Chương 1: Cơ sở lý luận
1.1. Lý thuyết liên quan
1.1.1. Lý thuyết biến đổi xã hội
1.2. Các khái niệm công cụ.
1.2.1. Khái niệm lao động
1.2.2. Nông thôn
1.2.3. Nghề nghiệp
1.2.4. Cơ cấu nghề nghiệp
1.2.5. Khái niệm đô thị hóa
1.2.6. Khái niệm chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp
Chương 2: Thực trạng chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp của lao động nông thôn dưới tác động của đô thị hóa.
2.1. Khái quát chung tình hình thu hồi đất nông nghiệp hiện nay
2.2. Quá trình chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp lao động nông thôn
2.2.1. Tình hình chung
2.2.2. Cơ cấu nghề nghiệp xét theo địa bàn dân cư
2.2.3. Cơ cấu nghề nghiệp xét theo hộ gia đình
2.2.4. Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế
2.2.5. Xu hướng vận động chung của quá trình chuyển đổi nghề nghiệp
2.3. Ảnh hưởng của việc chuyển đổi nghề nghiệp tới đời sống người lao động
2.3.1. Ảnh hưởng tới đời sống vật chất
2.3.2. Ảnh hưởng tới đời sống tinh thần
Chương 3: Những tồn tại và hạn chế của quá trình đô thị hóa. Một số giải pháp nhằm góp phần phát triển nông thôn Việt Nam hiệu quả và bền vững
3.1. Những tồn tại và hạn chế của quá trình đô thị hóa
3.2. Một số giải pháp nhằm góp phần phát triển nông thôn Việt Nam hiệu quả và bền vững
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6173 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp của lao động nông thôn dưới tác động của đô thị hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t triển nông thôn Việt Nam hiệu quả và bền vững
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lý thuyết liên quan
1.1.1. Lý thuyết biến đổi xã hội
Mọi xã hội đều không ngừng biến đổi, sự ổn định chỉ là bề ngoài mang tính tạm thời. Ở xã hội hiện đại sự biến đổi càng rõ rệt và nhanh hơn. Ở nước ta trong những năm gần đây cùng với sự mở rộng giao lưu với các quốc gia và vùng lãnh thổ của các nước khác nhau trên thế giới nền kinh tế có những bước khởi sắc từng ngày. Hiện nay, Đảng và Nhà nước đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại. Cùng với những chính sách đó là quá trình đô thị hóa được đẩy mạnh ở từng địa phương. Sự tác động của quá trình đô thị hóa góp phần vào việc chuyển đổi nghề nghiệp của lao động nông thôn. Có nhiều quan điểm chỉ cho rằng biến đổi xã hội chỉ là những thay đổi của đông đảo cá nhân trong xã hội hay sự biến đổi, chuyển đổi của các tổ chức, tầng lớp xã hội thì đây mới được coi là sự biến đổi xã hội. Theo Từ điển xã hội học “Biến đổi xã hội là sự thay đổi có ý nghĩa về mặt cơ cấu xã hội (đó là hành động xã hội và tương tác xã hội) kể cả hậu quả và biểu thị của những cơ cấu biểu hiện ở các chuẩn mực giá trị của các sản phẩm và các biểu trưng văn hóa. Hay có thể nói biến đổi xã hội là một quá trình qua đó các khuôn mẫu của hành vi xã hội, quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội và phân tầng xã hội cũng biến đổi theo thời gian.
1.2. Các khái niệm công cụ.
1.2.1. Khái niệm lao động
Lao động là yếu tố đầu vào không thể thiếu trong quá trình sản xuất,lao động giữ vai trò quan trọng làm môi giới cho sự trao đổi.
Lao động chính là việc sử dụng sức lao động của các đối tượng lao động.Sức lao động là toàn bộ trí lực và sức lực của con nguời được sử dụng trong quá trình lao động .Sức lao động là yếu tố tích cực nhất, hoạt động nhiều nhất để tạo ra sản phẩm. Nếu coi sản xuất là một hệ thống bao gồm ba bộ phận tạo thành (các nguồn lực, quá trình sản xuất, sản phẩm hàng hoá) thì sức lao động là một trong các nguồn lực khởi đầu của một quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm hàng hoá.
1.2.2. Nông thôn
Nông thôn là địa bàn rộng lớn là nơi tập trung đông dân cư sinh sống chủ yếu bằng nghề sản xuất nông nghiệp là chính.
Nông thôn là vùng địa lý cư trú gắn với thiên nhiên, khác hẳn thành thị, với dân cư chủ yếu là nông dân, ngành nghề chủ yếu là nông nghiệp và có lối sống riêng, văn hóa riêng.
1.2.3. Nghề nghiệp
“Nghề là công việc chuyên làm theo sự phân công lao động trong xã hội”. Theo khái niệm này nghề là một công việc thỏa mãn hai điều kiện:
Là công việc chuyên làm, công việc đó được xác định bởi công lao động trong xã hội, khi nói tới yếu tố chuyên làm người ta muốn nói tới hai khía cạnh là tính lâu dài về mặt thời gian và tính chuyên trách. Còn khi nói về điều kiện phân công lao động trong xã hội người ta muốn nhắc tới sự đánh giá xã hội về công việc này.
“Nghiệp là nghề làm ăn sinh sống hay đó là cách viết tắt của sự nghiệp”.
Nếu như khái niệm nghề nhấn mạnh tới sự phân công lao động từ bên ngoài thì khái niệm nghiệp nhấn mạnh tới ý thức chủ quan của chủ thể. Khi nói tới nghề người ta chú ý đến hai yếu tố thời gian hành nghề và trình độ chuyên môn nhưng chưa chú ý tới mục tiêu của sự hành nghề. Còn từ nghiệp thì bao hàm ý thức mục tiêu của chủ thể, mà cụ thể là mục tiêu kiếm sống. Vì vậy không phải từ nghề nào cũng trở thành “nghiệp”. “Nghề” chỉ trở thành nghiệp khi nào nghề đó chỉ trở thành một phương tiện làm ăn kiếm sống, sự hành nghề đó là mục tiêu kiếm sống.
1.2.4. Cơ cấu nghề nghiệp.
Cơ cấu nghề nghiệp: là tổng thể các mối quan hệ chủ yếu về chất lượng và số lượng tương đối ổn định của các nghề nghiệp trong một hệ thống kinh tế - xã hội và trong một khoảng thời gian nhất định.
Cơ cấu nghề nghiệp luôn gắn với sự phân công lao động xã hội, là sự chuyên môn hóa theo ngành của các tập đoàn xã hội, thực hiện các chức năng của mình trong khuôn khổ của tổ chức sản xuất xã hội chung của tổ chức sản xuất của một ngành nghề nào đó trong nền kinh tế xã hội.
Đặc điểm chủ yếu của sự phân công lao động theo ngành nghề là sự phân công dựa vào hai tiêu chí: trình độ tay nghề và điều kiện lao động.
1.2.5. Khái niệm đô thị hóa
Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị tính theo tỷ lệ phần trăm giữa dân số đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng hay một khu vực”. Nó cũng có thể tính theo tỷ lệ gia tăng của hai yếu tố đó theo thời gian. Nếu tính theo cách thứ nhất thì nó còn được gọi là mức độ đô thị hóa còn theo cách thứ hai gọi là tốc độ đô thị hóa.
Đô thị hóa được hiểu theo hai chiều:
- Chiều hướng 1: là sự chuyển đô thị vào nông thôn nội thị xã, thị trấn tăng trưởng thị dân của một thành phố tăng dân số cơ học, mở rộng các quy hoạch đô thị ra vùng ven, xây dựng và thiết lập các đô thị mới.
- Chiều hướng 2: Nông thôn hóa đô thị tức là đô thị sẽ khôi phục lại kiểu mẫu xã hội truyền thống của xã hội nông thôn. Do đặc điểm của nền văn hóa chung, ngôn ngữ chung của một xã hội như nhà ở, tôn giáo.
1.2.6. Khái niệm chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp
Là sự thay đổi từng bước từ nghề nghiệp này sang nghề nghiệp khác mà không gây xáo trộn.
Chuyển đổi nghề nghiệp dưới tác động của quá trình đô thị hóa là quá trình biến đổi nghề nghiệp của lao động từ lao động chủ yếu từ làm nông nghiệp sang chuyển sang các ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ và giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp
Trong quá chuyển đổi nghề nghiệp không chỉ đơn thuần chuyển từ ngành nghề này sang ngành khác của người dân mà còn làm thay đổi cơ cấu của trong từng ngành, giúp cho các ngành phù hợp với cơ chế hiện nay.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU NGHỀ NGHIỆP LAO ĐỘNG NÔNG THÔN DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA
2.1. Khái quát chung về tình hình thu hồi đất nông nghiệp hiện nay
Tính đến ngày 1-1-2008 (hiện trạng năm 2007), diện tích đất nông nghiệp của cả nước là 24.997.000 ha, trong đó diện tích đất đã giao cho các đối tượng sử dụng là 21.455.931 ha. Đối tượng đang sử dụng phần lớn diện tích đất nông nghiệp là các hộ gia đình, cá nhân (khoảng 58,88%); tiếp đến là tổ chức trong nước (40,26%); tổ chức, cá nhân nước ngoài chỉ sử dụng 0,1% diện tích đất nông nghiệp đã giao cho các đối tượng sử dụng. Tổng số diện tích đất trên chia làm 3 loại chính: đất sản xuất nông nghiệp (khoảng 9,4 triệu ha), đất lâm nghiệp (14,8 triệu ha) và đất nuôi trồng thủy sản (728.577 ha)
Đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nên việc chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp, hay nói cách khác là việc thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án đầu tư ở nước ta tất yếu diễn ra mạnh mẽ. Theo báo cáo không đầy đủ của 49 tỉnh, thành phố, từ ngày 1-7-2004 đến nay, đã thu hồi gần 750.000 ha đất để thực hiện hơn 29.000 dự án đầu tư. Trong tổng số đất thu hồi trên có hơn 80% là đất nông nghiệp. Hiện có khoảng 50% diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi nằm trong các vùng kinh tế trọng điểm, nơi đất đai màu mỡ cho 2 vụ lúa/năm.
Những địa phương có tốc độ phát triển nhanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh, cũng là nơi có diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi nhiều, như: Tiền Giang (20.300 ha), Đồng Nai (19.700 ha), Bình Dương (16.600 ha), Hà Nội (7.700ha), Vĩnh Phúc (5.500ha).
Hiện nay, cả nước có 12 triệu hộ gia đình, nhưng chỉ có 9,4 triệu ha đất sản xuất nông nghiệp, bình quân mỗi hộ chỉ có 0,7 - 0,8 ha, mỗi lao động có 0,3 ha và mỗi nhân khẩu có 0,15 ha. Ở đồng bằng Bắc Bộ con số này còn thấp hơn. Càng ít đất người nông dân càng khó có điều kiện tích lũy để đào tạo nghề và chuyển dịch cơ cấu lao động... Cái vòng luẩn quẩn đó đang đeo đẳng phần đông nông dân nước ta.
(Trích nguồn: Tổng cục thống kê)
2.2. Quá trình chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp lao động nông thôn
2.2.1. Tình hình chung.
Quá trình đô thị hóa đang diễn ra rất mạnh mẽ, nó có ảnh hưởng rộng khắp trong phạm vi cả nước. Đô thị hóa tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội như có đất xây dựng các khu công nghiệp, phát triển nhanh các ngành nghề dịch vụ. Nhưng bên cạnh đó đất nước cũng phải giải quyết tình trạng mất đất sản xuất nông nghiệp của phần lớn các hộ gia đình mà với đặc trưng của nước ta là một nước thuần nông. Vì vậy vấn đề đặt ra hiện nay là giải quyết việc làm cho phần lớn hộ gia đình bị đất sản xuất nông nghiệp. Cùng với đó là tạo những điều kiện tốt nhất để người nông dân thích nghi với tình hình mới của quá trình đô thị hóa. Đi liền với điều này là thay đổi tư tưởng làm ăn nhỏ lẻ, manh mún, thiếu tính kỷ luật. Đào tạo và nâng cao trình độ, chất lượng nguồn lao động để có thể đáp ứng được nhu cầu lao động của quá trình đô thị hóa. Vì vậy việc chuyển đổi nghề nghiệp lao động nông thôn là một xu thế tất yếu trong thời gian tới. Đây là một việc không hề đơn giản và cần có thời gian nghiên cứu hoạch định và đưa ra các chính sách phù hợp nhất. Vì có rất nhiều vấn để phức tạp đã nảy sinh trong quá trình triển khai như lao động thiếu trình độ, thiếu vốn.
2.2.2. Cơ cấu nghề nghiệp xét theo địa bàn dân cư
Có ba loại chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp lao động ở nông thôn như sau:
- Loại 1: Nhóm có sự giảm mạnh hoạt động thuần nông, tăng cường hoạt động phi nông nghiệp.
- Loại 2: Nhóm lấy nông nghiệp là chính song đang chuyển mạnh sang sản xuất kinh doanh hỗn hợp.
- Loại 3: Nhóm lấy nông nghiệp là chính tuy có chuyển đổi ít nhiều lao động sang các dạng khác song nhóm hộ thuần nông vẫn còn khá phổ biến.
Với loại 1: Có sự giảm mạnh hoạt động thuần nông, tăng cường hoạt động phi nông nghiệp, đặc biệt là tăng mạnh hoạt động kết hợp nghề nghiệp chính và một hoặc nhiều nghề nghiệp khác. Đây là loại có cơ cấu nghề nghiệp rất đa dạng vì ngoài sản xuất nông nghiệp, người lao động còn làm các nghề khác. Chính điều này đã tạo ra sự khác biệt giữa các nhóm với nhau về cơ cấu nghề nghiệp cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội. Đây là nhóm phát triển năng động hơn cả ngoài phát triển thế mạnh truyền thống thì còn phát huy các nguồn lực khác để đưa kinh tế đi lên.
Với loại 2: Lấy nông nghiệp là chính song đang định hướng mạnh hoạt động kinh doanh tổng hợp. Điều này có thể lý giải bằng những thuận lợi của nó là có hệ thống giao thông thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán trao đổi hàng hóa phát triển mạnh. Trong cơ cấu nghề nghiệp thì nông nghiệp vẫn là nghề gốc song các hộ có xu hướng chuyển sang hỗn hợp là chính mặc dù ngành nghề nông nghiệp chiếm 70,2%. Đây là xu thế phù hợp với xu thế chung của quá trình phát triển đất nước.
Với loại 3: vốn lấy nông nghiệp làm chính song có sự chuyển dịch ít nhiều lao động sang các dạng khác, nhóm hộ thuần nông vẫn còn rất lớn. Trong khi đó các nhóm hộ phi nông nghiệp và nhóm kết hợp còn nhỏ bé, năng lực yếu kém và chưa hoàn thành nhóm phi nông nghiệp. Đây là nhóm có cơ cấu nghề nghiệp chuyển đổi chậm hơn cả một phần do tư tưởng nông nghiệp đã ăn sâu khó thay đổi và hòa nhập. Nông nghiệp chiếm tỷ lệ khá cao 85.3%.
Sự chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp ở ba nhóm như đã phân tích ở trên là điều tất yếu. Khi mà xã hội có những biến đổi trên nhiều bình diện như trong các ngành kinh tế thì công nghiệp, dịch vụ có xu hướng tăng lên, chính sách nhà nước cũng khuyến khích các ngành phát triển vì vậy mà cơ cấu nghề nghiệp phải có sự thay đổi sao cho phù hợp. Như vậy có thể nói sự biến đổi của xã hội đã tác động đến sự chuyển đổi về cơ cấu nghề nghiệp phân theo địa bàn dân cư. Tuy mỗi nhóm có những thay đổi khác nhau, nhưng điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có những chính sách phát triển kinh tế, sự nhạy bén của các gia đình hay người lao động…
2.2.3. Cơ cấu nghề nghiệp xét theo hộ gia đình
“Hộ gia đình bao gồm những người có quan hệ hôn nhân hay ruột thịt hoặc nuôi dưỡng có quỹ thu chi chung. Mỗi hộ gia đình có đăng ký hộ khẩu ghi rõ số hộ khẩu người chủ hộ và quan hệ những thành viên của chủ hộ”
Như vậy, cơ cấu hộ gia đình được hiểu là quan hệ tỷ lệ cũng như xu hướng vận động và phát triển giữa lực lượng lao động trong các hộ gia đình đang làm việc trong các ngành nghề khác nhau. Có thể nói, nghiên cứu cơ cấu hộ gia đình hiện nay cho ta thấy tính đa dạng và phong phú ngành nghề trong một gia đình và trên cơ sở đó thấy được sự vận động biến đổi của nó dưới tác động của đô thị hóa. Theo nghiên cứu, cơ cấu nghề nghiệp của hộ gia đình tập trung vào ba nhóm sau:
Hộ thuần nông: bao gồm các hoạt động trong các nghề trồng trọt, chăn nuôi.
Hộ hỗn hợp: bao gồm những hộ đang hoạt động trong các ngành nghề như nông nghiệp, nông nghiệp kết hợp với một số nghề nghiệp khác.
Hộ phi nông nghiệp: bao gồm các hộ đang hoạt động trong các ngành nghề ngoài nghề trồng trọt và chăn nuôi.
Theo thống kê của tổng cục thống kê, Cơ cấu hộ nông dân theo ngành nghề đang chuyển dịch theo hướng tăng dần số lượng và tỷ trọng nhóm các hộ tham gia sản xuất phi nông nghiệp, như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; số hộ làm nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 80,9% năm 2001 xuống còn 70,9% năm 2006. Các nghiên cứu đều cho thấy, giai đoạn 2001 - 2006 tốc độ chuyển dịch ấy đã diễn ra nhanh hơn trước. Nếu thời gian này GDP nông nghiệp đóng góp 20,23% vào cơ cấu kinh tế, nhưng là nền tảng của sự ổn định chính trị - xã hội vì chúng ta có tới trên 70% dân số sống tại nông thôn, thì trong số đó, đã có tới 40% dân số nông thôn có nguồn thu từ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.
Trong bản thân lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, số hộ sản xuất thuần túy nông nghiệp giảm dần, trong lúc số hộ tham gia sản xuất lâm nghiệp, thủy sản tăng lên. Tuy vậy, tính đến năm 2006, số lượng và tỷ trọng các hộ trong lĩnh vực thủy sản (chiếm 6,2%), lâm nghiệp (chiếm 0,3%) vẫn bị đánh giá là còn quá thấp, chưa tương xứng với tiềm năng thực tế.
2.2.4. Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế
Ta có thể chia lao động thành các nhóm sau:
+ Lao động trong ngành nông nghiệp.
+ Lao động trong ngành công nghiệp.
+ Lao động trong ngành dịch vụ.
Các nhóm lao động này có sự chuyển dịch tương đối qua các năm và theo một xu thế chung. Nghiên cứu về phân bố lao đông theo ngành kinh tế, cho ta thấy một cái nhìn tổng quát nhất về tác động của đô thị hóa tới chuyển dịch cơ cấu ngành nghề. Đây là một bước chuyển biến tích cực. Để thấy rõ hơn, ta có thể phân tích các bảng số liệu sau:
Theo số liệu điều tra của Tổng cục thống kê qua các năm 2004- 2009, ta có các bảng số liệu sau:
Bảng 1: Phân bố lao động xét theo ngành kinh tế giai đoạn 2004- 2009
Đơn vị: nghìn người
Ngành kinh tế
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Nông nghiệp
24508.5
24424
24349.9
24369.4
24447.7
24788.5
Công nghiệp
7365.3
7785.2
8459.1
9032.3
9677.8
10284
Dịch vụ
10455.3
10565.8
11171.3
11806.3
12335.3
12671.1
Tổng cộng
42329.1
42775
43980
45208
46460.8
47743.6
Bảng 2: Dịch chuyển cơ cấu lao động theo ngành giai đoạn 2004- 2009
Đơn vị: %
Ngành kinh tế
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Nông nghiệp
57.90
57.10
55,37
53.91
52.68
51.92
Công nghiệp
17.40
18,20
19.23
19.98
20.83
21.54
Dịch vụ
24.70
24.70
25.40
26.12
26.55
26.54
Tổng cộng
100.00
100.00
100.00
100.00
100.00
100.00
Qua 2 bảng số liệu trên, chúng ta có thể thấy có sự chuyển dịch chung theo hướng tích cực: tăng lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm lao động trong ngành nông nghiệp. Sự chuyển dịch này phù hợp với quá trình phát triển của đất nước. Từ đây, cơ cấu nghề nghiệp của lao động ở nông thôn- vùng nông nghiệp cũng có những chuyển biến tích cực.
2.2.5. Xu hướng vận động chung của quá trình chuyển đổi nghề nghiệp
Phát triển nông thôn bền vững theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa là chủ trương lớn của Nhà nước, nhằm nhấn mạnh đến việc sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả để thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển. Do vậy cần nắm bắt được xu hướng biến đổi của nó trong tình hình mới. Sự chuyển dịch cơ cấu nghề nghiệp đối với sự phát triển kinh tế xã hội trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan. Xu hướng chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp của lao động nông thôn đi theo xu hướng chung của sự phát triển đất nước. Cùng với sự vận động của quy luật kinh tế trong quá trình đô thị hóa đã tạo ra nhiều sự thay đổi trong cơ cấu nghề nghiệp.
Nông thôn ngày càng xuất hiện nhiều ngành nghề phi nông nghiệp hơn và sản phẩm sẽ phong phú hơn do nhu cầu thị trường ngày càng cao. Theo đó thị trường vốn, thị trường lao động nông thôn sẽ sôi động hơn. Số hộ thuần nông sẽ giảm đi thay vào đó là các dạng kiếm nghề hoặc chuyển hẳn sang các ngành phi nông nghiệp. Bên cạnh đó số lao động làm công ăn lương tăng mạnh. Tuy nhiên mức thu nhập, tiền lương ở khu vực nông thôn vẫn có chiều hướng thấp hơn khu vực đô thị.
Trước những đòi hỏi của tình hình mới, do nắm bắt được yêu cầu của nghề nghiệp người lao động muốn có một công việc thì phải đáp ứng được đòi hỏi của công việc đặt ra. Vì vậy nhu cầu người lao động là nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp ngày càng gia tăng.
2.3. Những ảnh hưởng của việc chuyển đổi nghề nghiệp tới đời sống người lao động
2.3.1. Ảnh hưởng tới đời sống vật chất
Mọi chính sách của Nhà nước đều nhằm tạo ra những bước biến đổi trong cơ cấu nghề nghiệp không nằm ngoài mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Sự ảnh hưởng của chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp tác động đến đời sống vật chất của người dân một cách mạnh mẽ. Thu nhập của người lao động càng cao thì người lao động càng có điều kiện chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của mình. Theo thống kê, thu nhập của người lao động thường cao hơn so với trước chiếm 85% số người trả lời, có 12,3 % thu nhập như cũ và 2,7% thu nhập thấp hơn so với trước. Sở dĩ có người thu nhập cao là do họ nắm bắt được tình hình nắm cơ hội tìm được một công việc hay một phương thức làm ăn mới lên thu nhập cao hơn trước, còn một bộ phận nhỏ kém năng động hơn còn bỡ ngỡ chưa bắt nhịp với tình hình mới hay con số này rơi vào các đối tượng chưa tìm được việc làm lên thu nhập thấp, không ổn định.
2.3.2. Ảnh hưởng tới đời sống tinh thần
Trước tốc độ phát triển chóng mặt của khoa học công nghệ con người luôn phải đối mặt với những biến động và những khó khăn trong cuộc sống. Quá trình đô thị hóa trong những năm đầu do chưa bắt nhịp được với tình hình mới thì cuộc sống của người dân gặp rất nhiều khó khăn. Những chuyển đổi trong cơ cấu nghề nghiệp tạo điều kiện để người lao động phát triển kinh tế. Nhu cầu của con người là vô hạn, sự phát triển của kinh tế gia đình làm cho đời sống của người lao động được nâng cao tạo điều kiện ổn định cuộc sống chăm lo đời sống tinh thần. Dưới những biến đổi của cơ cấu nghề nghiệp, cơ chế thị trường tạo điều kiện để người lao động thỏa mãn nhu cầu tinh thần thông qua các hoạt động giải trí: xem tivi, đọc báo, nghe đài, chơi các môn thể thao, đi tham quan, du lịch, …
CHƯƠNG 3: NHỮNG TỒN TẠI VÀ HẠN CHẾ CỦA QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆU QUẢ VÀ BỀN VỮNG.
3.1. Những tồn tại, hạn chế của quá trình đô thị hóa tác động đến nghề nghiệp lao động nông thôn
Đô thị hoá gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã trực tiếp góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng giá trị nông, lâm, thuỷ sản trong tổng thu nhập quốc dân trong nước (GDP) và tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ trong GDP. Đối với nông nghiệp, cơ cấu nội ngành chuyển dịch theo hướng phát triển các cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn. Trong trồng trọt, tỷ trọng hoa màu, cây công nghiệp, cây ăn quả ngày càng tăng.
Sự hình thành trên địa bàn nông thôn những khu công nghiệp, khu chế xuất các trung tâm dịch vụ, các khu đô thị mới… đã nâng giá trị sử dụng của đất đai, tạo những ngành nghề và việc làm mới, nâng cao giá trị lao động, tạo môi trường ứng dụng rộng rãi khoa học, công nghệ… Đô thị hoá kích thích và tạo cơ hội để con người năng động, sáng tạo hơn trong tìm kiếm và lựa chọn các phương thức, hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, vươn lên làm giàu chính đáng. Kinh tế phát triển, đời sống của người lao động được cải thiện – đó là xu hướng chủ đạo và là mặt tích cực của đô thị hoá.
Tuy nhiên, đô thị hóa kéo theo đó có vô vàn những vấn đề phức tạp. Thể hiện những mặt hạn chế của nó:
- Quá trình đô thị hóa tiếp tục diễn ra với tốc độ nhanh thì quỹ đất canh tác bị thu hẹp lại, nhiều lao động bị mất đất sẽ chuyển hướng tìm việc làm mới hoặc chuyển nghề. Khi đó vấn đề thất nghiệp và các vấn đề xã hội tăng cao nếu không có giải pháp thực hiện ngay từ đầu.
- Thu nhập của lao động nông nghiệp thấp do năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩn nông nghiệp kém, nông nghiệp mang tính thời vụ và rủi ro cao. Đây chính là lý do khiến tỷ lệ nghèo tập trung chủ yếu ở nông thôn và ngày càng gia tăng.
- Trình độ văn hóa chuyên môn kỹ thuật của lao động nông thôn thấp vì vậy mà khả năng chuyển nghề, tìm kiếm một công việc tốt là rất khó. Thêm vào đó là lề lối làm ăn nhỏ lẻ làm hạn chế sự năng động sáng tạo của người dân. Hơn nữa, sự hiểu biết về phát luật của người dân còn hạn chế nhất, vì vậy khó khăn và gò bó khi tham gia vào lao động sản xuất của các nhà máy, xí nghiệp, công ty trong và ngoài nước.
- Các cơ sở, trung tâm dạy nghề còn ít so với nhu cầu của người lao động hiện nay. Hơn nữa, chương trình đào tạo còn đơn điệu “dạy chay”, “học chay” chưa bám sát với nhu cầu thị trường lao động, cùng với đội ngũ giáo viên chưa thật sự chuyên nghiệp, đào tạo một cách “ồ ạt”, “tràn lan” một số ngành chứ không chuyên vào ngành mà nhu cầu thị trường dẫn đến dư thừa lao động, lãng phí nguồn lực xã hội mà trong đó lại thiếu lao động một cách nghiêm trọng.
- Vấn đề ô nhiễm môi trường: các khu công nghiệp mọc lên, đồng thời với sự hoạt động của các công ty, khí thải công nghiệp, ô nhiễm nguồn nước sạch, vv… điều này tác động trực tiếp đến sức khỏe người lao động, ảnh hưởng tới chất lượng việc làm và năng suất lao động.
3.2. Một số giải pháp nhằm góp phần phát triển nông thôn Việt Nam hiệu quả và bền vững.
Giải pháp kinh tế
- Tạo điều kiện hỗ trợ cho các hộ gia đình để họ phát triển kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân. Đây là yếu tố cực kỳ quan trọng bởi thực tế có nhiều cá nhân, hộ gia đình hiện nay đang rất thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm làm kinh tế. Cần đẩy mạnh phát triển kinh tế tạo việc làm tại chỗ cho người lao động, phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Khuyến khích phát triển các loại hình kinh tế tạo môi trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến làm ăn.
- Mở rộng và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo việc làm, thu hút lao động nhất là những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động. Có như vậy mới phù hợp với nguồn nhân lực hiện nay để từng bước rút dần lao động nông thôn ra khỏi khu vực nông nghiệp.
- Phát triển các làng nghề truyền thống, các ngành nghề thủ công nghiệp. Đây là mô hình nếu phát triển được thì sẽ giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động, hơn nữa các ngành nghề này có nhu cầu lao động lớn.
- Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất,chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao.
- Xuất khẩu lao động hiện nay đang là xu thế của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Đó là giải pháp cho phép người lao động có cơ hội tìm được việc làm tốt hơn và cải thiện thu nhập. Đây là một thị trường tiềm năng và đang khai thác có hiệu quả. Nhưng vấn đề trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ, kỷ luật lao động… của lao động nói chung hay lao động nông thôn nói riêng là một trở ngại cho việc tuyển dụng lao động. Vì vậy, giải pháp xuất khẩu lao động là một giải pháp khả thi song để phát huy hiệu quả thật sự thì cần chú ý đến các vấn đề nêu trên…
Giáo dục- đào tạo nghề cho lao động
Lao động nông thôn rất cần được đào tạo, dạy nghề, họ cần có trình độ chuyên môn và cập nhập kiến thức để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trong quá trình đô thị hóa. Vì vậy, cần phát triển nguồn nhân lực bằng cách đầu tư cho giáo dục ở nông thôn. Cần được thường xuyên bổ xung và cập nhập các kiến thức thực tế về nghề nghiệp và giáo dục pháp luật. Do vậy điều cần làm ngay lúc này là:
- Mở rộng và phát triển các loại hình đào tạo dạy nghề cho người lao động nhằm gia tăng số lượng cũng như nâng cao chất lượng nguồn lao động vừa thiếu vừa kém cùng với tư tưởng tiểu nông. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa nghề nghiệp cùng với đó là phát triển hệ thống dạy nghề chính quy, cần khuyến khích các cá nhân, tổ chức xã hội, doanh nghiệp cùng tham gia. Đào tạo lao động theo nhu cầu của thị trường lao động. Muốn vậy thì cần có những tìm hiểu về những biến động của thị trường lao động, dự báo xu hướng vận động của cơ cấu lao động trong quá trình đô thị hóa để có cái nhìn thực tế.
- Huy động các nguồn vốn đầu tư cho đào tạo nghề bằng cách tăng cường ngân sách Nhà nước đầu tư nâng cấp các trường dạy nghề. Huy động nguồn vốn nước ngoài thông qua các dự án đào tạo nghề.
- Bên cạnh việc đào tạo kiến thức chuyên môn thì cũng cần chú ý, quan tâm tới các kiến thức xã hội, giao tiếp cộng đồng, phát triển bản thân còn nhiều khiếm khuyết. Người lao động nói chung đặc biệt là tầng lớp thanh niên nói riêng, dạy nghề thôi chưa đủ mà cần đưa cả kỹ năng s
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- loi_mo_dau_5872.doc