tài liệu liên quan, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện ủy thác tư pháp phải thông báo bằng văn bản cho Bộ Tư pháp và nêu rõ lý do để Bộ Tư pháp thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu”.
Thứ hai, uỷ thác tư pháp do Toà án Việt Nam yêu cầu Toà án nước ngoài và Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài thực hiện. Theo quy định tại Điều 14 quy trình ủy thác sẽ được thực hiện như sau:
“1. Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự phải lập hồ sơ ủy thác theo quy định tại Điều 11 của Luật này và gửi cho Bộ Tư pháp.
2. Trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ ủy thác tư pháp về dân sự, Bộ Tư pháp vào sổ ủy thác tư pháp, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và chuyển cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước ngoài là thành viên hoặc thông qua kênh ngoại giao. Trường hợp hồ sơ không hợp lệ thì Bộ Tư pháp trả lại cho cơ quan đã lập hồ sơ và nêu rõ lý do.
3. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thông báo kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, Bộ Tư pháp chuyển văn bản đó cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã gửi hồ sơ ủy thác tư pháp về dân sự”.
Pháp luật Việt Nam không có quy định nào đề cập tới cách thức ủy thác sau:
Thứ nhất, Nếu không tìm thấy người cần tìm theo địa chỉ đã nêu trong văn bản ủy thác tư pháp thì cơ quan có thẩm quyền được yêu cầu áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết để xác minh địa chỉ của người đó.
Thứ hai, theo đề nghị của cơ quan yêu cầu, cơ quan được yêu cầu thông báo ngay cho cơ quan yêu cầu về thời gian, địa điểm thực hiện ủy thác.
Thứ ba, nếu cơ quan được yêu cầu không có thẩm quyền thực hiện ủy thác tư pháp thì cơ quan này chuyển ủy thác đó cho cơ quan có thẩm quyền theo thể thức đã quy định đối với các ủy thác tư pháp.
Trong khi đó, các HĐTTTP giữa Việt Nam với các nước lại dành một điều luật quy định về cách thức thực hiện ủy thác tư pháp. Quy định khá đầy đủ 5 nội dụng của cách thức thực hiện ủy thác tư pháp. Chẳng hạn như: Điều 7 HĐTTTP giữa Việt Nam và Lào; Điều 6 HĐTTTP giữa Việt Nam và Mông Cổ;….
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác tương trợ tư pháp quốc tế (trong đó có hoạt động ủy thác tư pháp quốc tế) là điều cần thiết nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước, cũng như khuyến khích các chủ thể của pháp luật tham gia ngày một nhiều vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại có yếu tố nước ngoài, với sự yên tâm, tin tưởng rằng các tranh chấp phát sinh giữa họ (nếu có) sẽ được giải quyết một cách ổn thoả, thông qua sự trợ giúp hữu hiệu của hoạt động tương trợ tư pháp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Tư pháp quốc tế, Trường Đại Học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2008;
Phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự, Hoàng Thu Hà, Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tư pháp;
Hiệp định Tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ngày 19/10/1998;
Hiệp định Tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Pháp ngày 24/02/1999;
Luật Tương trợ tư pháp được Quốc hội thông qua ngày 21/11/2007.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LỜI MỞ ĐẦU Song song với việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế trên mọi mặt của đời sống xã hội, các giao lưu dân sự, thương mại, lao động, hôn.doc