MỤC LỤC
A Mở đầu . 2
B Nội dung . 4
I Cơ sở lí luận . 4
1.1 Khái niệm . 4
1.2 Vị trí của nông nghiệp nông thôn trong nền kinh tế quốc dân . 5
1.3 Các đặc điểm lớn của kinh tế nông nghiệp nông thôn . 6
1.4 Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nước ta . 6
1.5 Các ngành nông nghiệp chủ yếu . 9
1.6 Những nội dung cơ bản thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn .
13
II Cơ sở thực tiến . 16
2.1 Thực trạng công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nồng thôn . 16
2.2 Những giải pháp chủ yếu thực hiện và phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn .
23
C Kết luận . 27
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1823 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực hiện và phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biến. Trình độ thâm canh cao, sản xuất lớn, đầu tư theo chiều sâu, sử dụng nhiều máy móc, vật tư nông nghiệp.
Đông Nam Bộ là vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất nước ta. Có cây công nghiệp dài ngày (cà phê, cao su) và cây công nghiệp ngắn ngày (đậu tương, mía…)
Đồng bằng sông Cửu Long.
Là đồng bằng châu thổ lớn nhất nước ta. Các dải phù sa ngọt rất màu mỡ, trong khi ấy lại có đất nhiễm phèn, nhiễm mặn cần được cải tạo. Mạng lưới thông vận tải thuận lợi, nhất là đường thủy. Đã hình thành hệ thống đô thị vừa và nhỏ cùng với các cơ sở công nghiệp chế biến.
Trình độ thâm canh tương đối cao, sản xuất trên quy mô lớn tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa. Tuy nhiên trong cơ cấu vẫn còn quá thiên về lúa gạo.
Về hướng chuyên môn hóa, tất nhiên, lúa chiếm ưu thế. Ngoài ra còn một số loại cây cong nghiệp ngắn ngày (mía, đay, cói..), cây ăn quả nhiệt đới (đặc biệt là xoài), chăn nuôi gia cầm (chú trọng vào con vịt).
Các ngành nông nghiệp chủ yếu
Ngành trồng trọt:
Ngành trồng cây lương thực và cây thực phẩm
Lương thực có ý nghĩa rất quan trọng đối với một quốc gia đông dân và càng quan trọng hơn khi quốc gia đó đang bước vào công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Nó còn là cơ sở phân công lao động trong nông nghiệp nói riêng và trong các ngành kinh tế nói chung.
Ở nước ta cây lương thực bao gồm một số cây hàng năm như: lúa, ngô, khoai, sắn. Ngoài cây lúa, các cây khác được gọi chung là hoa màu (hay mầu). Hiện nay nhóm cây lương thực chiếm ưu thế lớn về diện tích và giá trị sản xuất của ngành trồng trọt. Trong nhóm cây lương thực, lúa luôn giữ vị trí hàng đầu. Đối với nhân dân ta, cây lúa đã đi vào cuộc sống thường nhật từ hàng ngàn đời nay. Gạo trở thành một trong ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực (cùng với hàng dệt may và dầu thô) và Việt Nam được xếp vào những nước hàng đầu về vấn đề này. Cùng với lúa gạo, hoa màu lương thực có ý nghĩa trong việc cung cấp một phần lương thực cho con người, là cơ sở thức ăn cho gia súc cũng như nguyên liệu ở mức độ nhất định, và cho cả công nghiệp chế biến. Trong các cây hoa màu lương thực, ngô được đáng chú ý hơn cả, khoai lang là cây màu trồng luân canh với lúa vào vụ đông xuân trên đất pha cát, trong khi diện tích trồng sắn giảm mạnh.
Rau nhiệt đới phổ biến trên phạm vi cả nước, các loại rau cận nhiệt và ôn đới phân bố ở các vùng núi và cao nguyên. Các vùng trồng cây thực phẩm đã, và đang được hình thành và phát triển đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nội địa, nhất là các loại rau sạch.
Ngành trồng cây công nghiệp.
Cây công nghiệp còn được gọi là cây kỹ thuật để chỉ mục đích và tính chất nhằm cung cấp nguyên liệu cho chế biến nông sản
Ở nước ta cây công nghiệp được chia làm hai nhóm:
- Nhóm cây hàng năm, hay cây ngắn ngày. Có chu kì từ lúc gieo trồng đến khi thu hoạch dưới 1 năm như: đay, cói, bông. Lạc, mía, thuốc lá, đậu tương…
- Nhóm cây lâu năm, gọi chung là cây dài ngày. Có chu kì kinh doanh dài, trồng 1 lần nhưng thu hoạch (nhựa, lá, quả) nhiều năm như: cao su, che, cà phê, ca cao, hồi, quế…Từ đây lại chia làm hai phân kì: phân kì kiến thiết cơ bản ( từ lúc trồng cho tới lúc cho sản phẩm) và phân kì kinh doanh (từ khi cho sản phẩm trở đi) cây ăn quả cũng được xếp vào nhóm này.
Ngành trồng cây ăn quả.
Trồng cây ăn quả là một ngành được phát triển từ lâu, nhưng trước đây quy mô còn rất hạn chế. Nước ta có nhiều điều kiện và tiềm năng để phát triển các loại cây ăn quả,tuy nhiên sự phát triển của ngành vẫn còn chậm và thiếu ổn định.
Ngành chăn nuôi
Chăn nuôi gia súc lớn.
Là phân ngành quan trọng nhất trong chăn nuôi nói chung. Các gia súc lớn được nuôi là: trâu, bò, ngựa, có cả thuần dưỡng voi. Trong đó, chăn nuôi trâu bò có vị trị hàng đầu. Sức kéo của các gia súc lớn (trâu, bò, ngựa) đã, đang và vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng đối với nông nghiệp. Bò là vật nuôi không chỉ cho sức kéo mà cũng cung cấp cho ta nguồn thịt, sữa chất lượng phục vụ cho nhu cầu của người dân. Ngựa được nuôi nhiều ở miền núi để lấy sức kéo phục vụ cho sản xuất cũng như trong việc vận chuyển người và hàng hóa.
Chăn nuôi gia súc nhỏ
Gia súc nhỏ bao gồm: lợn, dê, cừu..trong đó lợn được quan tâm đầu tư chăn nuôi hơn cả.trong đó chăn nuôi lợn lấy thịt là ngành quan trọng nhất. ngoài việc lấy thịt ra, thì ngành chăn nuôi lợn còn giúp chúng ta tận dụng được nguồn lao động cho các ngành phụ trợ, tăng thu nhập cho nông dân và giải quyết 1 phần hưu cơ cho nông nghiệp. Dê, cừu là tiểu gia súc được nuôi ở những vùng có điều kiện thuận lợi. Dê mắn đẻ, dễ tăng đàn, chất lượng thịt sữa ngon, ít tốn thức ăn, nuôi chăn thả và có hiệu quả kinh tế cao. Cưu được nuôi để lấy lông làm chủ yếu, nhưng ở nước ta, cừu nuôi có tính chất thử nghiệm nên hiệu quả mà ta đạt được còn thấp.
Chăn nuôi gia cầm.
Gia cầm gồm có: gà, vịt,ngan, ngỗng….Việc nuôi gia cầm 1 mặt tận dụng được nguồn lao động phụ, phế liệu của ngành trồng trọt nên đem lại hiệu quả kinh tế cao. Gà chủ yếu được nuôi trong gia đình cả ở đồng bằng, trung du, và miền núi. Nuôi gà trong các xí nghiệp chăn nuôi lớn, theo phương pháp công nghiệp để lấy thịt, trứng nên cũng đạt hiệu quả cao. Vịt tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long, ngan và ngỗng thì được nuôi chủ yếu ở các vùng tương đối cao thuộc đồng bằng sông Hồng và duyên hải miền Trung.
Ngành lâm nghiệp.
Rừng là nguồn cung cấp gỗ và lâm sản cho nhu cầu của đời sống và sản xuất. Đối với các vùng nùi lâm nghiệp còn là nguồn sống chủ yếu của đồng bào dân tộc ít người. ngoài ra các mặt hàng lâm sản còn có giá trị sư dụng xuất khấu.
Nguồn tài nguyên rừng có sự biến động rất mạnh về số lượng theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Có 7 kiểu rừng chủ yếu đó là: rừng lá rộng thường xanh và nửa rụng lá là loại rừng bị giảm diện tích nhanh nhất; rừng rụng lá có xu hướng tăng; rừng lá kim giảm và rừng ngập mặn giảm mạnh; rừng chua phèn và rừng tre nứa có xu hướng giảm; rừng hỗn giao giữa gỗ và tre nứa tăng; rừng đặc sản giảm mạnh.
Tuy nhiên rừng trồng có xu hướng ngày càng tăng lên rõ rệt. Số rừng này phong phú về chủng loại cây, đa dạng về mục đích. Thực hiện quá trình tăng diện tích rừng trồng gắn liền với những chính sách khuyến lâm của chính phủ tương đối hiệu quả, đặc biệt la giao đất, giao rừng cho các hộ nông dân.
Việc khai thác, chế biến gỗ và lâm sản nhìn chung phát triển không ổn định. Cơ cấu rừng kinh doanh của nước ta bao gồm: rừng gỗ phục vụ cho xây dựng cơ bản, rừng nguyên liệu giấy, rừng gỗ trụ mỏ, rừng tre nứa cho nhu cầu xây dựng, rừng đặc sản ( thông nhựa, quế hồi, cánh kiến..), rừng gỗ gia dụng và lấy củi.
Ngành ngư nghiệp.
Cùng với các ngành kinh tế khác, ngư nghiệp có vai trò nhất định trong nền kinh tế quốc dân nói chung và đời sống hàng ngày của nhân dân nói riêng. Tầm quan trọng của nó được thể hiện ở việc tham gia vào cơ cấu bữa an với thực phẩm có chất lượng cao về dinh dưỡng. đóng góp vào nền kinh tế, tạo ra mặt hàng xuất khẩu và góp phần giải quyết việc làm cho 1 bộ phận lao động của xã hội
Đánh bắt hải sản
Việc đánh bắt hải sản hiện nay tập trung vào các ngư trường thuộc các vùng biến vịnh Bắc Bộ, Trung Bộ, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ. Vịnh Bắc Bộ là vùng biển có nguồn lợi hải sản phong phú và thuận lợi cho việc đánh bắt. Độ sâu trung bình là 50m, tập trung nhiều đảo trong đó có Đảo Cát Bà và Bạch Long Vĩ với tư cách như 2 trung tâm khai thác chính. Vùng biển ở Trung Bộ có thềm lục địa hẹp nên hầu như việc khai thác chủ yếu tập trung ở ven biển. So với các vùng khác thì tiềm năng ở đây hạn chế hơn. Vùng biển ở Đông Nam Bộ giàu tiềm năng nhất với phần lớn diện tích có độ sâu dưới 60m. Vùng biển ở Tây Nam Bộ có độ sâu trung bình là 50m, thềm lục địa tương đối rộng.
Nuôi trồng thủy sản
Nghề nuôi tròng thủy sản liên quan chặt chẽ với diện tích mặt nước. Diện tích nuôi trồng thủy sản chủ yếu tập trung ở Đồng bằng Sông Cửu Long, tiếp theo là đồng bằng sông Hồng. Ở các vùng còn lại, diện tích không đáng kể.
Thủy sản nuôi trồng bao gồm: cá, tôm, nhuyễn thể, rong biển ở các vùng nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Cá là loài thủy sản được nuôi đại trà có sản lượng lớn nhất.
Những nội dung cơ bản thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Một là, chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp và chế biến thị trường, phát triển mạnh chăn nuôi với tốc độ và chất lượng cao hơn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với chuyển giao công nghệ sản xuất, bảo quản và chế biến; khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, lạc hậu. Thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, nâng cao chất lượng cùng sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng địa phương.
Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp
Sớm khắc phục tình trạng manh mún về đất canh tác, của các hộ nông dân, khuyến khích việc “ dồn điền đổi thửa”, cho thuê, góp cổ phần bằng đất, phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm có chất lượng và hiệu quả kinh tế cao.
Hai là, thực hiện tốt chương trình bảo vệ và phát triển rừng, đổi mối chính sách giao đất, giao rừng, bảo đảm lợi ích cho người dân làm nghề rừng có cuộc sống ổn định và được cải thiện. phát triển rừng nguyên liệu gắn với công nghệ chế biến lâm sản với công nghệ hiện đại.
Ba là, phát triển đồng bộ và có hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Coi trọng khâu sản xuất và cung cấp giống tốt, bảo vệ môi trường, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu.
Bốn là, tăng cường các hoạt động khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư, công tác thú y, bảo vệ thực vật và các dịch vụ kỹ thuật khác ở nông thôn.
Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp; chú trọng các khâu giống, kĩ thuật canh tác, nuôi trồng, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến.
Tăng đầu tư từ ngăn cản nhà nước, và đa dạng hóa các nguồn vốn để tiếp tục đầu tư phát triển mạnh hơn cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn ưu tiên nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống thủy lợi đồng bộ, đi đôi với đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lí để đảm bảo an toàn về nước. Củng cố hệ thống hồ đập, kè ven sông, ven biển; nâng cấp các hệ thống cảnh báo, chủ động phòng chống lũ lụt và giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường nước. Tiếp tục đầu tư phát triển giao thông nông thôn, bảo đảm các xã đều có đường ôtô tới thôn bản; bảo đảm hơn 90% số dân cư nông thôn có điện sinh hoạt, hơn 75% số dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch.
Rà soát bổ sung, điều chỉnh chính sách về đất đai, thuế, tín dụng, đầu tư… nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện việc hình thành các khu và cụm công nghiệp, cụm làng nghề ở nông thôn để thu hút các cơ sở sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ sử dụng nhiều lao động và nguồn nguyên liệu từ nông - lâm - thủy sản.
Năm là, khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông nghiệp, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.
Xây dựng các làng xã, ấp, thôn, bản có cuộc sống no đủ môi trường lành mạnh. Tiếp tục đầu tư nhiều hơn cho chương trình xóa đói giảm nghèo, trợ giúp thiết thực cho các vùng và cộng đồng dân cư còn nhiều khó khăn, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển hệ thống khuyến nông, nâng cao dân trí và có chính sách tín dụng cho người nghèo từng bước vượt qua khó khăn, thoát nghèo và nâng mức sống 1 cách bền vững.
Hình thành các khu dân cư đô thị hóa với kết cấu hạ tầng, kinh tế xã hội đồng bộ như: thủy lợi, giao thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ..
Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với việc xât dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan; đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Sáu là, chú trọng giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các vùng sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao thông, các khu đô thị mới.
Chuyến dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỉ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ.
Đầu tư mạnh hơn để hoàn thành cơ bản chương trình kiên cố trường học, thực hiện chăm sóc sức khỏe cộng đồng tốt hơn; thực hiện ngày càng có nề nếp và chất lượng về quy chế dân chủ ở nông thôn; đẩy mạnh phong trào xây dựng làng xã văn hóa cơ sở giữ gìn và phát triển truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1 Thực trạng công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
a/ Những thành tựu đạt được
Khu vực nông nghiệp nông thôn chiếm 90% diện tích tự nhiên và 73,03 % dân số cả nước. Đến năm 2005 dân số nông thôn là 60,7 triệu dân. Nông thôn là nơi sản xuất lương thực, là nơi cung cấp các nguồn nguyên liệu từ nông – lâm – ngư nghiệp cho các ngành công nghiệp chế biến. Khu vực nông nghiệp nông thôn thu hút tới 2/3 lực lượng lao động xã hội và là nguồn lao động thu nhập chủ yếu của 70,03% dân nông thôn sinh sống, đang và sẽ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Sau những năm đổi mới, chúng ta đã thu được một số kết quả nổi bật, làm tiền đề cho công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Kinh tế của khu vực nông thôn có sự tăng trưởng và đóng góp ngày một lớn hơn cho nền kinh tế cả nước. Nông nghiệp đã đạt được mức độ tăng trưởng GDP ở mức khoảng 5- 6%/ năm (thời kì 1996-2000 đạt 6,1% năm, thời kì 2001-2005 khoảng 6% năm). Giá trị sản lượng toàn ngành nông - lâm – ngư nghiệp tăng 5,6% năm, trong đó nông nghiệp tăng 5,4% năm (chỉ tiêu đại hội Đang toàn quốc lần thứ IX đề ra là 4,8% năm); cây công nghiệp tăng 10%; lương thực tăng 4,2- 4,3%, chăn nuôi tăng 5,4%; thủy sản tăng 9,1%; lâm nghiệp tăng 2,1%. Tính đến năm 2003, vùng nông thôn đóng góp khoảng 30% GDP cả nước, 84% giá trị gia tăng nông nghiệp, 16% giá trị tăng công nghiệp, 13% giá trị gia tăng dịch vụ cả nước. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2004 đạt gần 7 tỷ USD, tăng 1,5 lần so với năm 2000, trong đó nông lâm sản tăng gần 1,5 lần, thủy sản tăng 1,6 lần. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu đạt sản lượng và giá trị lớn như: gạo, cà phê, cao su, hạt điều. Đặc biệt, xuất khẩu đồ gỗ gia dụng và lâm sản tăng mạnh, đạt hơn 1,2 tỉ USD tăng gấp 3,3 lần so với năm 2000.
Ngành kinh tế của khu vực nông thôn nổi bật nhất là nông nghiệp đã có những thay đổi theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Trong nông nghiệp, sản lượng lương thực không ngừng tăng, bình quân mỗi năm tăng 1,1 triệu tấn. Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có những bước chuyển dịch tích cực theo hướng đẩy mạnh sản xuất các loại nông sản hàng hóa có nhu cầu thị trường và có giá trị kinh tế cao. Tiếp tục đảm bảo tốt an ninh lương thực quốc gia, tuy diện tích trồng lúa giảm (khoảng hơn 300 nghìn ha) để chuyển sang nuôi trồng thủy sản và các cây trồng khác có giá trị cao hơn, nhưng sản lượng lương thực vẫn tăng từ 34,5 triệu tấn (năm 2000) lên 39,12 triệu tấn (năm 2004). Trong đó sản lượng lúa tăng 32,5 lên 35,8 triệu tấn. Năm 2005, sản lượng lương thực đạt 37,5 triệu tấn. Sản lượng lương thực bình quân đầu người tăng từ 284,9 kg(năm 1990) lên 463 kg (năm 2005). Chúng ta đã có đủ lương thực chi dùng trong nước, có dự trữ và trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Hàng năm vẫn xuất khẩu khoảng 3,5- 4 triệu tấn gạo. Năm 2003, xuất khẩu 3,8 triệu tấn gạo, năm 2005 xuất khẩu 4 triệu tấn gạo.
Hình thành nhiều vùng sản xuất nông lâm nghiệp thủy sản hàng hóa quy mô lớn và tham gia xuất khẩu cả ở khu vực đồng bằng và trung du, miền núi cũng như các vùng sản xuất lương thực tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng, các vùng nuôi trồng thủy sản ven biển, các trung tâm dịch vụ nghề cá ở các vùng đồng bằng ven biển, các vùng cây công nghiệp hàng hóa xuất khẩu cà phê, cao su, điều, dâu tơ tằm ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và chè, quế, hồi..ở trung du miền núi phía Bắc. Vùng cây ăn quả trước đây mới được hình thành ở đồng bằng ven biển và đồng bằng sông Cửu Long nay đã phát triển ở các vùng trung du miền núi.
Sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả có sự điều chỉnh mạnh mẽ theo nhu cầu thị trường để xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu, hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp bảo quản, chế biến. Diện tích và sản lượng cây công nghiệp tăng nhanh so với năm 2000, cao su diện tích tăng 9,5%, sản lượng tăng 367,6%; hồ tiêu diện tích tăng 83,2%, sản lượng tăng 87,8%; hạt điều diện tích tăng 44,3%, sản lượng tăng 205,3%; chè diện tích tăng 35,3%, sản lượng tăng 54,9%; diện tích cây ăn quả tăng gần 1,4 lần; bông vải diện tích tăng 42,5%, sản lượng tăng gần 57,4%; đậu tương diện tích tăng 47,1%,sản lượng tăng 62,2%. Các loại cây công nghiệp có lợi thế xuất khẩu hầu hết đều tăng về diện tích, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu.
Chăn nuôi tăng bình quân 10% năm; tỷ trọng giá trị chăn nuôi trong những nông nghiệp tăng từ 19,3% lên 21,6%. Đàn bò, nhất là bò sữa tăng nhanh, đạt 95 nghìn con, sản lượng sữa tươi tăng 3 lần. Sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng 2 lần., sản lượng khai thác tăng 1,2 lần.
Công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản và ngành nghề nông thôn, giá trị sản xuất công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản tăng trưởng bình quân 12-14% năm. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và các ngành nghề nông thôn tăng bình quân 15% năm. Hiện cả nước có 2971 làng nghề, khoảng 1,35 triệu cơ sở ngành nghề nông thôn, với khoảng 1,4 triệu hộ, thu hút hơn 10 triệu lao động (trong đó có khoảng 1,5 năm triệu người làm hàng mỹ nghệ)
Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Năm 2004 trong tổng GDp của cả nước, tỷ trọng nông lâm nghiệp và thủy sản đã giảm từ 24,53% xuống còn 21,76%; lao động nông nghiệp giảm từ 59,04% xuống còn 57,9%, lao động công nghiệp, tiều thủ công nghiệp chiếm khoảng 17%, dịch vụ chiếm 25,1%. Năm 2003, hộ thuần nông đã giảm còn 68,8%, hộ kiêm nghề tăng lên, chiếm 12,7 % và phi nông nghiệp chiếm 18,4%. Nguồn thu của các hộ nông dân từ nông lâm ngư nghiệp chiếm 77,5%; công nghiệp, xây dựng và dịch vị nông thôn đã tăng lên, chiếm 22,5% tổng thu.
Trình độ khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản từng bước được nâng cao theo hướng sử dụng giống mới, công nghệ sinh học, phương thức canh tác tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng nông sản thủy sản. Đến nay, có hơn 90% diện tích trồng lúa, 80% diện tích trồng ngô, 60% diện tích mía, 100% diện tích trồng điều được sử dụng giống mới. Công nghệ sử dụng mô hom được đưa nhanh vào sản xuất giống cây rừng, nên năng suất chất lượng rừng được cải thiện. Ngành thủy sản đã sản xuất và đưa vào sản xuất một số loại thủy sản có giá trị kinh tế cao. Nhiều khâu trong sản xuất nông nghiệp được cơ giới hóa như: tưới nước, tuốt lúa, xay xát đạt hơn 80%, vận chuyển làm đất đạt hơn 60%. Trong ngành thủy sản, tổng công suất tàu thuyền đánh bắt đạt hơn 4 triệu sức ngựa, một số cơ sở nuôi trồng thủy sản được trang bị các thiết bị máy móc bảo đảm công nghệ nuôi trồng thủy sản tiên tiến.
Doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh, năm 2004 có 15600 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động trên địa bàn nông thôn, bình quân 1 doanh nhân thu hút khoảng 20 lao động, đang là nhân tố quan trọng trong phát triển nông thôn.
Nông thôn có những bước phát triển khá nhanh. Nhiều công trình thủy lợi đã hoàn thành và đưa vào hoạt động. góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất, thâm canh tăng năng suất cây trồng đã đảm bỏa tưới cho 90% diện tích trồng lúa, hàng vạn ha hoa màu, cây công nghiệp và cây ăn quả. Hệ thống đê điều được củng cố. Đến nay đã có 98% số xã có đường ôtô tới khu trung tâm, hơn 90% số xã có điện, gần 88% số hộ nông dân được sử dụng điện. Số thuê bao điện thoại ở nông thôn tăng nhanh đạt 4 máy/ 100 dân (cả nước là 12,56 máy/ 100 dân); 58% số dân nông thôn được sử dụng nước sach, xây mới 501 chợ, góp phần giảm bớt khó khăn về tiêu thụ nông sản cho nông dân.
Quan hệ sản xuất ở nông thôn có biến đổi vể chất, tạo điều kiện giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất ở nông thôn. Các hợp tác xã cũ được tổ chức lại theo luật hợp tác xã mới. Nông lâm trường quốc doanh có nhiều cải tiến mạnh mẽ theo hình thức khoán vườn cây, đoàn gia súc cho công nhân bước đầu có hiệu quả. Thành lập mới 524 hợp tác xã nông nghiệp, chủ yếu hoạt động theo hướng dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm, hiện có hơn 10 nghìn hợp tác xã nông thôn (9255 hợp tác xã nông nghiệp, hơn 500 hợp tác xã thủy sản, 800 qũy tín dụng nhân dân..) và hàng trăm nghìn tổ kinh tế hợp tác. So với năm 2000, số hợp tác xã hoạt động có lãi tăng từ 32% lên 35%, số hợp tác xã yếu kém giảm từ 22% xuống còn 10%. Hiện nay cả nước ta có tới 11,5 vạn trang trại chủ yếu ở trung du miền núi. Đây là mô hình sản xuất mới theo hướng sản xuất hàng hóa, có nhiều triển vọng. Đời sống của đại bộ phận nông dân được cải thiện. Số hộ nông dân có nhà ở kiên cố, có tivi, radio, xe đạp, xe máy,quạt điện…tăng lên nhiều. Số hộ nghèo giảm ( khoảng 2-3% năm). Đến năm 2003, thu nhập bình quân của nông dân tăng khoảng 2 lần so với năm 1995.
Công tác xóa đói giảm nghèo: tỷ lệ hộ đói nghèo ở nông thôn giảm từ 19% năm 2000, xuống còn 11% năm 2004. Điều kiện về nhà ở,đi lại, học tập, chữa bệnh được cải thiện tốt hơn. Nhiều làng xã trở thành làng văn hóa, có kinh tế phát triển, đảm bảo môi trường sinh thái, văn hóa truyền thống mang đậm đà bản sắc dân tộc, trình độ dân trí được nâng cao.
b/ Những hạn chế và thách thức của vùng nông thôn trong quá trình thực hiện Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa.
Diện tích đất canh tác ít, nhất là đất nông nghiệp: nếu tính cho 1 nhân khẩu nông nghiệp thì chỉ đạt mức 0,16 ha, thấp hơn nhiều so với trung bình thế giới (0,59 ha/ người) và mức trung bình châu Á (0,26 ha/người). Tình trạng không có đất nông nghiệp phát triển tồn tại hầu như ở tất cả các vùng, chẳng hạn ở đồng bằng sông Hồng năm 1993 có 3,2% số hộ nông dân không có đất canh tác thì đến 2002, con số đó là 19%. Sản xuất kinh tế hộ gia đình là chủ yếu, trong đó chủ yếu là quy mô nhỏ, sản xuất nhỏ lẻ phân tán, rất hạn chế việc thu mua hàng hóa. Đây là một khó khăn và thách thức lớn trên con đường phát triển nông nghiệp nông thôn đi tới công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm: nông nghiệp chiếm tới 70%, trong đó ngành trồng trọt chiếm tới trên 70% trong cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp và dịch vụ nông thôn chưa phát triển. Phần lớn nông phẩm bán ra thị trường dưới dạng thô hoặc sơ chế, giá trị sản phẩm thấp nên người nông dân bị thua thiệt.
Trình độ khoa học công nghệ kĩ thuật trong nông lâm ngư nghiệp còn thấp và rất thiếu thông tin thị trường (chỉ khoảng 25% số nông dân được tiếp cận thông tin qua báo chí và hội chợ). Việc ứng dụng khoa học công nghệ chưa được nhiều. Năng suất cây trồng, vật nuôi nói chung còn thấp, chỉ bằng khoảng 30 -35% so với các nước tiên tiến. Công nghệ kĩ thuật, đăc biệt là công nghệ chế biến còn sử dụng nhiều thiết bị cũ, lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng, giá thành sản phẩm cao, chất lượng sản phẩm còn thấp. Tỷ lệ cơ giới hóa khâu làm đẩt mới chỉ đạt khoảng 30% diện tích gieo trồng. Công nghệ bảo quản sau thu hoạch, công nghệ chế biến và ngành nghề kém phát triển. Đến nay công nghiệp mới chế biến được 60% sản lượng chè, 30% sản lượng mía, 1% sản lượng thịt. Tỷ lệ hao hụt sau thu hoạch lúa khoảng 13%, của rau quả trung bình khoảng 20%. Hầu hết các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp còn được xuất khẩu dưới dạng thô, chưa qua chế biến hoặc chế biến đơn giản.
Thị trường tiêu thụ hàng hóa nông sản gặp nhiều khó khăn, khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông sản kém. Ví dụ: giá gạo của ta thường thấp hơn giá gạo của Thái Lan từ 40 – 85 USD/ tấn.
Lao động nông nghiệp dư thừa nhiều: hiện có khoảng 7-8 triệu lao động nông nghiệp hiện không có việc làm (xét theo nghĩa thất nghiệp tương đối) tập trung ở nông thôn các đồng bằng, lao động ở nông thôn, tính bình quân chỉ sử dụng 70% quỹ thời gian.
Kết cấu cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống một số vùng còn yếu kém. Đến nay vẫn còn 600 xã chưa có đường ôtô tới trung tâm, 50% đường cấp xã và 30% đường cấp huyện ô tô không thể đi lại được vào mùa mưa.
Còn nhiều tiềm năng đất đai, lao động tài nguyên rừng, biển chưa khai thác. Đây là một yếu kém và cũng là một cơ hội để phát huy cho giai đoạn sắp tới. Hiện nay còn khoảng trên 400 nông trường quốc doanh quản lý trên 800 nghìn ha, khoảng 400 lâm trường quản lý 4,7 triệu ha đất với khoảng 300 nghìn lao động. Nhưng hoạt động của các nông, lâm trường lại chưa hiệu quả, không tương xứng với tiềm năng đất đai, lao động, vốn và công nghệ đã đầu tư. Tuy nhiên những tiềm năng lớn này nếu biết quản lý tốt và có những chính sách phù hợp thì chính là điều kiện phát huy nhanh trong giai đoạn tới.
Việc sắp xếp đổi mới doanh nghiệp và phát triển các thành phần kinh tế còn chậm. Hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Doanh nghiệp tư nhân là nhân tố quan trọng phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tê, cơ cấu lao động ở nông thô
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.DOC