Tiểu luận Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu và giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật thuế nhập khẩu

Theo Cục điều tra chống buôn lậu tình trạng buôn lậu đang diễn ra hết sức phức tạp tại các cảng biển. Tình hình càng nghiêm trọng hơn khi Việt nam phổ biến áp giá tính thuế theo những cam kết với WTO, doanh nghiệp tự khai báo , tự xác định trị giá tính thuế trên tờ khai. Chính vì vậy, các đối tượng đã sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, đặc biệt là thông đồng làm giả hợp đồng thương mại, khai báo giá trị thấp so với thực thế, nhằm áp mã sai đối với những mặt hàng nhạy cảm để được hưởng mức thuế suất thấp. Nhiều doanh nghiệp, cá nhân nhập khẩu đã lợi dụng chính sách thông thoáng, miễn hoặc kiểm tra theo tỷ lệ để nhập hàng thừa so với hợp đồng, khai báo hải quan không đúng, nhập nguyên liệu để sản xuất hàng suất khẩu nhưng lại đem tiêu thụ trái phép trong nước, giả hợp đồng gia công Ví dụ: năm 2007 xuất hiện thủ đoạn gain lận thương mại, nhập thép Trung Quốc dưới dạng “hợp đồng gia công 100%” của Công ty thép Việt – Ý. Không chỉ trên các cảng biển, hoạt động buôn lậu còn có những diễn biến phức tạp trên cả đường bộ, hàng không và bưu điện. Trên tuyến biên giới đường bộ, việc vận chuyển trái phép hàng hóa diễn ra phức tạp và tập trung chủ yêu tại một số địa bàn trọng điểm như Móng Cái (Quảng Ninh), Tân Thanh, Chi Mai, đường mòn 05-06 thị trấn Đồng Đăng (Lạng Sơn), Cầu Treo (Hà Tĩnh), Lao Bảo (Quảng Trị) Các hàng hóa nhập khẩu khá đa dạng nhưng phần lớn là hàng tiêu dùng. Buôn lậu trên tuyến hàng không, bưu điện vẫn tập trung ở hai cửa khẩu sân bay quốc tế là Nội Bài và Tân Sơn Nhất, bưu điện Hà Nội và TP.HCM.

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5354 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu và giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật thuế nhập khẩu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g giá tối thiểu và hệ thông giá tham khảo hay biểu trị giá hải quan cố định áp dụng đối với hàng nhập khẩu thay cho giá trị giao dịch. Trước đây ở Việt Nam giá tính thuế được xác định theo 3 hướng : Giá tính thuế nhập khẩu theo bảng giá tính thuế do Nhà nước ban hành; Giá tính thuế nhập khẩu theo hợp đồng mua bán ngoại thương; Giá tính thuế nhập khẩu theo nguyên tắc của Hiệp định thực hiện Điều VII của GATT 1994. Tuy nhiên, hiện nay cùng với hội nhập kinh tế quốc tế, để phù hợp với Hiệp định thực hiện Điều VII của GATT 1994, luật thuế xuất, nhập khẩu đã có những thay đổi so với trước đây về việc xác ddinghj trị giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu. Khoản 2 Điều 9 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005 quy định : “Giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên theo hợp đồng, phù hợp với cam kết quốc tế”. Bên cạnh đó, Nghị định 155/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 của Chính phủ quy định về xác định trị giá hải quan đối với hàng nhập khẩu thì tất cả hàng hóa nhập khẩu đều có chung một văn bản hướng dẫn xác định trị giá hải quan mà không có sự phân biệt như trước. Thứ ba, thuế suất thuế nhập khẩu Có thể phân loại thuế suất theo những tiêu chí sau: Xét theo tiêu chí kỹ thuật thu thuế thì thuế suất có hai loại: Thuế suất theo tỉ lệ : là loại thuế suất được quy định bằng một tỷ lệ % nhất định đánh vào mỗi loại hàng hóa nhập khẩu nhất định. Cách tính thuế nhập khẩu phải nộp đối với loại hàng hóa này như sau: Thuế phải nộp = (số lượng hàng hóa nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan) x (giá tính thuế từng mặt hàng) x (thuế suất) Thuế suất tuyệt đối: là loại thuế suất được ấn định bằng số tiền nhất định tính trên mỗi đơn vị hàng hóa nhập khẩu. Cách tính : Thuế phải nộp = (số lượng hàng hóa nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan) x ( thuế suất). Xét theo tiêu chí quan hệ thương mại giữa các quốc gia thì có ba loại : Thuế suất ưu đãi : là thuế suất áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc (MFN) trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Thuế suất này được quy định riêng cho từng mặt hàng được quy định tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi. Thuế suất ưu đãi đặc biệt: là thuế suất áp dụng đối với các loại hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ các quốc gia trong liên minh thuế quan, khu thương mại tự do hay để tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại biên giới của hai bên. Điều kiện áp dụng loại thuế này bao gồm : + Hàng hóa nhập khẩu là những mặt hàng được quy định cụ thể trong thỏa thuận kí giữa Việt Nam với nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế và phải đáp ứng đủ các điều kiện ghi trpong thỏa thuận + Có giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam. Tuy nhiên đối với hàng hóa đã có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế quan với nước ta nhưng lô hàng có tổng giá trị từ 200USD trở xuống thì không cần có C/O + Phải là hàng hóa có xuất xứ từ nước, nhóm nước, vùng lãnh thổ mà Việt Nam có thỏa thuận ưu đãi thuế nhập khẩu và phải đáp ứng các điều kiện này + C/O phải phù hợp với quy định của pháp luật về xuất xứ hàng hóa Thuế suất thông thường: là thuế suất áp dụng đối với hàng hóa có xuất xứ từ các nước còn lại. Theo quy định của Luật thuế xuất, nhập khẩu 2005 thì thuế suất thông thường không quá 170% so với thuế suất ưu đãi. Điều này có thể giúp Bộ tài chính quy định trong khung mở rộng từ 100% đến 170% so với thuế suất ưu đãi của hàng hóa tương ứng. Các quy định về quy trình hành thu thuế nhập khẩu. Thứ nhất, kê khai thuế nhập khẩu: Khi nhập khẩu hàng hóa thì hành vi đầu tiên của chủ thể nộp thuế là tiến hàn kê khai thuế nhập khẩu theo mẫu ( tờ khai hải quan). Tờ khai này thể hiện rõ các nội dung như nguồn gốc, xuất xứ, số lượng hàng hóa nhập khẩu…Theo Điều 13 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì “ Đối tượng nộp thuế nhập khẩu có trách nhiệm kê khai đầy đủ, chính xác, minh bạch và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung kê khai”. Như vậy, tờ khai hải quan không chỉ là căn cứ để cơ quan hải quan tiến hành tính thuế nhập khẩu cho người nộp thuế mà còn là bằng chứng chứng minh mức độ trung thực của người nộp thuế, từ đó xác định có hành vi khai man, trốn thuế không để ra uyết định xử phạt. Theo quy định của Luật hải quan thì thời hạn nộp tờ khai hải quan đối với hàng nhập khẩu là trước ngày hàng hóa đến cửa khẩu hoặc trong thời hạ 30 ngày kể từ ngày hàng hóa đến cửa khẩu. Tờ khai hải quan có giá trị làm thủ tục hải quan trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày đăng ký. Sau khi đăng ký, người nhập khẩu nộp tờ khai cho cơ quan hải quan để làm thủ tục nhập khẩu. Thứ hai, kiểm tra, giám sát đối với hàng hóa nhập khẩu: Sau khi nhận được tờ khai hàng hóa nhập khẩu, cơ quan hải quan tiến hành kiểm tra hồ sơ đăng ký hải quan và kiểm tra hàng hóa trên thực tế. Việc kiểm tra hồ sơ đăng ký hải quan được tiến hành như sau: Đối với chủ hàng chấp hành tốt pháp luật về hải quan thì công chức hải quan kiểm tra việc kê khai các tiêu chí trên tờ khai, kiểm tra sơ bộ nội dung khai, kiểm đếm số lượng, chủng loại các chứng từ kèm theo tờ khai hải quan. Đối với trường hợp phát hiện sai phạm hoặc đối với các chủ hàng khác thì kiểm tra nội dung khai, số lượng, chủng loại, giấy tờ thuộc hồ sơ, tính đồng bộ giữa các chứng từ. Nếu không chấp nhậ dăng ký thì báo cho người khai biết rõ lý do. Sau quá trình kiểm tra hải quan đối với hàng hóa, cơ quan hải quan tiến hành tính thuế và thông báo thuế cho ngườu kê khai hải quan trong thời hạn 8 giờ kể từ khi nhận được tờ khai hải quan. Đối với những hàng hóa có số lượng nhập khẩu mỗi lần lớn và những mặt hàng bắt buộc phải có giám định tiêu chuẩn chất lượng của Chính phủ trước khi được phép lưu thông trên thị trường Việt Nam thì thời hạn tính thuế và gửi thông báo có thể kéo dài hơn 8 giờ nhưng không quá 3 ngày làm việc. Đối với những mặt hàng bắt buộc phải có giám địn tiêu chuẩn ky thuật mới xác định được mã số theo danh mục biểu thuế hoặc cần giám định để sác định tình trạng cũ, mới của hàng hóa nhằm giúp cho việc tính thuế được chính xác thì thời hạn tính thuế và gửi thông báo thuế có thể kéo dài quá 3 ngày nhưng không quá 15 ngày làm việc. Về nguyên tắc, thuế nhập khẩu được tính tại thời điểm đăng ký tờ khai hàng hóa nhập khẩu, đồng thời được tính theo mức thuế suất, giá tính tại thời điểm đăng ký tờ khai hàng hóa nhập khẩu. Thứ ba, nộp thuế và thời hạn nộp thuế nhập khẩu: Nộp thuế nhập khẩu là nghĩa vụ cơ bản của người nhập khẩu. Nghĩa vụ này phát sinh khi người nhập khẩu làm thủ tục hải quan để đưa hàng hóa vào lãnh thổ Việt Nam và phải được thực hiện trong một thời hạn nộp thuế do pháp luật quy định. Theo dự liệu tại Điều 15 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu, thời hạn nộp thuế được quy định rất cụ thể. Tùy thuộc vào mục đích nhập khẩu là sản xuất hay để xuất khẩu mà hời hạn nộp thuế được quy định theo mức 15 ngày, 30 ngày hoặc 275 ngày. Thứ tư, miễn, giảm thuế và hoàn thuế nhập khẩu: Miễn thuế, giảm thuế và truy thu thuế nhập khẩu: Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu quy định những trường hợp cụ thể được xét miễn, giảm thuế nhập khẩu tại Điều 16, 17, 18. Nhìn chung, về đối tượng hàng hóa được xét miễn, giảm thuế, Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005 đã kế thừa những uy định của Luật trước đây, chỉ có bổ sung là trong trường hợp xét giảm thuế đối với hàng hóa phục vụ nghiên cứu khoa học thì phải trừ trường hợp đã quy định về hàng đã miễn thuế để sử dụng và hoạt động nghiên cứu khoa học như trên. Viêc truy thu thuế được quy định tại Điều 21 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005, theo đó, việc truy thu thuế đặt ra trong trường hợp đối tượng nộp thuế có hàng hóa được miễn, giảm thuế theo quy định tại Điều 16, 17 của Luật nhưng sau đó sử dụng khác mục đích thì phải nộp đủ thuế. Hoàn thuế nhập khẩu: Đối với trường hợp hoàn thuế, Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu đã bổ sung thêm trường hợp hàng hóa được phép tạm nhập, tái xuất là máy móc, thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận chuyển của các tổ chức, cá nhân để thực hiện dự án đầu tư, thi công xây dựng, lắp đặt công trình hoặc phục vụ sản xuấtđã nộp thuế nhập khẩu cũng là đối tượng được hoàn thuế. Quy định này là phù hợp với các quy định mới về các trường hợp được miễn thuế. Theo đó, hiện nay có 8 trường hợp hoàn thuế được quy định tại Điều 19 của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu ở nước ta hiện nay: Những kết quả đạt được. Trải qua hơn 5 năm thực hiện, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 đã khắc phục những hạn chế trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991 và đạt được những kết quả đáng kể: Thứ nhất, góp phần huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Là một nước đang phát triển, thu ngân sách của Việt Nam chủ yếu dựa vào các nguồn thu từ thuế, trong đó nguồn thu từ thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu chiếm một tỉ trọng lớn đặc biệt là thu từ thuế nhập khẩu. Bảng 1. Tổng thu ngân sách nhà nước từ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (2008-2010) (Đơn vị: Tỉ đồng) 2008 2009 2010 Tổng thu ngân sách nhà nước 399.000 442.340 559.170 Tổng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 91.000 105.664 130.100 Tỉ trọng so với tổng thu ngân sách nhà nước (%) 22,8 23,89 23,27 Từ bảng trên có thể thấy số tiền thu được từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chiếm trên 20% tổng thu ngân sách nhà nước và liên tục tăng qua các năm. Thứ hai, thúc đẩy hoạt động buôn bán, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Những điều chỉnh trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 để đáp ứng những yêu cầu của quá trình hội nhập trong những năm qua đã thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ mua bán hàng hóa giữa nước ta với các nước trên thế giới. Hiện nay Việt Nam đang có quan hệ nhập khẩu hàng hóa với hơn 170 quốc gia trên thế giới. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, trong năm 2010 kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt hơn 84 tỷ USD, tăng 20,1% so với năm 2009. Trong đó, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu hàng hóa lớn nhất của nước ta với tổng kim ngạch đạt trên 20 tỷ USD chiếm hơn 23% tổng kim ngạch nhập khẩu. Ngoài ra một số thị trường nhập khẩu lớn của Việt Nam như: ASEAN chiếm 19,3%, Hàn Quốc chiếm 11,5, Nhật Bản chiếm 10,6%... Thứ ba, bảo hộ sản sản xuất trong nước. Trong bối cảnh thị trường tiêu thụ gặp nhiều khó khăn do suy giảm kinh tế toàn cầu và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm trong nước còn chưa đủ mạnh thì các chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước là cần thiết và có vai trò quan trọng. Trên cơ sở các cam kết quốc tế và quy định của WTO, trong thời gian qua, chính sách thuế nhập khẩu đã được tận dụng tối đa để hỗ trợ cho những ngành sản xuất trong nước phát triển đặc biệt là những ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn nhằm tạo lập và nâng cao khả năng cạnh tranh. Ví dụ trước đây theo quy định của Bộ tài chính thép xây dựng nhập khẩu vào Việt Nam chịu mức thuế suất 15%, thép hợp kim nhập khẩu làm thép xây dựng chịu thuế suất 10%, thép hợp kim có chứa nguyên tố Bo để sản xuất que hàn thuế suất là 0%. Quy định này đã dẫn đến tình trạng không ít doanh nghiệp cố tình nhập khẩu thép có chứa Bo và khai là để sản xuất que hàn để hưởng mức thuế suất 0% nhưng thực tế lại bán ra làm thép xây dựng. Do đó giá bán thép nhập khẩu thấp hơn giá thép trong nước khiến cho nhiều doanh nghiệp sản xuất thép lâm vào tình trạng khó khăn. Để giải quyết tình trạng này, ngày 11/7/2011, Bộ tài chính đã ban hành thông tư 103/2011/TT-BTC tăng mức thuế suất đối với đối với thép có chứa Bo lên 10%. Thứ tư, thực hiện các cam kết quốc tế Trong quá trình đàm phán, tham gia, ký kết các điều ước quốc tế, hiệp định thương mại hợp tác kinh tế, thương mại trong khuôn khổ ASEAN, APECT, ASEM, hiệp định thương mại Việt – Mỹ, cam kết gia nhập WTO… Việt Nam đã đưa ra một loạt các cam kết về thuế đặc biệt là cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu. Để thực hiện những cam kết đó, trong thời gian vừa qua, những quy định về thuế nhập khẩu đã có những điều chỉnh đáng kể. Theo cam kết với WTO, Việt Nam cam kết ràng buộc toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu hiện hành gồm 10.600 dòng thuế. Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm 23% so với mức thuế bình quân hiện hành (từ 17,4% xuống còn 13,4%), thời gian thực hiện sau 5-7 năm. Trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế với khoảng 3.800 dòng thuế (chiếm 35,5%), ràng buộc ở mức thuế hiện hành với khoảng 3.700 dòng thuế (chiếm 35,4%), ràng buộc theo mức thuế trần-cao hơn mức thuế suất hiện hành với 3.170 dòng thuế (chiếm 30%), chủ yếu là đối với các nhóm hàng như xăng dầu, kim loại, hóa chất, một số phương tiện vận tải… Hiện nay chúng ta đang trong quá trình thực hiện lộ trình giảm thuế nhập khẩu theo cam kết, thuế suất thuế nhập khẩu của một số mặt hàng có xu hướng giảm mạnh như xe ôtô con dung tích xi lanh dưới 2500cc giảm từ 90% (khi gia nhập WTO) xuống còn 82% (2010) tiến tới giảm xuống còn 70% (theo cam kết)… Việc thực hiện giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế đã đem lại những tác động tích cực: Khẳng định nền kinh tế Việt Nam đáp ứng những tiêu chuẩn và nguyên tắc chung của kinh tế thị trường; việc cắt giảm thuế nhập khẩu, giảm bảo hộ sẽ thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế phát triển theo hướng hiệu quả, chuyên môn hóa, sản xuất quy mô lớn, phát huy tốt hơn các lợi thế so sánh về lao động, tài nguyên. Các dự án đầu tư sản xuất thay thế nhập khẩu dựa trên bảo hộ cao sẽ phải định hướng lại sản xuất; tạo điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài, tăng niềm tin với các nhà đầu tư về định hướng mở cửa và tiềm năng phát triển của Việt Nam; việc cắt giảm thuế sẽ thu hẹp bảo hộ quá mức ở một số ngành, các ngành sẽ có mức bảo hộ hợp lý, giảm chênh lệch về bảo hộ giữa các ngành. Những hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật TNK. Thứ nhất, về thực tiễn áp dụng pháp luật về giá tính thuế nhập khẩu: Một trong những vấn đề làm đau đầu nhân viên hải quan tại các cửa khẩu chính là việc xác định chính xác giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu. Theo thống kê của ngành hải quan thì trong số các vụ việc trốn thuế nhập khẩu, số vụ do gian lận về giá chiếm tỉ lệ cao nhất. Với các quy định hiện hành, việc kê khai thuế chủ yếu dựa trên thái độ trung thực của người nhập khẩu, và giá tính thuế nhập khẩu được tính theo trị giá giao dịch thực tế của hàng hóa. Quy định này là vậy nhưng việc áp dụng lại rất đa dạng và có rất nhiều cách gian lận về giá. Ở đây xin đề cập tới một số thủ đoạn gian lận giá có tính phổ biến và điển hình trong quá trình áp dụng pháp luật về giá tính thuế nhập khẩu: Hiện tượng khai báo giá không trung thực: Với cách này bên nhập khẩu sẽ thông đồng với nhà sản xuất để khai báo giá trị hàng hóa nhập khẩu thấp hơn so với giá trị hàng hóa trong thực tế. Các hợp đồng chứng từ thanh toán ngân hàng như L/C chỉ thể hiện phần nào nội dung mà cơ quan hải quan đang kiểm tra, không thể hiện đầy đủ trị giá khai báo. Đa số nhà xuất khẩu khi đã có quan hệ giao dịch với nhà nhập khẩu thì họ đều bảo vệ khách hàng của mình vì điều này có lợi cho nhà xuất khẩu tiêu thụ được sản phẩm hàng hóa. Do đó, giao dịch dễ dàng được thực hiện theo hai hay nhiều hợp đồng để đối phó với cơ quan hải quan. Điển hình trong trường hợp này là vụ khai báo sai giá trị hàng hóa là điện thoại di động của Công ty Đông Nam. Giám đốc của công ty này là Nguyễn Gia Thiều đã móc nối với công y Đông Nam Hồng Kông mua trên 40.000 ĐTDD, khai giá thấp hơn so với giá thực tế thanh toán từ 75 USD đến 375USD/ chiếc, trốn thuế nhập khẩu trên 100 tỷ đồng. Hiện tượng khai thấp về chất lượng hàng hóa. Doanh nghiệp sẽ khai báo hàng hóa của họ là hàng thứ phẩm, hàng tồn kho , loại A, B, C, D hoặc là hàng vỡ vụn nhiều. Và thời gian qua, Tổng cục Hải quan đã phát hiện nhiều trường hợp doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa (đặc biệt là mặt hàng ô tô, xe máy) khai báo giá trị tính thuế nhập khẩu rất thấp để trốn thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng (GTGT) khâu nhập khẩu. Cụ thể, hóa đơn GTGT bán hàng của xe Toyota Land Cruiser Prado dung tích 4.0, doanh nghiệp xuất trình là 1.069 tỷ đồng, trong khi đó giá bán thực tế của chiếc xe này trên thị trường là từ 1,65 tỷ đồng đến 1,7 tỷ đồng...Như vậy, các doanh nghiệp này vừa khai báo giá trị nhập khẩu thấp với cơ quan Hải quan để trốn thuế nhập khẩu và thuế GTGT khâu nhập khẩu, đồng thời vừa khai báo giá bán rất thấp trên thị trường nội địa của hàng hóa nhập khẩu với cơ quan Thuế để trốn thuế GTGT trong nội địa và thuế thu nhập doanh nghiệp. Tình trạng trên dẫn đến sự thất thoát nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, và hiện nay khi các vụ việc được phát hiện việc truy thu thuế đối với các doanh nghiệp vi phạm cũng không hề dễ dàng. Việt Nam sau khi tham gia ký kết thực hiện xác định trị giá tính thuế theo nguyên tắc của Hiệp định thực hiện điều 7 Hiệp định chung thuế quan và thương mại, đã ban hành chính sách cho phép các Doanh nghiệp tự kê khai trị giá tính thuế hàng hoá theo GATT. Lợi dụng vào sự thông thoáng của chính sách này nhiều Doanh nghiệp nhập khẩu ô tô nguyên chiếc đã khai trị giá tính thuế thấp để trốn thuế nhập khẩu Hiện tượng khai báo hàng không thanh toán. Theo công văn hướng dẫn của ngành hải quan, nếu doanh nghiệp nhập hàng kem đánh răng thì khi có hàng khuyến mại là là bàn chải đánh răng sẽ được chấp nhận. Nếu doanh nghiệp nhập máy lạnh, khuyến mại một chảo chống dính thì vẫn được chấp nhận, vì khi cán bộ giá khảo sát trên thị trường qua các cửa hàng kim khí điện máy cho thấy thực tế có hình thức khuyến mãi này. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp lợi dụng hình thức trên để nhập số lượng chảo chống dính nhiêu gấp 5 lần số lượng máy lạnh trong cùng một lô hàng thì đây chính là hình thức gian lận. Một số công ty còn tranh thủ thêm tỷ lệ hàng khuyến mãi 10%, thường xảy ra với hàng hóa là rượu, bia, mỹ phẩm, thực phẩm đóng gói, thuốc tân dược. Ví dụ, công ty An Nam nhập 104 chai nước làm mềm da khuyến mãi 96 chai, toàn bộ lô hàng sau mỗi mục đều có số lượng hàng siêu F.O.C ( gọi là hàng siêu F.O.C vì mua 1 được tặng nhiều hơn 1). Công ty này đã từng bị phòng trị giá tính thuế bác bỏ trị giá giao dịch. Thủ đoạn đánh đồng tên hàng nhưng chất lượng và phẩm cấp thương mại cao hơn. Ví dụ doanh nghiệp khai báo đồng hồ treo tường, nếu không để ý rõ, yêu cầu doanh nghiệp xuất trình mẫu hàng hoặc ra bãi xem hàng cụ thể thì cán bộ hải quan dễ bị ngộ nhận vì đồng hồ treo tường có hàng trăm loại khác nhau, và có loại có giá trị vài chục ngàn, cũng có loại như đồng hồ đin tử có hiện thị độ ẩm, nhiệt độ phòng, có lịch âm dương thì giá ngoài thị trường trên 500.000 VNĐ/chiếc. Với những thủ đoạn như trên đòi hỏi các cán bộ hải quan phải thu thập nguồn thông tin bằng các kĩ năng nghiệp vụ giỏi mới có cơ sở bác bỏ trị giá khai báo của các doanh nghiệp nhập khẩu. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp công tác xác định trị giá tính thuế nhập khẩu gặp nhiều khó khăn khi tham vấn giá với các doanh nghiệp cụ thể là. - Bán hàng độc quyền, trị giá tính thuế khai báo cực thấp và riêng đối với mặt hàng ấy chỉ duy nhất có một công ty nhập và phân phối trên thị trường. Nếu xây dựng cơ sở dữ liệu giá sẽ gặp khó khăn và không thể cập nhật chính xác giá nhập khẩu vì nhà sản xuất không bao giờ cung cấpmà chỉ định đến đại lí liên hệ của chính hang – chính là doanh nghiệp nhập khẩu. Những trường hợp này thường xảy ra với ngành rượu và hàng mĩ phẩm. Trị giá thanh toán hay sẽ phải thanh toán của nhà nhập khẩu cho nhà xuất khẩu sẽ được khai báo thấp hơn so với giá trị giao dịch thực tế nhờ sự thông đồng của cả hai bên như đã phân tích ở trên. Việc xác định mối quan hệ đặc biệt trong giao dịch có ảnh hưởng đến trị giá giao dịch đối với những người này trong gia đình theo mô hình công ty me-con. Đối với những tình huống này đòi hỏi cán bộ hải quan phải có nguồn thôngin sẵn, phải có nghiệp vụ kiểm toán và được quyền đọc sổ sách tài chính của công ty nếu không rất khó bác bỏ trị giá giao dịch mà doanh nghiệp đã khai báo. Thứ hai, về thực tiễn áp dụng pháp luật về thuế suất thuế nhập khẩu. Thuế suất thuế nhập khẩu là căn cứ quan trọng nhất để xác định số thuế nhập khẩu mà doanh nghiệp phải nộp cho nhà nước. Trong quá trình hội nhập kinh tế chúng ta đã cam kết cắt giảm hàng rào thuế quan theo lộ trình nhất định. Việc quy định thuế suất là rõ ràng trong các văn bản pháp luật và các cam kết quốc tế, song việc áp dụng thuế suất trên thực tế lại vô cùng phức tạp. Các nhà nhập khẩu có vô vàn cách biến hóa nhằm trốn thuế, hoặc hưởng thuế suất thấp hơn để thoát khỏi hoặc giảm bớt một phần nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Một trong số những ảo thuật mà nhà nhập khẩu sử dụng được coi là ngày càng tinh vi là việc gian lận giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa ( C/O). Ví dụ hơn 15 doanh nghiệp nhập khẩu tổng cộng gần 42.000 tấn thép lá cán nguội ( CRC) từ Philipine vào Việt Nam với mức giá thấp hơn cả mức giá nội địa của sản phẩm tại Philipine nhằm trốn thuế thông qua việc sử dụng C/O có lai lịch bất minh. Theo kết quả kiểm tra liên ngành thương mại, hải quan và quản lí thị trường tại cửa khẩu Cầu Treo,Hà Tĩnh cuối tháng 10/2005 có 23 lô nhập khẩu đã sử dụng C/O Form D với giấy chứng nhận 100% giá trị sản phẩm Thái Lan. Hàng hóa bao gồm nhiều chủng loại như ti vi, tủ lạnh, nồi cơm điện, lò vi sóng… mang nhãn hiệu Sony, Hitachi, Panasonic, Sharp. Trong đó chỉ tính riêng sản phẩm tivi đã lên đến tổng trị giá 729.230 USD.. Theo đánh giá của các nhà sản xuất điện tử ở Việt Nam và các chuyên gia thương mại sản phẩm điện tử không thể đạt mức tỉ lệ 100% xuất xứ Thái Lan mà đây chỉ là một cách lách để hưởng thuế suất ưu đãi của AFTA 20% năm 2005 và 5% năm 2006 thay vì phải chịu mức thuế thông thường là 50%. Tình trạng trên xuất phát từ các quy định về thuế, hàng hóa có C/O form D, tức trong sản phẩm phải có chứa trên 40% hàm lượng xuất xứ từ ASEAN khi xuất khẩu vào các nước trong ASEAN sẽ được hưởng mức thuế suất là 0% hoặc 10%, 15%..., thấp hơn nhiều so với hàng ngoài ASEAN. Thủ đoạn khai sai nguồn gốc xuất xứ hàng hóa nhằm hưởng lợi từ việc ưu đãi về thuế đối với các nước mà Việt Nam có cam kết giảm thuế. Điển hình là trường hợp Vũng Tàu Sihanco khai sai xuất xứ hàng hóa bột ngọt để trốn thuế nhập khẩu. Thủ đoạn gian lận khác mà nhà nhập khẩu sử dụng là khai báo gian dối về tên hàng hóa nhập khẩu để được áp mã và hưởng thuế suất thấp hơn. Thứ ba, hạn chế trong quy trình hành thu thuế nhập khẩu. -Về khai thuế nhập khẩu. Theo quy định của pháp luật thuế nhập khẩu, việc kê khai thuế nhập khẩu do chủ thể tiến hành hoạt động nhập khẩu tự thực hiện, điều này đòi hỏi nhà nhập khẩu phải thực hiện tự giác, trụng thực và nghiệm chỉnh, Nội dung kê khai thuế trong các tờ khai hải quan bao gồm kê khai về mặt hàng nhập khẩu, số lượng hàng nhập khẩu và giá trị hải quan. Cả 3 nội dung này, trên thực tế đều không được kê khai một cách trung thực và khó có thể dựa trên ý thức tự giác của nhà nhập khẩu. Về vấn đề hàng hóa, rất khó có thể phân biệt và mã hóa loại hàng hóa nhập khẩu một cách chính xác, bởi lẽ hàng hóa nhập khẩu là vô cùng đa dạng về chủng loại. Về số lượng, nếu cán bộ hải quan không ra bãi kiểm tra một cách trực tiếp thì không thể hoàn toàn tin tưởng vào số lượng mà nhà nhập khẩu khai báo. Phần lớn các lô hàng nhập khẩu đều có số lượng lớn hơn nhiều so với số lượng khai báo, đặc biệt là đối với nguyên liệu dệt may, rất khó để kiểm tra được chính xác số lượng mà doanh nghiệp khai báo và kèm theo trong lô hàng có hàng lậu hay không. Hiện nay, công tác kiểm tra của hải quan còn nhiều yếu kém nên thực tế công việc không thể kiểm soạt hết được hàng hóa, và hàng lậu thì vẫn theo những lô hàng hợp pháp tràn vào Việt nam một cách tự do. Về trị giá hải quan, giá nhà nhập khẩu đưa ra bao giờ cũng là giá thấp nhất so với thực tế. Công tắc xác định trị giá hải quan hàng nhập khẩu hiện nay vẫn còn rất nhiều khó khăn và chưa thể giải quyết dứt điểm tình trạng này. -Về nộp thuế nhập khẩu: Mặc dù điều 15 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005 quy định khá rõ ràng về thời hạn nộp thuế, nhưng trong thực tế đã xảy ra rất nhiều trường hợp lợi dụng chính sách ân hạn thuế gây thất thu thuế cho Nhà nước. Theo Cục điều tra chống buôn lậu tình trạng buôn lậu đang diễn ra hết sức phức tạp tại các cảng biển. Tình hình càng nghiêm trọng hơn khi Việt nam phổ biến áp giá tính thuế theo những cam kết với WTO, doanh nghiệp tự khai báo , tự xác định trị giá tính thuế trên tờ khai. Chính vì vậy, các đối tượng đã sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, đặc biệt là thông đồng làm giả hợp đồng thương mại, khai báo giá trị thấp so với thực thế, nhằm áp mã sai đối với những mặt hàng nhạy cảm để được hưởng mức thuế suất thấp. Nhiều doanh nghiệp, cá nhân nhập khẩu đã lợi dụng chính sách thông thoáng, miễn hoặc kiểm tra theo tỷ lệ để nhập hàng thừa so với hợp đồng, khai báo hải quan không đúng, nhập nguyên liệu để sản xuất hàng suất khẩu nhưng lại đem tiêu thụ trái phép trong nước, giả hợp đồng gia công… Ví dụ: năm 2007 xuất hiện thủ đoạn gain lận thương mại, nhập thép Trung Quốc dưới dạng “hợp đồng gia công 100%” của Công ty thép Việt – Ý. Không chỉ trên các cảng biển, hoạt động buôn lậu còn có những diễn biến phức tạp trên cả đường bộ, hàng không và bưu điện. Trên tuyến biên giới đường bộ, việc vận chuyển trái phép hàng hóa diễn ra phức tạp và tập trung chủ yêu t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBT nhóm 9đ -Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu và giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật thuế nhập khẩu.doc
Tài liệu liên quan