MỤC LỤC
trang
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
1. Định nghĩa nguồn nguy hiểm cao độ và trách nhiêm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 3
1.1 Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ 4
1.2 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 4
1.3 Đặc điểm của bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 5
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 5
2.1 Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ 5
2.2 Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho “người xung quanh” 6
2.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra. 7
2.4 Điều kiện lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. 7
3. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.9
3.1 Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ 9
3.2. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng, do lỗi cố ý của người bị thiệt hại 11
3.3 Bồi thường thiệt hại trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật 13
II. Thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
1. Vụ việc thứ nhất 14
2. Vụ việc thứ hai 16
III. Một vài ý kiến nhằm bổ sung và khắc phục những điểm còn thiếu sót trong quy định của pháp luật về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 17 – 20
C. KẾT THÚC
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2587 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những trường hợp BTTH ngoài hợp đồng, do đó ngoài những đặc điểm chung thì BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ cũng có những đặc điểm riêng.
+ Thứ nhất, BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trường hợp BTTH do tài sản gây ra. Tức là thiệt hại xảy ra có nguyên nhân chính được xuất phát từ tài sản mà không phải là hành vi của con người.
+ Thứ hai, BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải là trường hợp người bồi thường phải bồi thường cho người bị thiệt hại ngay cả khi mình không có lỗi. Đây là điểm khác biệt rất cơ bản với bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
2.1 Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ
Pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mọi chủ thể trong xã hội và các quan hệ pháp luật. Việc gây thiệt hại trái pháp luật là những thiệt hại do sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, pháp luật không cho phép. Những thiệt hại về quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể trong xã hội do chính sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ.Thiệt hại phải do chính sự tác động của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm gây ra. Việc xác định thiệt hại là do “tác động của người” hay “tác động của vật” có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Những trường hợp thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhưng do “tác động của con người”, do hành vi của con người gây ra thì chỉ cần áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trường hợp thiệt hại xảy ra do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ, hoàn toàn độc lập và nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát của con người thì sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra như: xe ô tô đang chạy với tốc độ cao đột nhiên mất phanh, mất lái hoặc nổ lốp gây ra thiệt hại; cháy, chập đường dây tải điện; cháy nổ trong nhà máy do trục trặc kỹ thuật…
Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ phải có tính trái pháp luật. Hoạt động của xe cần trục, xe ủi… khi phá dỡ các công trình xây dựng trái phép không thể coi là trái pháp luật. Có nhiều trường hợp do đặc tính của nguồn nguy hiểm cao độ mà việc gây thiệt hại của những phương tiện này không bị coi là trái pháp luật. Ví dụ, để bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, những thiệt hại trên đường sắt do tàu hỏa gây ra cho các chủ thể khác không bị coi là trái pháp luật và ngành đường sắt không có trách nhiệm bồi thường.
Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng loại trừ các trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết (Theo Điều 623 Bộ luật dân sự). Nói tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là trách nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ chứ không phải thiệt hại do hành vi của con người.
2.2 Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho “người xung quanh”.
Nguồn nguy hiểm cao độ do tính chất nguy hiểm của nó có thể gây thiệt hại cho bất kỳ ai: chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành, những người không có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ… Có những chủ thể do mối quan hệ sở hữu, lao động mà họ trực tiếp tiếp xúc với nguồn nguy hiểm cao độ. Đối với chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đối với người bị thiệt hại trong khi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động, họ sẽ được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh”- là những người khi xảy ra thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này.
Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ có thể là những thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm – là những thiệt hại chỉ có thể phát sinh do hành vi của con người nên không thuộc phạm vi tác động của nguồn nguy hiểm cao độ.
2.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra.
Hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân tất yếu, nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại và thiệt hại xảy ra là kết quả của hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ. Mối quan hệ nhân quả này chính là cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ.
2.4 Điều kiện lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Khi có việc gây thiệt hại, người bị thiệt hại được bảo đảm bồi thường ngay cả trong trường hợp người gây thiệt hại không có lỗi. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những trường hợp đặc biệt, theo đó, trách nhiệm bồi thường phát sinh khi không cần xem xét đến điều kiện lỗi. Khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗ, trừ các trường hợp sau đây.
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Nếu như các trường hợp bồi thường thiệt hại thông thường dựa trên sự suy đoán lỗi thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra dựa trên sự suy đoán trách nhiệm đối với người có nghĩa vụ quản lý nguồn nguy hiểm cao độ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng khi hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ nằm ngoài khả năng kiểm soát, điều khiển của người chiếm hữu, vận hành và là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của con người trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này mà sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không loại trừ khả năng thiệt hại cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ nhưng hành vi của người trông giữ, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ không phải nguyên nhân có tính quyết định đến thiệt hại. Chủ sở hữu, người đang chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ không được miễn trừ trách nhiệm bồi thường kể cả trong trường hợp họ chứng minh được mình không có lỗi trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ.
Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều khiển, tuy nhiên lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại (như trước khi xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa thay do chủ quan nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt…). Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi, do hành vi của người điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này.
3. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Căn cứ vào khoản 2, 3, 4 Điều 623 Bộ luật dân sự 2005 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có thể được áp dụng với các chủ thể sau:
- Chủ sở hữu;
- Người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ;
- Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ.
Việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể. Điều 165 Bộ luật dân sự quy định nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu, theo đó “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Khi có thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trước tiên người ta nghĩ đến nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc tôn trọng và bảo vệ lợi ích chung, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, vì vậy, trách nhiệm bồi thường trước hết được đặt ra cho chủ sở hữu, trừ trường hợp chủ sở hữu chứng minh được trách nhiệm thuộc về người khác. Chúng ta có thể xem xét các trường hợp sau:
3.1 Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
Đoạn 2 khoản 1 Điều 623 BLDS 2005 đưa ra quy định: “ Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.”
Trong trường hợp chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe cho người khác, dù có lỗi của chủ sở hữu trong việc sử dụng, quản lý, trông coi nguồn nguy hiểm cao độ hay không thì căn cứ khoản 2 Điều 623 BLDS 2005 cũng như khoản a Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chủ sở hữu hợp pháp của nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại.
Nếu chủ sở hữu đã chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao cho người khác theo ý chí của mình theo các giao dịch dân sự như cho thuê, cho mượn hoặc chuyển giao theo nghĩa vụ lao động… thì theo quy định tại khoản 2 Điều 623 BLDS 2005 và được cụ thể hóa trong khoản b Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, những người được chuyển giao quyền phải chịu trách nhiệm bồi thường khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, trừ khi có thỏa thuận khác.
Tuy nhiên, có thể thấy, trong một số trường hợp chủ sở hữu chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác nhưng trên thực tế, chủ sở hữu vẫn có quyền kiểm soát về mặt pháp lý (chiếm hữu pháp lý) đối với tài sản. Khi đó, mặc dù không trực tiếp khai thác công dụng của tài sản nhưng đó cũng là một hình thức chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản, cụ thể là khai thác lợi ích kinh tế từ tài sản. Do đó, trường hợp nguồn nguy hiểm đã được chủ sở hữu giao cho người khác thì cần “ phải xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại “theo tinh thần tại khoản đ Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Ví dụ : Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ theo hợp đồng lao động thì trong trường hợp này, người được chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ là những người làm công, ăn lương, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ để thực hiện nghĩa vụ lao động. Nếu thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đang trong thời gian thực hiện nghĩa vụ lao động thì chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường khi có thiệt hại xảy ra. Còn nếu, người làm công đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà gây tai nạn nhưng không nằm trong thời gian thực hiện nghĩa vụ lao động thì người làm công phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 623 BLDS 2005.
Nếu chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đã chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác nhưng sự chuyển giao này không tuân theo đúng các quy định của pháp luật và chủ yếu thường thông qua các giao dịch dân sự như cho thuê, cho mượn... thì khi có thiệt hại xảy ra trên thực tế do hoạt động nội tại của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ thì căn cứ khoản b Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thì chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ sẽ là người phải chịu trách nhiệm bồi thường.. Ví dụ: chủ sở hữu xe máy biết người thuê xe của mình chưa có giấy phép lái xe nhưng vẫn cho thuê và trong quá trình bên thuê sử dụng xe máy đã mất phanh gây ra thiệt hại. Trong trường hợp này, chủ sở hữu chiếc xe máy ( bên cho thuê ) sẽ phải bồi thường thiệt hại
3.2. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng, do lỗi cố ý của người bị thiệt hại :
Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả khi không có lỗi. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường của các chủ thể này sẽ không được đặt ra trong một số trường hợp như: tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.
“ Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không con cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn cần ngăn ngừa.” Để bảo vệ một lợi ích khác lớn hơn, để tránh những thiệt hại lớn hơn có thể xảy ra, pháp luật dân sự Việt Nam tại khoản 3 Điều 623 quy định thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp thiết thì không phải bồi thường.
Sự kiện bất khả kháng là những sự kiện phát sinh bất ngờ, đột xuất, nằm ngoài ý thức, sự kiểm soát và lường trước của con người nói chung và của chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền sở hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nói riêng. Trong tình huống bất khả kháng, con người chỉ có thể lựa chọn cách một cách xử lí nhất định nhằm giải quyết, khắc phục tương đối ổn thỏa nhất sự kiện đó. Đồng thời, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng nằm ngoài tầm kiểm soát của con người, do đó để đảm bảo quyền lợi cho chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, khoản 3 Điều 623 BLDS 2005 quy định trường hợp này những chủ thể này không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Tuy nhiên, theo khoản c Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, đối với trường hợp thiệt hại xảy ra trong tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng mà những văn bản pháp luật khác vẫn yêu cầu trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại lúc này phải áp dụng theo các quy định tại các văn bản pháp luật đó.
Lỗi không phải điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường ngay cả khi không có lỗi. Tuy nhiên, nếu lỗi xuất phát từ phía người bị thiệt hại, thì trách nhiệm bồi thường sẽ không đặt ra cho chủ sở hữu hay người được chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo khoản 3 Điều 623 BLDS 2005. Ví dụ: Xe máy đang tham gia giao thông thì bất ngờ có người lao vào xe với ý định tự tử thì khi người này bị thương nặng hay thậm chí tử vong, chủ sở hữu hay người đang trực tiếp điều khiển xe lúc đó không phải bồi thường.
3.3. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật :
Chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ là hành vi chiếm hữu không có những căn cứ pháp luật quy định tại Điều 183 BLDS 2005 như chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản thông qua giao dịch dân sự vi phạm các điều kiện có hiệu lực theo Điều 122 BLDS 2005; nguồn nguy hiểm cao độ có được do trộm, cướp, hoặc các hành vi chiếm đoạt tài sản khác; ... Khi nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật, khoản 4 Điều 623 BLDS 2005 và khoản d Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định thành hai trường hợp sau :
Thứ nhất, “ Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (đã tuân thủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật)” Như vậy, nếu nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng thông qua hành vi trái pháp luật bao gồm trộm, cướp hoặc các hình thức chiếm đoạt tài sản khác ví dụ như xe máy có được do trộm cắp, tàu thuyền cướp được ... thì khi thiệt hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ thì người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ bất hợp pháp phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Thứ hai, “ Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.” Quy định này được hiểu là nếu chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đã không thực hiện đúng các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ dẫn đến việc nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật. Trong trường hợp này, thiệt hại xảy ra ngoài nguyên nhân chính là do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ còn có lỗi của chủ sở hữu cũng như có dấu hiệu chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật. Do đó, việc xác định trách nhiệm pháp lý liên đới được phát sinh trong trường hợp này là chính xác, hợp lý.
II. Thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
1. Vụ việc thứ nhất
Nguyễn Văn Nam là người lái xe ôtô 3 tấn chuyên chở hàng đi giao cho các đại lí hàng tạp hóa ở thành phố Vinh, một hôm anh Nam đang đi trên đường Quang Trung với tốc độ 60km/h, bỗng nhiên trên đường giao thông có một người đang chạy ra từ 1 nhà dân thẳng ra đường ngay trước mũi xe của anh và đứng im không hề có ý định né tránh chiếc xe của anh với mục đích tự tử, anh Nam thấy vậy liền đột ngột kéo phanh để hãm tốc độ xe lại nhưng vừa mới phanh xe nhưng không kịp theo đà di chuyển xe tiến nên đâm thẳng vào gây ra cái chết cho chị Đào Thu Hương. Được tin báo con chết gia đình chị Hương bắt anh Nam là phải đền bù thiệt hại cho gia đinh về cái chết của chị Hương 70 triệu bằng không gia đình sẽ kiện anh ra tòa. Qua lời kể của những người bán hàng chứng kiến ở đấy anh được biết Hương là người cư trú tại nơi xẩy ra vụ việc, thời gian trước khi tai nạn Hương có cãi cọ to tiếng với ba mẹ “ba mẹ không cần đứa con này thì con cũng không muốn sống nữa.” Hương đã phi thẳng ra đường. Nghe được kể như vậy anh Nam nghĩ mình không có lỗi trong việc này nên không bồi thường. Gia đình chị Hương đã kiện anh ra tòa.
Nhận xét về vụ việc.
Ở đây anh Nam không phải bồi thường thiệt hại cho gia đình chị Hưởng bởi cái chết của chị Hương là do lỗi cố ý của chị Hương, cố tình lao vào xe ôtô của anh để tự tử. Ở đây chiếc xe ôtô là nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng vấn đề bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ không được đặt ra. Bởi theo khoản 3 điều 623 BLDS “. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Theo như khoản này thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại mà cụ thể là ở đây là chị Hương, còn anh Nam không có lỗi gì anh vẫn đi đúng tốc độ và làn đường cho xe không hề vi phạm pháp luật về giao thông. Anh Nam sẽ không phải bồi thường cho cái chết chủa chị Hương. Theo như hướng dẫn tại nghị quyết số 03/HDTP năm 2006 quy định và hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp này “Về nguyên tắc chung chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
- Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; Thực tế đã có nhiều trường hợp tự tử bằng cách lao vào xe ôtô đang lưu thông trên đường, chính vì vậy việc nghị quyết số 03 đưa ra ví dụ hướng dẫn việc này để dễ dàng cho việc áp dụng xử lý vụ việc 1 cách chính xác.
2 Vụ việc thứ hai
Lúc 21g15 ngày 16/6/2007, anh Trần Hữu Cường điều khiển xe máy chở vợ là Lương Thị Qui đi trên đường Nguyễn Văn Linh, phường Phú Lâm (TP Tuy Hòa). Do vừa chạy xe vừa mải mê nói chuyện với vợ, nên xe máy của anh Cường lấn sang phần đường bên trái, tông vào xe máy do anh Phạm Hồng Ngà đang lưu hành ngược chiều. Vụ tai nạn khiến cho anh Ngà bị thương tích nặng, mù hai mắt, tỉ lệ thương tật do Tổ chức Giám định pháp y tỉnh Phú Yên kết luận là 97%. Sau khi khám nghiệm điều tra tại hiện trường, Công an TP Tuy Hòa xác định nguyên nhân vụ tai nạn hoàn toàn do lỗi của anh Trần Hữu Cường. Do đó, anh Cường bị truy tố, xét xử về tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện đường bộ.
Do người bị hại trong vụ tai nạn giao thông này là công nhân hàn gò bậc 3/7, đang làm việc tại Công ty Công nghiệp tàu thủy Phú Yên với mức lương mỗi tháng 1.247.000 đồng, nên ngoài việc yêu cầu bồi thường chi phí điều trị thương tích cho nạn nhân tại các bệnh viện, vợ anh Ngà là chị Nguyễn Thị Tính còn yêu cầu bồi thường các khoản mất thu nhập của nạn nhân trong thời gian nằm viện, tiền công chăm sóc người bệnh, tiền tổn thất tinh thần, chi phí tái phẫu thuật tại TP Hồ Chí Minh với tổng cộng hơn 104 triệu đồng. Ngoài các khoản nêu trên, đại diện bị hại còn yêu cầu người gây tai nạn và người có trách nhiệm liên đới phải bồi thường theo mức thu nhập tiền lương mỗi tháng anh Ngà đang hưởng 1.247.000 đồng và tiền công người chăm sóc mỗi tháng 800.000 đồng cho đến khi nạn nhân qua đời.
* Giải quyết của tòa : bản án sơ thẩm số 57/2008/HSST ngày 16/6/2008 của TAND TP Tuy Hòa xử phạt bị cáo Trần Hữu Cường 9 tháng tù. Về dân sự, buộc Cường bồi thường cho anh Ngà hơn 104 triệu đồng thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; bồi thường mức thu nhập tiền lương cho anh Ngà mỗi tháng 1.247.000 đồng, tiền công người chăm sóc anh Ngà mỗi tháng 800.000 đồng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi anh Ngà chết.
* Bình luận : Trong vụ án nêu trên, việc TAND TP Tuy Hòa xác định trách nhiệm BTTH của anh Cường là BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (ở đây là chiếc xe máy) là đã có sự nhầm lẫn giữa bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con người gây ra liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ với bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Ở đây, anh Cường đã có hành vi vừa chạy xe vừa mải mê nói chuyện với vợ, nên xe máy của anh Cường mới lấn sang phần đường bên trái, tông vào xe máy do anh Phạm Hồng Ngà gây tai nạn. Thiệt hại xảy ra ở đây hoàn toàn do hành vi trái pháp luật của anh Cường chứ không phải do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ là chiếc xe máy gây ra. Vì vậy, trong vụ việc này cần xác định trách nhiệm BTTH của anh Cường là trách nhiệm BTTH thông thường do hành vi trái pháp luật của con người, áp dụng các điều 608, 609 BLDS để xác định trách nhiệm BTTH.
III. Một vài ý kiến nhằm bổ sung và khắc phục những điểm còn thiếu sót trong quy định của pháp luật về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra :
1.Về định nghĩa nguồn nguy hiểm cao độ.
Quy định trong Khoản 1 Điều 623 theo hướng liệt kê, dẫn đến tình trạng không bao quát hết được các nguồn nguy hiểm cao độ tòn tại trên thực tế, gây khó khăn trong việc áp dụng luật. Vì vậy, trong điều 623 không nên định nghĩa nguồn nguy hiểm cao độ theo hướng liệt kê mà chỉ cần xác định tiêu chí chung để được coi là nguồn nguy hiểm cao độ như tính nguy hiểm, tính gây thiệt hại tiềm tàng… của chúng.
2. Về điều kiện áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Hiện nay chưa có quy định nào phân định cụ thể: khi nào áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và khi nào áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra dẫn đến có những cách hiểu và áp dụng không thống nhất trên thực tế. Nhiều trường hợp, tòa án thấy thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ là áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, bất kể nguyên nhân gây thiệt hại là do con người
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Học kỳ dân sự- Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.doc