Tiểu luận Thực tiễn và xu hướng cải cách thuế ở Việt Nam

Trong chính sách thuế thu nhập, cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân đều đã được sửa đổi căn bản. Cụ thể, đối với thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), Việt Nam đã thực hiện từng bước việc giảm dần mức thuế suất phổ thông từ 32% xuống 28% và từ 1/1/2009 là 25% và được áp dụng thống nhất đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bỏ thuế thu nhập bổ sung và thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Đồng thời, chính sách ưu đãi thuế TNDN cũng được cải cách theo hướng đơn giản hơn. Các chính sách ưu đãi không phù hợp với quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng đã được xóa bỏ.

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4281 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực tiễn và xu hướng cải cách thuế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p phát triển. Nhưng làm thế nào gia tăng được nguồn thu, đặc biệt là gia tăng nguồn thu từ thuế thu nhập cá nhân và không làm giảm đi những động lực kinh tế trong khi nền kinh tế sẽ phải giảm đi nhiều sự dựa vào nguồn thu thuế từ các hoạt động thương mại quốc tế. Để vượt qua những thử thách này, đòi hỏi những người ra quyết định chính sách phải đưa ra các ưu tiên chính sách đúng đắn và phải có cam kết chính trị để thực hiện cải cách cần thiết.   - Thử thách về quản lý thuế: Với sự hội nhập vào kinh tế toàn cầu, hàng rào thương mại bị tháo dỡ và sự di chuyển vốn quốc tế gia tăng trong khi năng lực quản lý thuế còn hạn chế và nguồn thu của nền kinh tế chủ yếu phụ thuộc nhiều vào thuế thương mại quốc tế. Sự thay thế thuế thương mại quốc tế bằng hệ thống thuế nội địa và đi kèm theo đó là những chuyển hướng lợi nhuận thông qua các hoạt động chuyển giá của các nhà đầu tư nước ngoài đó là những thử thách rất lớn trong quá cải cách thuế của Việt Nam. Hiện tại những điều khoản chống lạm dụng thuế trong các đạo luật thuế cũng như sự đào tạo kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ kiểm toán thuế ở Việt Nam nói chung là chưa đủ để ngăn chặn và phát hiện những thực tế như vậy.  - Về hiệu quả kinh tế và cạnh tranh thuế: Sự cạnh tranh thuế trong quá trình thu hút vốn là một thử thách không nhỏ trong bối cảnh vốn tự do chu chuyển. Nhận thức được sức ép này Việt Nam cũng sẽ tăng cường mở rộng phạm vi khuyến khích thuế để cạnh tranh và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chính điều này sẽ làm cho chính sách thuế trở nên phức tạp, không trung lập do có nhiều trường hợp miễn giảm. Một hệ thống thuế với nhiều điều khoản khuyến khích sẽ tạo ra nhiều kẽ hở và đó là mảnh đất màu mỡ cho những hoạt động trốn thuế. Hơn nữa, những khuyến khích của thuế mà thiếu đi những nền tảng hỗ trợ cần thiết khác thì hiệu lực của nó không cao. Điều quan trọng ở đây, cần phải giới hạn mục tiêu của thuế và giới hạn sự khuyến khích của thuế, đồng thời phải kết hợp với nhiều công cụ kinh tế để cạnh tranh và thu hút vốn . Yêu cầu của cải cách thuế ở Việt Nam - Cải cách hệ thống thuế phải phù hợp với chương trình, nội dung cải cách hệ thống thuế đã được phê duyệt trong chiến lược cải cách thuế của từng giai đoạn. Cải cách chính sách thuế cần quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới chính sách thuế “…Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và cam kết quốc tế. Bổ sung, hoàn thiện, đơn giản hóa các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Áp dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển. Hiện đại hóa công tác thu thuế và tăng cường quản lý của Nhà nước.” (Văn kiện Đại hội Đảng lần IX – Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010).  - Chính sách động viên của thuế cần tôn trọng kỷ luật tài chính tổng thể. Nguồn lực tài chính của nền kinh tế là giới hạn, do vậy mức huy động của thuế cũng phải có sự giới hạn. Với thực trạng là một quốc gia đang phát triển, nhu cầu chi tiêu của ngân sách rất lớn và áp lực cân đối ngân sách là không nhỏ, nhưng không phải thế là tận thu để bao chi. Làm như vậy sẽ phá vỡ tính kỷ luật tài chính tổng thể, gây kìm hãm, không kích thích đầu tư, tiết kiệm của khu vực doanh nghiệp và dân cư. Thuế không vì mục tiêu cân đối ngân sách trước mắt, mà quan trọng phải hướng vào mục tiêu cao hơn và xa hơn đó là thúc đẩy đầu tư, vực dậy nền kinh tế, thoát khỏi tình trạng yếu kém và đuổi kịp các nước trong khu vực.  Đối với một quốc gia, mức thu của thuế bao nhiêu là hợp lý. Thật ra cho đến nay, lý thuyết thuế tối ưu cung cấp rất ít hướng dẫn thực tế để xác định mức thuế hợp lý cho một quốc gia. Nhưng thay vào đó, bằng những phương pháp thống kê, các nhà kinh tế tiến hành phân tích các dữ liệu và so sánh mức thuế của một quốc gia cụ thể với gánh nặng thuế trung bình của một số nhóm đại diện các quốc gia phát triển và đang phát triển, đồng thời quan tâm đến một vài tham số kinh tế – xã hội giống nhau và khác nhau của những quốc gia này. Kết quả là hầu hết các dữ liệu cho thấy mức thuế của các quốc OECD gấp đôi các nước đang phát triển.    - Chính sách phải hình thành một cơ cấu thuế hợp lý nhằm tăng cường nguồn thu và vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước. Cải cách thuế cần tập trung vào việc thu hẹp những bóp méo của thuế, đi đôi với việc mở rộng cơ sở thuế và hạ thấp thuế suất. Đồng thời, chính sách thuế phải bao quát hết tất cả nguồn thu, cần đưa vào áp dụng các loại thuế mới để quản lý nguồn thu và năng cao vai trò điều tiết: như thuế tài sản, thuế môi trường.  Cơ cấu của hệ thống thuế phải có những thay đổi thích hợp cho phù với sự phát triển kinh tế. Trong xu hướng hội nhập, thuế đánh vào thương mại quốc quốc tế sẽ giảm dần, thay vào đó chính sách thuế cần nỗ lực gia tăng thuế thu nhập cá nhân để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Đồng thời thuế GTGT cần được tăng cường và kết hợp với thuế TTĐB để điều tiết sản xuất - tiêu dùng và đảm trách tốt vai trò bảo hộ sản xuất trong nước.     - Chính sách thuế phải góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa trong điều kiện Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới. Thực hiện cải cách thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, minh bạch, trung lập, không phân biệt các thành phần kinh tế; đồng thời tháo dỡ dần chính sách bảo hộ bằng việc xóa bỏ hàng rào phi thuế quan, cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ là những bước đi quan trọng nhằm gây sức ép, buộc các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh. Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường trong nước lẫn quốc tế. Nhu cầu tích tụ vốn để phát triển và đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp là rất lớn và cấp bách. Vì vậy, chính sách thuế cần được điều chỉnh cho hợp lý hơn nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường tích tụ vốn và đầu tư thay đổi công nghệ, hiện đại hóa sản xuất, hạ thấp giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, bồi dưỡng nguồn thu, tăng thu nội địa cho NSNN.   - Hệ thống thuế phải đơn giản, ổn định, mang tính luật pháp cao và có sự tương đồng với khu vực và thông lệ quốc tế. Thuế phải được phân nhiệm rõ ràng theo hướng chuyên môn hóa chức năng và thống nhất hóa mục tiêu nhằm khắc phục tình trạng đa mục tiêu trong một sắc thuế. Theo đó, cần đi sâu hoàn thiện các kỹ thuật thu thuế một cách thích hợp và đồng bộ nhằm đảm bảo hiệu quả tối ưu của mỗi loại thuế cũng như cả hệ thống thuế. Các quy định của luật thuế cần đơn giản, rõ ràng phù hợp với trình độ của bộ máy quản lý thuế cũng như người nộp thuế, đảm bảo tính dễ hiểu, dễ chấp hành và dễ kiểm tra. Đồng thời, trong bối cảnh hội nhập, hệ thống thuế Việt Nam phải có sự tương đồng với quốc tế về một số loại thuế có liên quan đến thương mại và đầu tư quốc tế.  Mục tiêu của cải cách thuế ở Việt Nam Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 (được Bộ Chính trị thông qua và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 201/2004/QĐ-TTg ngày 6-12-2004) là một chiến lược cải cách sâu rộng và đồng bộ, khắc phục những mặt hạn chế trong công tác quản lý thuế. Đồng thời, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và thực hiện thắng lợi hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu tổng quát của cải cách hệ thống thuế của Việt Nam là: Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, có cơ cấu hợp lý phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời với hiện đại hoá công tác quản lý thuế nhằm đảm bảo chính sách động viên thu nhập quốc dân của Đảng và Nhà nước, đảm bảo nguồn lực tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội. Một là: Chính sách thuế, phí phải là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, vừa động viên được các nguồn lực đồng thời thúc đẩy phát triển nhanh sức sản xuất; khuyến khích xuất khẩu; khuyến khích đầu tư; khuyến khích đổi mới công nghệ; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.  Hai là: Chính sách thuế phải huy động đầy đủ các nguồn thu vào NSNN, đảm bảo nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước và dành một phần cho tích lũy phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực hiện tỷ lệ động viên thuế và phí vào NSNN bình quân hàng năm đạt 20-21% GDP. Trong cơ cấu thu ngân sách, thuế gián thu vẫn chiếm tỷ trọng lớn (năm 2001 là 41,4%, năm 2010 khoảng 56,6%). Thuế gián thu tăng chủ yếu là do tăng trưởng chuyển dịch kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ; Thuế trực thu tăng nhưng thấp hơn thuế gián thu (2001 là 21,6%, năm 2010 là 24,4%) do hiệu quả nền kinh tế chưa cao. Mặt khác, Nhà nước vẫn cần tiếp tục miễn, giảm thuế TNDN để khuyến khích đầu tư, khuyến khích những ngành, nghề, lĩnh vực và các địa bàn kém phát triển, có điều kiện khó khăn và đặc biệt khó khăn. Tỷ trọng các loại phí tăng nhưng không nhiều (năm 2001 là 7,1%, năm 2010 khoảng 8,2%) do sắp xếp lại các khoản phí, lệ phí và xoá bỏ các khoản phí, lệ phí không phù hợp. Các nguồn thu khác giảm do thực hiện chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước. Miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp để khoan sức dân, tạo điều kiện phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Không thu sử dụng vốn NSNN để doanh nghiệp Nhà nước có thêm vốn đầu tư  phát triển sản xuất kinh doanh. Ba là: Chính sách thuế phải phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện bảo hộ hợp lý, có chọn lọc, có thời hạn, có điều kiện, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế để thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo đảm lợi ích quốc gia. Bốn là: Chính sách thuế phải từng bước tạo môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng. Áp dụng hệ thống thuế thống nhất không phân biệt các thành phần kinh tế khác nhau. Năm là: Đẩy mạnh cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai; tách dần chính sách xã hội ra khỏi chính sách thuế; nhanh chóng hiện đại hoá và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý thuế; khắc phục các hiện tượng tiêu cực, yếu kém trong quản lý thuế; kiện toàn bộ máy quản lý thuế trong sạch, vững mạnh.         1.7 Nội dung của cải cách thuế ở Việt Nam Cải cách thuế trong giai đoạn hiện nay là ban hành một số chính sách thuế mới và tiếp tục bổ sung, sửa đổi các chính sách thuế hiện hành. Các sắc thuế mới sẽ được nghiên cứu ban hành là: Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử, thuế nhà đất, thuế tài sản. Các sắc thuế sẽ được sửa đổi, bổ sung là những sắc thuế hiện hành, bao gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thuế thu nhập cá nhân (TNCN), thuế GTGT, thuế xuất nhập khẩu, thuế TTĐB, thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp. THỰC TIỄN CẢI CÁCH THUẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1990-2010 Kể từ đầu thập niên 1990, hệ thống chính sách thuế của Việt Nam đã trải qua nhiều bước phát triển khác nhau. Trong giai đoạn 2001-2010, kế thừa kết quả của các giai đoạn cải cách trước đó (Cải cách thuế bước 1 từ năm 19990-1995 và Cải cách thuế bước 2 từ năm 1996-2000), hệ thống chính sách thuế của Việt Nam tiếp tục được đổi mới trên nhiều phương diện. Việc thực hiện cải cách trong giai đoạn này được gắn với các mục tiêu và yêu cầu xác định trong Chương trình cải cách thuế đến năm 2010 đã được phê duyệt, theo đó, nội dung nhiều sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế liên tục được hoàn thiện, sửa đổi và bổ sung. Những sửa đổi này cùng với các biện pháp cải cách về chính sách vĩ mô và về thể chế đã góp phần quan trọng trong việc tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, khuyến khích đầu tư, thúc đẩy xuất khẩu và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình cải cách hệ thống chính sách thuế Việt Nam về cơ bản đã tuân thủ theo các nguyên tắc chung về cải cách thuế đã được thừa nhận qua thực tiễn cải cách ở nhiều nước trên thế giới, đó là thực hiện mở rộng cơ sở tính thuế, giảm thuế suất và đơn giản hóa phương thức tính thuế, kê khai thuế và nộp thuế. Trong quá trình này, từng sắc thuế trong hệ thống chính sách thuế đã được cải cách khá đồng bộ, trong đó đáng chú ý là các biện pháp cải cách về chính sách thuế thu nhập, chính sách thuế tiêu dùng. Cải cách thuế bước 1, giai đoạn 1990-1996 Yêu cầu đặt ra đối với cải cách thuế bước 1 là: hình thành một hệ thống thuế thống nhất, áp dụng cho tất cả các thành phần kinh tế; hệ thống thuế mới đảm bảo huy động các nguồn thu chủ yếu đáp ứng nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước; hệ thống thuế phải kích thích phát triển kinh tế; chính sách thuế thực hiện công bằng, đối xử bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các thành phần kinh tế; Tăng cường tính luật hóa của thuế nhằm đảm bảo tính thống nhất của chính sách thuế; Hệ thống thuế phải giản đơn, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra và phải phù hợp dần với thông lệ quốc tế. Với các yêu cầu nêu trên, từ năm 1991 đến 1996, Việt Nam đã ban hành nhiều sắc thuế dưới hình thức luật và pháp lệnh, hình thành nên một hệ thống thuế tương đối hoàn chỉnh về chức năng và áp dụng thống nhất cho mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên cải cách thuế bước 1 vẫn còn nhiều bất cập, điển hình nhất là hệ thống thuế quá chồng chéo, trùng lắp và phức tạp. Cải cách thuế bước 2, giai đoạn 1997-2001 Mục tiêu cơ bản của giai đoạn này là: Cải cách thuế không được làm giảm nguồn thu của ngân sách nhà nước; hệ thống thuế phải góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa; hệ thống thuế từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế; hệ thống thuế phải đơn giản và minh bạch. Điểm nhấn quan trọng trong cải cách thuế bước 2 là sự ra đời của thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp. Trải qua hai bước cải cách thuế từ năm 1990-2001, hệ thống chính sách thuế Việt Nam đã có tính hệ thống và pháp lý cao. Hệ thống thuế đã đáp ứng cơ bản những nguyên tắc của lý thuyết thuế chuẩn tắc: tính hiệu quả và nguồn thu của NSNN, tính công bằng và tính hội nhập quốc tế. Hệ thống thuế đã góp phần thúc đấy kinh tế phát triển: khuyến khích đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh; khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất hàng hóa trong nước và cơ cấu lại nền kinh tế. Tuy vậy về cơ bản hệ thống thuế vẫn chưa khắc phục những nhược điểm cơ bản của hệ thống thuế được tổng kết khi kết thúc cải cách bước 1. Hệ thống thuế vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Thứ nhất là về cơ cấu hệ thống thuế còn nhiều bất cập. Hệ thống nguồn thu NSNN lệ thuộc nhiều vào thuế xuất nhập khẩu và bán dầu thô. Nguồn thu nghiêng hẳn về thuế gián thu. Hệ thống thuế chưa tiên liệu đầy đủ những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ hai là hệ thống thuế vẫn còn kém hiệu quả: tỷ lệ thuế cận biên thuế thu nhập doanh nghiệp còn cao; mức thuế lũy tiến cận biên của thuế thu nhập cá nhân cao; các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng dẫn tới việc không mang lại hiệu quả về chi phí, không thu được tỷ suất lợi nhuận cao, khuyến khích các doanh nghiệp có xu hướng chia nhỏ hay chuyển đổi thành nhiều doanh nghiệp nhỏ. Thứ ba là hệ thống thuế còn có những quy định phức tạp và tính đa mục tiêu của hệ thống thuế. Thứ tư là tình trạng trốn thế và tránh thuế chưa thể giải quyết một cách triệt để. Cải cách thuế bước 3, giai đoạn từ năm 2002-2010 Sự thành công của các lần cải cách chính sách thuế trong thời gian trước đã giúp Việt Nam có nhiều kinh nghiệm, tuy nhiên cũng không ít khó khăn trong cải cách thuế bước 3, đó là: cơ cấu kinh tế không đồng bộ làm cho việc thu thuế, đánh thuế có những khó khăn nhất định; khả năng thu thuế còn nhiều hạn chế; hệ thống thông tin yếu kém, nghèo nàn về cơ sở dữ liệu làm hạn chế hiệu quả công tác quản lý thu thuế. Cải cách hệ thống thuế bước 3 được tiến hành trong bối cảnh nền kinh tế đang bước vào giai đoạn quan trọng của hội nhập quốc tế. Yêu cầu trọng tâm của cải cách thuế bước 3 là hướng vào mục tiêu và quan điểm sau: Hệ thống thuế phải góp phần lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô. Hệ thống thuế góp phần mở rộng và phát triển khu vực kinh tế tư nhận; nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút vốn đầu tư của nền kinh tế. Thuế phải phát huy chức năng là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả. Đến năm 2010, hệ thống chính sách thuế của Việt Nam đã có các sắc thuế sau: Thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế xuất nhập khẩu, thuế TNDN, thuế TNCN, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế bảo vệ môi trường, pháp lệnh thuế sử dụng đất nông nghiệp. 2. 3.1 Đối với Thuế Thu nhập Trong chính sách thuế thu nhập, cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân đều đã được sửa đổi căn bản. Cụ thể, đối với thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), Việt Nam đã thực hiện từng bước việc giảm dần mức thuế suất phổ thông từ 32% xuống 28% và từ 1/1/2009 là 25% và được áp dụng thống nhất đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bỏ thuế thu nhập bổ sung và thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Đồng thời, chính sách ưu đãi thuế TNDN cũng được cải cách theo hướng đơn giản hơn. Các chính sách ưu đãi không phù hợp với quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng đã được xóa bỏ. Nhìn chung, những điều chỉnh về chính sách thuế TNDN của Việt Nam nằm trong xu hướng cải cách thuế trên thế giới thời gian qua khi mà việc giảm thuế suất, đơn giản hóa chính sách thuế TNDN đã trở thành một trào lưu chung được nhiều quốc gia thực hiện. Năm 2000 đến nay, Úc đã giảm mức thuế suất thuế TNDN từ 34% xuống 30%, ở Đức từ 50% xuống 29%. Nhiều nước trong khu vực Châu Á cũng đã thực hiện việc điều chỉnh giảm thuế suất thuế TNDN. Cụ thể năm 2009, Hàn Quốc đã giảm thuế suất thuế thuế TNDN từ 25% xuống 22%. Singapore cũng đã thực hiện giảm dần từng bước mức thuế suất thuế TNDN, từ mức 26% năm 2000 xuống 18% năm 2009 và từ năm 2010 giảm tiếp xuống 17%. Từ năm 2008, Trung Quốc cũng giảm thuế suất thuế TNDN đối với các doanh nghiệp trong nước từ 33% xuống 25% và áp dụng thống nhất. Hình 1. Diễn biến điều chỉnh thuế suất Thuế TNDN của một số nước (Nguồn : OECD 2010) Đối với thuế thu nhập cá nhân (TNCN): Việt Nam cũng đã từng bước giảm dần mức thuế suất lũy tiến cao nhất trong biểu thuế, từ 50% xuống 40% và từ 10/10/2009 xuống còn 35% và giảm mức thuế suất khởi điểm từ 10% xuống 5%, áp dụng thống nhất với người Việt Nam và người nước ngoài. Đồng thời, phạm vi thu nhập chịu thuế cũng đã được mở rộng hơn, bao quát hơn so với trước. Tương tự như thuế TNDN, những điều chỉnh về thuế TNCN của Việt Nam cơ bản cũng phù hợp xu hướng chung về cải cách thuế TNCN hiện nay. Trong những năm gần đây, nhiều nước trên thế giới cũng đã thực hiện giảm dần mức thuế suất lũy tiến cao nhất trong biểu thuế TNCN của mình, nhất là các nước phát triển. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến xu hướng nói trên là tác động của quá trình toàn cầu hóa, các rào cản đối với sự di chuyển của vốn và lao động từng bước được dỡ bỏ. Nhiều nước đã sử dụng chính sách thuế thu nhập như là một công cụ để thu hút vốn và nguồn lao động có chất lượng cao từ bên ngoài. Cạnh tranh thuế quốc tế giữa các nước cũng được xem là một nhân tố quan trọng khác dẫn đến các điều chỉnh về chính sách thuế TNDN và TNCN. Hình 2. Mức thuế suất thuế TNCN cao nhất trong biểu thuế TNCN ở một số nước (Nguồn OECD năm 2010). 2.3.2 Đối với thuế tiêu dùng Trong giai đoạn 2001- 2010, Việt Nam đã thực hiện sửa đổi khá nhiều nội dung của thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB). Về thuế GTGT, đã thực hiện thu hẹp một bước số lượng nhóm hàng hóa và dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT, xóa bỏ mức thuế suất 20%. Đối với thuế TTĐB đã bổ sung thêm 3 nhóm hàng hóa vào diện chịu thuế và điều chỉnh mức thuế suất đối với một số nhóm mặt hàng. Ngoài ra, các quy định có tính chất phân biệt đối xử áp dụng trước đây theo hướng có lợi hơn cho các doanh nghiệp trong nước không phù hợp các quy định của thương mại quốc tế đã được xóa bỏ hoàn toàn, ví dụ như quy định giảm thuế suất thuế TTĐB cho ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước, quy định phân biệt về thuế suất thuế TTĐB giữa thuốc lá điếu sản xuất bằng nguyên liệu nhập khẩu với nguyên liệu sản xuất trong nước. Chính sách về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng đã được sửa đổi khá toàn diện vào năm 2005. Việc sửa đổi nhìn chung hướng tới việc thực hiện các cam kết quốc tế, khắc phục những bất cập, hạn chế của chính sách thuế xuất nhập khẩu trước đó và đảm bảo tính đồng bộ với các chính sách thuế khác trong hệ thống thuế. Chính sách thuế tài nguyên cũng đã có những điều chỉnh. Với việc ban hành Luật thuế tài nguyên năm 2009, danh mục hàng hóa chịu thuế tài nguyên đã được mở rộng hơn, đồng thời đã thực hiện điều chỉnh tăng khung thuế suất áp dụng đối với nhiều nhóm tài nguyên. Những điều chỉnh này được xem là bước đi cần thiết để tăng mức điều tiết đối với hoạt động khai thác tài nguyên trước xu hướng giá tài nguyên tăng mạnh trong những năm gần đây, góp phần nâng cao tính hiệu quả trong việc khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên quốc gia. 2.3.3 Đối với cải cách thủ tục hành chính thuế Nhằm thống nhất, đồng bộ thủ tục hành chính (TTHC) thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế và cơ quan thuế trong triển khai thực hiện công tác quản lý thuế, Luật quản lý thuế được ban hành. Trên cơ sở đó, trong giai đoạn từ năm 2005 đến nay, ngành Thuế đã triển khai đồng bộ các chương trình, giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính thuế ở tất cả các khâu: đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế và thủ tục mua hóa đơn… Đây cũng là cơ sở pháp lý để cơ quan thuế tổ chức lại bộ máy quản lý, bảo đảm thực hiện có hiệu quả cơ chế cơ sở sản xuất, kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế, nhằm khuyến khích sự tuân thủ, tự nguyện trong thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế. Nhằm đơn giản hóa TTHC trong lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010, Bộ Tài chính đã công bố Bộ TTHC thuộc lĩnh vực thuế, phí, lệ phí, gồm 330 thủ tục và công khai trên các trang thông tin điện tử của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế, cơ quan thuế các cấp để doanh nghiệp và người dân biết và dễ dàng thực hiện; đồng thời, kiểm soát việc thực thi theo đúng quy định, tránh sự tùy tiện gây phiền hà cho người nộp thuế. Kiến nghị đơn giản hóa 271/330 TTHC, trong đó kiển nghị sửa đổi, bổ sung 261 thủ tục, thay thế 6 thủ tục và bải bỏ 4 thủ tục, tiết kiệm cho cá nhân, tổ chức 1.921 tỷ đồng /năm. Bộ Tài chính đã kiến nghị đơn giản hóa 35 thủ tục, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc cho doanh nghiệp cắt giảm được 1.582 tỷ đồng/năm. Về thủ tục hóa đơn, cho phép các doanh nghiệp tự in ấn và sử dụng hóa đơn, chỉ cần thông báo mẫu hóa đơn tự in cho cơ quan thuế trước khi sử dụng. Cơ quan thuế chỉ quy định các thông tin chính trên hóa đơn để phục vụ mục tiêu quản lý. Hồ sơ mua hóa đơn được đơn giản hóa đến mức thấp nhất; với phương án này dự kiến tiết kiệm gần 400 tỷ đồng/năm. Thủ tục đăng ký thuế được cải tiến, đẩy mạnh đăng ký thuế qua mạng và đơn giản hóa các mẫu khai đang ký thuế phù hợp. Đối với thủ tục về khai thuế, nộp thuế GTGT được cải cách theo hướng phân loại đối tượng để giảm số lần kê khai theo tháng xuống còn ba tháng hoặc sáu tháng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Riêng đối với thủ tục hoàn thuế, hồ sơ hoàn thuế được tách làm hai loại: hoàn thuế gắn liền với hồ sơ khai thuế trong các trường hợp hoàn thuế phát sinh ngay từ khâu tính thuế, quyết toán thuế và hoàn thuế cần phải làm hồ sơ đề nghị hoàn riêng như một TTHC độc lập áp dụng đối với các trường hợp hoàn thuế liên quan các số liệu lịch sử. KẾT QUẢ CẢI CÁCH THUẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2002-2010. Sự thay đổi về quy mô và cơ cấu động viên NSNN Quy mô thu NSNN tính theo GDP (giá hiện hành) giai đoạn 2001-2010 đã tăng cao hơn đáng kể so với giai đoạn 10 năm trước đó. Tỷ trọng động viên NSNN so với GDP đã tăng từ 21,6% năm 2001 lên mức cao kỷ lục 29,1% năm 2008. Năm 2009, quy mô thu NSNN giảm xuống so với các năm trước đó sau khi một loạt các chính sách kích thích tài khóa (chính sách về giảm, giãn và miễn thuế TNDN, TCCN và GTGT) được áp dụng để đối phó với suy thoái kinh tế toàn cầu. Năm 2010, quy mô thu NSNN bắt đầu có xu hướng khôi phục trở lại, ước đạt khoảng 26,7% GDP (giá hiện hành) (Hình 3). Hình 3. Mức độ động viên NSNN của Việt Nam (% GDP tính theo giá hiện hành)(Nguồn: Tính toán theo số liệu của Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê). Tính bình quân, giai đoạn 2001-2010, tỷ lệ động viên NSNN so với GDP tính theo giá hiện hành ước đạt 26,3%, trong đó, thu từ thuế, phí và lệ phí ước đạt xấp xỉ 24% GDP (bao gồm cả thuế đối với hoạt động khai thác dầu thô). Việt Nam là một trong những nước hiện có tỷ lệ động viên ngân sách khá cao (Hình 4). Hình 4. Tỷ lệ động viên NSNN từ thuế của một số nước so với GDP (tính theo giá thỏa thuận)(Nguồn: Tính toán theo số liệu của IMF năm 2010). Hình 5. Quy mô tổng thu NSNN và của một số sắc thuế năm 2010 so với năm 2001 (năm 2001 = 1 lần).(Nguồn: Tính toán theo số liệu của Bộ Tài chính). Bên cạnh sự mở rộng về quy mô, cơ cấu động viên ngân sách cũng đã có một số chuyển biến tích cực th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhom 1-De tai 6.doc
  • docNhom 1-De tai 6 (trang bia).doc
  • pptNhom 1-De tai 6.ppt
Tài liệu liên quan