Tiểu luận Thực trạng chuyển giá tại Việt Nam

 

PHẦN MỞ ĐẦU 1

PHẦN THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 2

I. Chuyển giá và các vấn đề về chuyển giá tại các tập đoàn kinh tế nước ngoài tại Việt Nam : 2

1. Lý thuyết về chuyển giá : 2

2. Cơ sở và động cơ chính của hành vi chuyển giá : 3

II. Thực trạng chuyển giá tại Việt Nam 4

1. Một số những hình thức chuyển giá tại Việt Nam như : 5

2. Các tác động từ chuyển giá 8

3. Phân tích văn bản ban hành về chống chuyển giá và một số biện pháp khắc phục : 9

PHẦN KẾT LUẬN 15

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 16

 

 

docx17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8566 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng chuyển giá tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước và doanh nghiệp hợp tác , liên doanh), nhưng rồi ngày càng bế tắc và hiện nay cũng chưa có biện pháp nào sáng sủa để quản lý được việc chuyển giá. Khi nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài chúng ta có hai vấn đề cần bàn tới đó là vốn FDI và mặt trái đó là sự thất thu thuế do hiện tượng chuyển giá gây ra. Trong những năm đầu thời kỳ hội nhập nguồn vốn FDI đã cải thiện rất nhiều cho GDP quốc dân, khoa học kỹ thuật… Bên cạnh đó do các văn bản quy định về giá chuyển giao tại Việt Nam chưa hoàn thiện nên dẫn tới một số hình thức đẩy lỗ sang công ty con tại nước sở tại gây thất thoát nguồn thu thuế, về bản chất kinh tế thì chuyển giá gây thiệt hại cho nền kinh tế chúng ta, đó là một sự gian lận trong hoạt động sản xuất kinh doanh, không sòng phẳng, làm thất thoát thu nhập quốc dân và đương nhiên thất thoát tài sản doanh nghiệp trong nước, tài chính quốc gia. Tuy nhiên, đánh giá trên phương diện khách quan thì nguồn vốn FDI mang lại nhiều lợi ích hơn nhưng không phải thế mà việc đặt ra các quy định mới về chuyển giá bị xem nhẹ. Việc làm này một phần làm nâng cao công tác quản lý thuế của quốc gia và chấn chỉnh hoạt động tài chính của các tập đoàn kinh tế. Hiểu theo nghĩa cụ thể thì chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị thực của hàng hóa khi trao đổi, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết. Hành vi ấy có đối tượng tác động chính là giá cả. Sở dĩ giá cả có thể xác định lại trong những giao dịch như thế xuất phát từ ba nguyên nhân sau: Xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch. Do đó họ hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn. Các mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa nhóm liên kết nên sự khác biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể kinh doanh có cùng lợi ích không làm thay đổi lợi ích toàn cục. Việc quyết định chính sách giá giao dịch giữa các thành viên trong nhóm liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Tồn tại sự khác nhau về chính sách thuế của các quốc gia là điều không tránh khỏi do chính sách kinh tế - xã hội của họ không thể đồng nhất, cũng như sự hiện hữu của các quy định ưu đãi thuế là điều tất yếu. Chênh lệch mức độ điều tiết thuế vì thế hoàn toàn có thể xảy ra. Hành vi chuyển giá được thể hiện thông qua các chủ thể kinh doanh thực hiện bằng cách thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết nhằm tối thiểu hóa tổng số thuế phải nộp của các đối tác liên kết. Các đối tác liên kết ở đây có thể là: Các công ty thành viên trong một công ty đa quốc gia; Các công ty hoặc đơn vị thành viên trong một tổng công ty, công ty; Các công ty độc lập mà chủ sở hữu của chúng có mối quan hệ đặc biệt, thường là mối quan hệ thân nhân. Cơ sở và động cơ chính của hành vi chuyển giá : Cơ sở cho việc chuyển giá xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch kinh tế. Do vậy, họ hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn. Quyền này được pháp luật về kinh doanh của mọi quốc gia thừa nhận, nó chỉ bị hạn chế bởi các quy định pháp luật có liên quan, chẳng hạn như pháp luật về cạnh tranh, về thương mại hoặc chính bởi những điều luật về định giá chuyển giao. Động cơ chính của hành vi chuyển giá là lợi nhuận của hoạt động kinh doanh. Xét trên phương diện tổng thể, việc xác định giá giao dịch giữa các thành viên của các bên liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Chẳng hạn như, công ty B và C đều là công ty con của tập đoàn A. Công ty B áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 25%. Công ty C kinh doanh ở địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn nên được áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10%. Khi B cung cấp vật tư cho C với giá thấp hơn giá thị trường giao dịch sòng phẳng thì làm cho lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp của B giảm đi, còn lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp của C tăng lên tương ứng. Phần lợi nhuận tăng lên ở công ty C chỉ phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất 10%. Nếu bán đúng giá thị trường thì phần lợi nhuận này nằm ở công ty B và phải chịu thuế suất 25%. Như vậy, nếu xét riêng biệt thì công ty B thiệt, còn công ty C được lợi. Nhưng xét tổng thể thì tổng thuế phải nộp của cả hai công ty đã giảm đi. Xác lập giá là quyền tự do định đoạt của các bên tham gia trong giao dịch. Nhà nước không thể can thiệp trừ khi giá được định ra ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các chủ thể khác trong xã hội. Thuật ngữ “chuyển giá” là phù hợp cho một quan hệ mang tính tiêu cực như vậy. Vấn đề điều chỉnh pháp luật cũng nên tiếp cận ở góc độ “Kiểm soát chuyển giá”, cho phép chúng ta thiết lập một cơ chế sẵn sàng cho việc kiểm tra, phát hiện và xử lý nếu hành vi chuyển giá gây ra thiệt hại. Thực trạng chuyển giá tại Việt Nam Tại Việt Nam chuyển giá là một vấn đề không còn mới mặc dù vậy chuyển giá vẫn luôn là vấn đề nan giải đặt ra cho các đơn vị quản lý tài chính Nhà nước. Hiện nay, chuyển giá tại các doanh nghiệp nước ngoài có phần tinh vi, phức tạp và biến đổi biến thể dựa theo các căn cứ quy định chuyển giá. Theo số liệu thống kê của Chi cục thuế TP HCM 7 tháng đầu năm nay hơn 1300 doanh nghiệp FDI đã xác định có lãi sau nhiều năm báo cáo kết quả kinh doanh lỗ, kết quả báo lỗ này còn biểu hiện ở hầu hết các Khu công nghiệp có DN nước ngoài nhiều tại Đồng Nai và Bình Phước, câu chuyện không còn dừng lại tại một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà một số doanh nghiệp trong nước cũng có biểu hiện tương tự. Điển hình là trường hợp xử phạt các DN FDI sản xuất, kinh doanh chè ở Lâm Đồng. Bằng việc thực hiện nghiêm túc quy trình nghiệp vụ về kiểm tra thuế, Chi Cục Thuế Lâm Đồng nhận thấy, giá thành nguyên liệu chính của một kg chè Ô Long là 175.000 đồng. Trong khi đó, các DN FDI XK loại chè này sang Singapore chỉ là 64.580 đồng/kg. Kết quả kiểm tra tại trụ sở các DN FDI này đã đi đến kết luận về hành vi chuyển giá của  DN. Hoạt động thanh tra và kiểm toán đối với việc tính giá chuyển giao để tìm ra dấu hiệu vi phạm của DN FDI cũng được thực hiện ngày càng nhiều hơn trong thời gian gần đây. Số lượng các cuộc thanh tra và phát hiện vi phạm qua thanh tra cũng tăng thêm. Tuy nhiên, việc này mới chỉ dừng lại ở một số tỉnh, thành phố lớn có vốn FDI nhiều như TP.HCM, Đồng Nai, Lâm Đồng… chưa thực hiện ở các địa phương khác. Một số những hình thức chuyển giá tại Việt Nam như : Tăng chi phí quảng cáo và marketing : Lấy đơn cử như một công ty A theo báo cáo tài chính năm 2009 của công ty này cho thấy doanh thu từ hàng hóa dịch vụ hơn 1.752 tỷ đồng, trong đó chi phí sản xuất kinh doanh 1.562 tỷ đồng, lợi nhuận đạt được là 190 tỷ kết quả lãi. Tuy nhiên, phần doanh thu được giảm trừ cho hoạt động quảng cáo, khuyến mãi, chiết khấu cho đại lý, nhà phân phối... là 171,3 tỷ đồng. Sau khi trừ các khoản chi phí khác dẫn đến lợi nhuận thuần “âm” 72 tỉ đồng, lỗ lũy kế của DN này còn hơn 33,6 tỷ đồng. Theo đó doanh nghiệp này đã lợi dụng chính sách ưu đãi của VN cho giảm trừ phần chi phí cho hoạt động quảng cáo, khuyến mãi nên đã tìm mọi cách kê khai cả phần chi phí làm thương hiệu của tập đoàn mẹ. Trong đó có cả chi phí quảng cáo lẽ ra công ty mẹ phải chịu nhưng họ đã biến hóa cho công ty ở VN gánh bớt. Giá bán thấp hơn so với chi phí Các thủ thuật kinh doanh tại các DN có rất nhiều. Phổ biến là việc kê giá nguyên liệu đầu vào rất cao, đồng thời tìm mọi cách khai tăng chi phí quảng cáo, khuyến mãi nhằm triệt tiêu lợi nhuận. So với các DN trong nước cùng ngành nghề có thể thấy chi phí sản xuất của DN FDI thường cao bất thường. Thêm một ví dụ tại DN FDI công bố giá bán thấp hơn giá vốn. Doanh thu xuất khẩu luôn chiếm trên 99%. Tổng chi phí năm 2008 của công ty này là 15.328 tỉ đồng trong khi tổng doanh thu là 12.974 tỉ đồng . Tính đến năm sau tổng chi phí vượt lên 20.961 tỉ đồng thì tổng doanh thu là 18.293 tỉ đồng. Năm 2009 tổng chi phí còn 15.434 tỉ đồng, còn tổng doanh thu là 12.780 tỉ đồng. Điều này có thể cho thấy báo cáo quyết toán của doanh nghiệp này có giá bán thấp hơn so với giá vốn Để có thể biến báo cáo lãi thành lỗ thông qua hình thức chuyển giá, các DN FDI không thể làm riêng lẻ mà hoạt động trong cùng tập đoàn hoặc liên kết thành từng nhóm. Từ đó các đơn vị này tự dàn xếp giá với nhau thông qua các giao dịch liên kết nhằm tìm kiếm thêm lợi nhuận mà không phải bỏ thêm vốn hay mở rộng sản xuất. Với phương thức sử dụng giá giao dịch nội bộ hay còn gọi là giao dịch liên kết, các tập đoàn cũng giảm đi tổng nghĩa vụ thuế trên phạm vi toàn cầu nhằm tăng lợi nhuận sau thuế. Khai quá giá trị đầu tư Phương thức mà các DN FDI thường sử dụng để trốn thuế là khai quá giá trị đầu tư. Giá trị đầu tư một nhà máy chỉ 1 tỉ đồng nhưng đánh giá lên 1,5 tỉ đồng. Với suất đầu tư ban đầu cao như vậy, hoạt động của DN nước ngoài không có lãi vì chi phí đầu tư cao hệ quả giá thành cao và kết quả kinh doanh lỗ. Bên cạnh việc báo cáo mức vốn đầu tư ban đầu, hoạt động chuyển giá còn có thể thực hiện cả trong quá trình nhập khẩu nguyên liệu và xuất thành phẩm. Cách sử dụng phổ biến là công ty mẹ ở nước ngoài bán nguyên vật liệu, thiết bị, máy móc cho công ty con với giá cao hơn giá thị trường để làm tăng chi phí. Chuyển giá cũng giúp các doanh nghiệp tránh được rắc rối trong việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài trong trường hợp khó mua được ngoại tệ quy đổi hay giới hạn sở hữu ở một số ngành... Theo ví dụ sau đơn cử với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, một doanh nghiệp Hoa Kỳ thành lập một đơn vị kinh doanh ở Singapore do thuế suất thấp, đồng thời xây dựng một nhà máy sản xuất ở Việt Nam do các điều kiện môi trường ít khắt khe và lao động rẻ hơn. Dựa vào các hiệp định tránh đánh thuế hai lần nên doanh nghiệp sẽ chọn Singapore để nộp thuế 17% thay vì 25% ở Việt Nam hay khoảng 30% ở Hoa Kỳ bằng cách khai khống chi phí đầu vào nhập khẩu và hạ thấp giá bán đầu ra của nhà máy ở Việt Nam. Ngoài ra, do thuế suất thuế thu nhập cá nhân ở Singapore thấp hơn nhiều so với Việt Nam, nên những người lao động nước ngoài muốn đăng ký và nhận lương tại Singapore hơn. Nếu một người Việt và một người nước ngoài yêu cầu một mức thu nhập ròng như nhau thì doanh nghiệp sẽ tuyển dụng người nước ngoài. Kết quả, Việt Nam không chỉ mất thuế và việc làm có kỹ năng cao, mà tình trạng nhập siêu còn trầm trọng hơn. Vấn đề theo sự biến tướng của chuyển giá đó là gửi giá, với chuyển giá thì có nhiều phương pháp để làm nhưng gửi giá thì độ phức tạp cao hơn, theo đó việc đơn vị chủ quản hợp thức hóa chứng từ, cơ quan chức năng phải tìm đến nơi nhận mua bán mới phát hiện ra được. Ví dụ một công ty mua một loại hàng hóa 2 triệu USD, mọi khâu từ chuyển tiền, hoạch toán sổ sách, nhận hàng vẫn đủ. Bên mua hàng thì trả 2 triệu USD nhưng cái giá thật của hàng hóa đó thì có thể rất rẻ. Và bên bán lại chuyển một phần lại, khoảng 10% cho bên ký hợp đồng. Như vậy, chuyển giá là vẫn đảm bảo chuyển lợi nhuận sang các quốc gia khác còn ở đây gửi giá là một hình thức tham nhũng Hình thức chuyển giá còn được tìm thấy tại các đơn vị xây dựng đầu tư cơ bản, đền bù đất đai. Thay vì mua hoặc thỏa thuận sửa chữa cơ sở vật chất một khoản chi cố định nhưng vẫn có thể nâng nâng chi phí lên. Chi phí ngân sách Nhà nước và doanh nghiệp không đổi nhưng chi phí rút ra trong khoản đã chi lại là người ký kết hợp đồng được hưởng hoặc nhóm người hưởng. Công trình xây dựng thất thoát được hình thành chất lượng kém, thất thoát nguyên vật liệu được trích ra từ khoản đã giải ngân và tiền thuế. Ví dụ đối với sản phẩm sắt thép với quy định là 20 tấn, nhưng thực tế có 10 tấn, hoặc thay vào đó là những cái khác hoặc chủng loại khác nhưng chứng từ giả hoàn thuế vẫn đủ 20 tấn. Ở đây, đơn vị đã dùng các chứng từ khống để khấu trừ thuế đầu vào. Như vậy là thất thoát thuế, thất thoát của tiền cấp phát để mua 20 tấn thép đó. Và thất thoát này là không thể quản lý được. Qua các ví dụ cho thấy, vấn đề không chỉ là chuyển giá không đúng với giá thị trường mà còn là gửi giá. Vì thế sự phối hợp giữa các cơ quan thuế, kiểm toán, cơ quan thanh tra để kiểm tra các đơn vị trong việc gửi giá là điều cấp bách chống thất thoát thuế cho Nhà nước và giảm chất lượng sản phẩm. Các tác động từ chuyển giá Khi xảy ra hành vi chuyển giá mà không có quy định pháp luật để xử lý hoặc không được xử lý theo quy định của pháp luật thì sẽ có hai tác động cơ bản sau: Thứ nhất, làm thất thu ngân sách nhà nước. Đây có thể coi là tác động hiển nhiên đầu tiên vì với việc doanh nghiệp được lợi về thuế thì phần thuế lẽ ra có thể thu được theo Luật đã không được nộp vào ngân sách nhà nước, và thực tế ở Việt Nam thì số thất thu này không nhỏ. Thứ hai, tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh giữa các chủ thể kinh tế. Mặc nhiên, khi một doanh nghiệp được hưởng lợi về nghĩa vụ thuế thông qua hành vi chuyển giá, doanh nghiệp này sẽ thu lợi cao hơn những doanh nghiệp khác có cùng điều kiện nhưng không thực hiện hành vi chuyển giá. Một môi trường cạnh tranh lành mạnh phải tạo ra khả năng hưởng lợi chính đáng từ hoạt động kinh doanh chính đáng. Ngoài ra, với việc được lợi nhờ chuyển giá, các doanh nghiệp này có thể mua nguyên liệu đầu vào với giá cao làm cho các doanh nghiệp khác không thể mua được nguyên liệu phục vụ sản xuất, kinh doanh, đẩy các doanh nghiệp khác vào tình trạng phá sản. Phân tích văn bản ban hành về chống chuyển giá và một số biện pháp khắc phục : Một trong những chức năng nhiệm vụ thuế là thực hiện công tác kiểm tra thanh tra, trong đó có thanh tra về chống chuyển giá. Tuy nhiên chúng ta phải đi về nguyên tắc của cơ chế quản lý thuế của Việt Nam cũng như của quốc tế. Các DN hiện nay tự tính, tự khai, tự nộp thuế. Cơ quan Thuế có nhiệm vụ thông báo chính sách thuế, hỗ trợ DN trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đồng thời thực hiện chức năng kiểm tra, thanh tra để chấn chỉnh, xử lý vi phạm. Tuy nhiên, kiểm tra hoạt động chuyển giá không phải là điều dễ dàng. Muốn có căn cứ kết luận các DN có hoạt động chuyển giá phải chứng minh được hạch toán, giá bán giá mua của họ không phù hợp giá thị trường. Ví dụ một nhãn ô tô, giá bán sản phẩm chỉ có ở Việt Nam, không có nhiều giá khác nhau để so sánh. Làm thế nào xác định được giá bán đó không đúng, rất khó, vì cần có căn cứ pháp lý xác định giá thị trường và giá thực tế họ bán tại Việt Nam, mà lấy thông tin giá bán sản phẩm của DN họ nơi khác để truy thu thuế ở Việt Nam từ việc yêu cầu họ cung cấp là thiếu khả thi. Từ năm 2005, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 117/2005/TT-BTC ngày 19/12/2005 hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường trong giao dịch kinh doanh và hiện nay đã có Thông tư số 66/2010/TT-BTC để hướng dẫn về vấn đề này, nhưng để có kết luận và thu hồi được thuế tại các DN chuyển giá không nhiều. Phải có cơ sở thu thập thông tin của nước ngoài, xem sản phẩm tại Việt Nam cùng sản phẩm tương đương họ bán tại nước ngoài như thế nào. Đối chiếu được rất khó, đưa các biện pháp áp dụng thực tiễn cũng không dễ dàng. Sau 5 năm ban hành Thông tư 117 triển khai chưa hiệu quả nên Bộ Tài chính mới đây bổ sung Thông tư 66. Bên cạnh đó, để thanh tra DN chuyển giá, cán bộ thuế phải có trình độ nghiệp vụ chuyên môn giỏi, ngoại ngữ giỏi, nắm chắc quy trình kiểm tra, giá bán, hoạt động DN. Hiện nay, ở Việt Nam, kinh nghiệm đó chưa nhiều, cần thời gian để cán bộ học tập, trau dồi. Với Thông tư 66 mới, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế đã triển khai chỉ đạo rất quyết liệt, đưa công tác kiểm tra chuyển giá vào trọng tâm chống thất thu ngân sách Nhà nước. Tất cả các địa phương đều tiến hành triển khai tập huấn, thực hiện chỉ đạo của Tổng cục Thuế theo công văn số 2704/TCT-CC ngày 23/7/2010 “Tập trung nguồn lực, triển khai thực hiện một chiến dịch thanh tra chống chuyển giá; tập trung vào một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, đặc biệt là các DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài kê khai thua lỗ lớn, liên tục trong nhiều năm để thực hiện thanh tra trước, sau đó rút kinh nghiệm để triển khai thường xuyên nhằm đảm bảo chống thất thu NSNN và công bằng trong nghĩa vụ thuế”. Tổng cục Thuế đã và đang phối hợp với tổ chức quốc tế, các dự án hỗ trợ cơ quan thuế VN trong các dự án cải cách thủ tục hành chính thuế. Nhờ chuyên gia nước ngoài giảng kinh nghiệm thanh tra của các nước có kinh nghiệm chống chuyển giá tốt như Nhật Bản. Họ giúp đào tạo cán bộ thuế nâng cao năng lực, nghiệp vụ chuyên ngành. Bên cạnh đó tăng cường việc học tập kinh nghiệm của OECD và kinh nghiệm chống chuyển giá của các vùng lãnh thổ Châu Á. Thông qua các bài trình bày của cơ quan thuế, Hiệp hội nghề nghiệp về tư vấn thuế liên quan đến chống chuyển giá, hình thức điều tra, kinh nghiệm thanh tra chống chuyển giá trong từng trường hợp cụ thể… kết hợp với sử dụng cơ sở dữ liệu ngành thuế để nâng cao năng lực, kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ thuế. Bước khởi đầu là triển khai trọng điểm, từ đó mở rộng triển khai nhiều đơn vị để chấn chỉnh hoạt động chuyển giá. Ngoài ra, cơ quan thuế đề nghị DN nộp tờ khai hàng năm về các giao dịch liên kết để cơ quan thuế theo dõi. Chuyển giá đã được các nhà hoạch định chính sách tài chính Việt Nam xác định là một vấn đề cần được quan tâm quản lý khi mà ngày càng xuất hiện nhiều dấu hiệu chuyển giá trong giao dịch có yếu tố nước ngoài. Văn bản pháp lý đầu tiên đề cập đến chuyển giá là Thông tư 74/1997/TT-BTC hướng dẫn về thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài, sau đó là Thông tư 89/1999/TT-BTC và Thông tư 13/2001/TT-BTC. Đến Thông tư 05/2005/TT-BTC hướng dẫn về thuế nhà thầu thì vấn đề này được bỏ ra khỏi nội dung điều chỉnh. Cho đến 19/12/2005, chuyển giá đã được nhắc lại tại Thông tư 117/2005/TT-BTC do Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn việc thực hiện xác định giá thị trường trong các giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Tính đến nay, Thông tư 117/2005/TT-BTC có thể được xem là văn bản pháp lý điều chỉnh một cách khá chi tiết về biện pháp chống chuyển giá bằng phương pháp định giá chuyển giao. Ý nghĩa của việc định giá chuyển giao là xác định lại giá giao dịch giữa các doanh nghiệp liên kết nhằm đưa giá giao dịch liên kết về đúng với giá thị trường. Đối tượng áp dụng phương pháp định giá chuyển giao là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện một phần hoặc toàn bộ hoạt động kinh doanh tại Việt Nam có giao dịch kinh doanh với các bên có quan hệ liên kết có nghĩa vụ kê khai, xác định nghĩa vụ thuế TNDN ở Việt nam. Phạm vi áp dụng bao gồm các giao dịch mua, bán, trao đổi, thuê, cho thuê, chuyển giao hoặc chuyển nhượng hàng hóa, dịch vụ trong quá trình kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Nội hàm tác động của những quy định này dường như cũng không giới hạn điều chỉnh trong các giao dịch chuyển giá quốc tế. Các giao dịch liên kết bị điều chỉnh cũng tương tự quy định của các nước hoặc theo Công ước mẫu của OEDC về định giá chuyển giao. Nhưng phạm vi giao dịch chuyển giá mà Việt Nam điều chỉnh có phần hẹp hơn vì không đề cập đến những giao dịch như vay hoặc cho vay, hay như giao dịch được đề cập mở rộng mang tính dự báo mà có thể gây tác động đến lợi ích của doanh nghiệp liên kết. Để xác định giá thị trường phải tuân thủ nguyên tắc dựa trên cơ sở so sánh tính tương đương giữa giao dịch liên kết với giao dịch độc lập từ đó lựa chọn ra phương pháp xác định giá phù hợp. Theo đó, dù là sử dụng phương pháp nào thì việc so sánh cũng phải đưa giao dịch độc lập làm cơ sở quy chiếu về điều kiện tương đương với giao dịch liên kết. Do đó các giao dịch tương đối dùng để so sánh có thể không hoàn toàn giống giao dịch liên kết nhưng phải đảm bảo là không có các khác biệt trọng yếu. Trường hợp có khác biệt trọng yếu, việc so sánh phải dùng biện pháp phân tích và đánh giá các tiêu thức ảnh hưởng dẫn đến khác biệt nhằm loại trừ sự khác biệt mang lại sự tương đồng. Có 4 tiêu thức được xem là những yếu tố có thể gây ra sự khác biệt, đó là đặc tính của sản phẩm, chức năng hoạt động của cơ sở kinh doanh, điều kiện của hợp đồng giao dịch và điều kiện kinh tế khi diễn ra giao dịch. Quá trình phân tính, đánh giá sẽ chỉ ra phương thức xác định giá thị trường nào là phù hợp nhất. Khác với các quy định trước đây, chỉ có 3 phương pháp được áp dụng, không đủ để bao quát hết các khả năng phải xác định giá, trong lần quy định này, thông tư 117/2005/TT-BTC đã đưa ra 5 phương pháp định giá chuyển giao. Đó là: - Phương pháp so sánh giá giao dịch độc lập: dựa vào đơn giá sản phẩm được vận dụng trong trường hợp giao dịch độc lập có điều kiện tương đương với giao dịch liên kết. - Phương pháp giá bán lại: áp dụng trong trường hợp không có giao dịch mua tương đương, thuộc khâu cung ứng hoặc có thêm giai đoạn gia công, chế biến, lắp ráp... làm gia tăng giá trị hàng hóa, nên phải sử dụng giá bán lại của sản phẩm do cơ sở kinh doanh bán cho bên độc lập để xác định giá mua vào của giao dịch liên kết. - Phương pháp giá vốn cộng lãi: được lựa chọn khi giao dịch liên kết thuộc khâu sản xuất khép kín để bán cho bên liên kết hoặc cung ứng đầu vào và bao tiêu đầu ra cho bên liên kết. Phương pháp này xác định giá dựa vào giá vốn hay giá thành của sản phẩm để xác định giá bán ra của sản phẩm đó cho bên liên kết. - Phương pháp so sánh lợi nhuận: để thực hiện phương pháp này phải dựa trên tỷ suất sinh lời của sản phẩm trong giao dịch độc lập được chọn. Phương pháp này không cho ra kết quả về giá mà tính ra được thu nhập thuần trước thuế là cơ sở tính thuế TNDN. Đây được xem là phương pháp mở rộng của phương pháp giá bán lại và giá vốn cộng lãi, nên có thể áp dụng đối chiếu trong trường hợp có những điều kiện tương tự. - Phương pháp tách lợi nhuận: được áp dụng trong trường hợp nhiều bên liên kết cùng thực hiện một giao dịch liên kết tổng hợp, chẳng hạn như cùng tham gia nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, hoặc sản phẩm là tài sản vô hình độc quyền, kinh doanh chuyển tiếp từ khâu đầu đến khâu cuối gắn với quyền sở hữu trí tuệ. Việc tách lợi nhuận của từng bên liên kết trong giao dịch dựa trên cách mà các bên độc lập thực hiện phân chia lợi nhuận trong các giao dịch độc lập tương đương. Trường hợp do tính đặc thù hoặc duy nhất của giao dịch liên kết mà không có có giao dịch độc lập tương đương để chọn một trong các phương pháp trên so sánh thì có thể sử dụng biện pháp tổng hợp (như mở rộng phạm vi lựa chọn sang phân ngành khác, xác định biên độ giá thị trường thích hợp bằng các phương pháp tổng hợp...) hoặc vận dụng các số liệu giữa kỳ (để tính mức giá sản phẩm, tỷ suất lợi nhuận...). Một số giải pháp khác Một là, hoàn thiện hành lang pháp lý về chống chuyển giá. Những nội dung cụ thể cần hoàn thiện hành lang pháp lý về chống chuyển giá là: (i) Trước mắt cần bổ sung một điều luật về chống chuyển giá vào Luật Quản lý thuế, về lâu dài nên ban hành Luật Chống chuyển giá – đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho hoạt động chống chuyển giá, không chỉ có ý nghĩa đối với quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp mà còn liên quan đến quản lý thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tài nguyên...; (ii) Có quy định pháp lý cụ thể về các khoản chi từ ngân sách nhà nước cho các hoạt động kiểm tra, thanh tra và điều tra chống chuyển giá; và (iii) Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan với cơ quan thuế trong hoạt động chống chuyển giá, đặc biệt là sự phối hợp của các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. Hai là, thu hẹp các ưu đãi thuế. Như đã nêu trong phần phân tích cơ sở của hành vi chuyển giá, chênh lệch thuế thu nhập doanh nghiệp giữa các quốc gia, chênh lệch thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trong một quốc gia do áp dụng thuế suất ưu đãi và các ưu đãi khác như miễn, giảm thuế là tiền đề để các doanh nghiệp thực hiện hành vi chuyển giá. Hiển nhiên, vì những mục tiêu nhất định, cần phải thực hiện ưu đãi thuế, song cần cân nhắc các cách thức khác để điều tiết các vấn đề kinh tế, chỉ sử dụng ưu đãi thuế trong những trường hợp có lợi nhất so với các hình thức ưu đãi khác, chẳng hạn như trợ cấp, trợ giá, hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng... Nên hạn chế tối đa các chính sách xã hội trong ưu đãi thuế. Ba là, nghiên cứu giao quyền điều tra cho cơ quan thuế. Trước mắt, có thể chỉ giao quyền điều tra cho cơ quan thuế cấp Tổng cục. Về lâu dài, khi lực lượng công chức thuế đã được đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng đòi hỏi của chức năng điều tra thì có thể mở rộng quyền điều tra cho cơ quan thuế cấp tỉnh. Việc giao quyền điều tra không chỉ giúp cơ quan thuế có điều kiện làm tốt hoạt động chống chuyển giá mà còn tạo điều kiện làm tốt hiệu quả quản lý thuế nói chung. Bốn là, thành lập bộ phận tình báo thuế ở Tổng cục Thuế. Đây chính là cơ quan có chức năng chuyên trách thu thập thông tin phục vụ quản lý thuế ở cả trong nước và quốc tế. Tình báo thuế không chỉ cần thiết cho hoạt động chống chuyển giá, mà còn rất hữu ích cho công tác thanh tra, kiểm tra thuế. Năm là, hoàn thiện hệ thống thông tin, dữ liệu về người nộ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThực trạng chuyển giá tại Việt Nam.docx
Tài liệu liên quan