Tiểu luận Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

Lời nói đầu .3

Mục lục .4

Chương I:Khái quát chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. .5

1)Mục tiêu,yêu cầu cổ phần hóa(CPH) Doanh nghiệp nhà nước(DNNN).5

2)Sự cần thiết chuyển sang hình thức cổ phần hóa DNNN .5

3)Đối tượng và điều kiện cổ phần hóa .6

4)Hình thức cổ phần hóa .6

5)Chi phí thực hiện cổ phần hóa .6

6)Chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động sau CPH .7

a.Doanh nghiệp sau khi CPH được hưởng các ưu đãi.7

b.Người lao động trong doanh nghiệp CPH đựơc hưởng các chính sách ưu đãi sau .8

Chương II: Kết quả sau khi cổ phần hóa Doanh nghiệp .8

1)Luật điều chỉnh .8

2)Những kết quả đạt được và hạn chế cần khắc phục . 10

3)Nguyên nhân 11

Chương III: Thực trạng cổ phần hoán DNNN tại Việt Nam . .11

1)Thực trạng chung hiện nay 11

2)Một số DNNN điển hình 15

a/DNNN cổ phần hóa không đạt mục tiêu .15

b/Các DNNN cổ phần hóa có hiệu quả.15

c/Các dự án cổ phần hóa khác .16

d/DNNN điển hình 17

4)Mục tiêu hoàn thành CPH hơn 1500 DNNN vào năm 2010 .18

ChươngVI: Vấn đề đặt ra và biện pháp giải quyết của nhà nước 19

1)Vấn đề đặt ra hiện nay . .19

2)Biện pháp khắc phục 22

3)Chủ trương,chính sách của Nhà nước .23

4)Kết luận 25

*Tài liệu tham khào. .27

 

 

 

 

 

 

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3130 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h doanh của DN (hàng tồn kho lâu ngày, kém, mất phẩm chất, máy móc thiết bị hư hỏng, hết khấu hao...) được xử lý nên đã làm lành mạnh tình hình tài chính của DN, qua đó mở ra cơ hội phát triển cho DN. CPH cũng đã tạo nên một cơ chế quản lý mới cùng đội ngũ cán bộ quản lý thích nghi hơn với cơ chế thị trường. Những chuyển biến nói trên đã nâng cao rõ rệt hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DN CPH trên tất cả các chỉ tiêu chủ yếu: về vốn, doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, số lượng lao động và thu nhập của lao động, cổ tức. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy: vốn bình quân một DN tăng từ 24 tỷ đồng (2001) lên 63,6 tỷ đồng (2004); có tới 92,5% số DN được điều tra cho rằng có lãi, lợi nhuận trước thuế tăng bình quân 149,8%, lợi nhuận sau thuế tăng bình quân 182,3%, mức nộp ngân sách tăng bình quân 26,53%/DN, năng suất lao động tăng trung bình 63,9%, thu nhập bình quân tháng của lao động tăng 34,5% so với trước khi CPH, lao động tăng do mở rộng sản xuất, cổ tức cao hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng. Các DNNN đã cổ phần hoá, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và việc huy động vốn ngoài xã hội trong quá trình cổ phần hoá DNNN còn hạn chế do chưa khuyến khích việc bán cổ phần ra bên ngoài. Chưa có doanh nghiệp nào tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá. Thời gian thực hiện cổ phần hoá một doanh nghiệp còn dài, làm tiến độ cổ phần hoá chậm. Vốn nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong vốn điều lệ ở nhiều doanh nghiệp không thuộc diện cần giữ cổ phần chi phối, phổ biến nhất là trong các tổng công ty nhà nước thuộc các ngành xây dựng, giao thông. Nhiều công ty cổ phần chưa có sự đổi mới thực sự trong quản trị công ty; phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý vẫn còn như DNNN. Hạn chế này rõ nhất là ở những doanh nghiệp mà Nhà nước còn giữ cổ phần chi phối, ban lãnh đạo của doanh nghiệp đều từ DNNN trước đó chuyển sang. Trong một số công ty cổ phần, người lao động - cổ đông phần do nhận thức chưa đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình, phần do sự hiểu biết pháp luật về công ty cổ phần còn hạn chế, nên có nơi quyền làm chủ chưa được phát huy. Ngược lại có nơi lạm dụng quy định của pháp luật gây khó khăn cho công tác quản lý của Hội đồng quản trị, sự điều hành của giám đốc. Nhiều nội dung của cơ chế, chính sách quản lý công ty cổ phần như: chính sách tiền lương, tiền thưởng… vẫn còn áp dụng như DNNN. 3)Nguyên nhân Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên ở các cấp, người lao động trong doanh nghiệp chưa nhận thức đúng đắn về công cuộc đổi mới, sắp xếp và cổ phần hoá DNNN. Một số khác còn mang nặng tư tưởng bao cấp, lo ngại sau cổ phần sẽ mất đặc quyền, đặc lợi. Một số Bộ, ngành, địa phương, tổng công ty nhà nước chưa quán triệt sâu sắc và nghiêm chỉnh chấp hành Nghị quyết của Đảng, quy định của Nhà nước, thiếu chương trình, kế hoạch cụ thể, chưa tích cực, sâu sát trong chỉ đạo thực hiện đã làm ảnh hưởng tới tiến độ cổ phần hoá DNNN. Một số khó khăn, vướng mắc trong chính sách cổ phần hoá chưa được xử lý kịp thời như: đối tượng cổ phần hoá, việc bán cổ phần ra bên ngoài, chính sách bán cổ phần ưu đãi, phương thức bán cổ phần, quy định về xác định giá trị doanh nghiệp; chưa có giải pháp xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính, quy trình cổ phần hoá toàn bộ tổng công ty nhà nước. Những khó khăn, vướng mắc của DNNN sau cổ phần hoá chưa được xử lý kịp thời, vẫn còn tình trạng phân biệt đối xử trong việc cho thuê đất, chuyển quyền sử dụng đất, di chuyển địa điểm sản xuất, vay vốn kinh doanh… CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DNNN TẠI VIỆT NAM 1)Thực trạng chung hiện nay: Quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước trên thực tế được triển khai trên nhiều bình độ, trong đó nổi lên một xu hướng được coi là chủ lưu: đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Trong chương trình “đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước" thì ai cũng biết, cổ phần hóa các doanh nghiệp là một nội dung được coi là chủ yếu. Chương trình sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước được khởi động từ đầu những năm 1990 đến nay đã làm được nhiều việc; trong đó ấn tượng nhất là số lượng doanh nghiệp nhà nước từ hơn 12 nghìn năm 1992 đã giảm xuống còn gần 2.200 (9-2006); trong đó, hơn 1.500 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, 355 doanh nghiệp quốc phòng an ninh và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, số còn lại là các nông, lâm trường quốc doanh, với tổng số vốn nhà nước gần 260 nghìn tỷ đồng. Một phần trong số này nằm trong 105 tập đoàn và tổng công ty (trong đó 7 tập đoàn, 13 tổng công ty 91; 83 tổng công ty thuộc các bộ, ngành, địa phương và 2 tổng công ty thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than - khoáng sản Việt Nam). Đóng góp vào mức giảm số lượng gần 10 nghìn doanh nghiệp nhà nước từ năm 1992 đến nay, hình thức cổ phần hóa chỉ chiếm 1/4 (3.060 doanh nghiệp), còn 6.740 doanh nghiệp (3/4 số doanh nghiệp) giảm đi qua các hình thức chuyển đổi, sáp nhập và một phần không đáng kể bị giải thể. Theo đánh giá của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, nhìn chung các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều nâng cao được hiệu quả sản xuất, kinh doanh với các mức độ khác nhau. Dựa trên báo cáo của các bộ, ngành, địa phương về kết quả hoạt động của 850 doanh nghiệp cổ phần hóa đã hoạt động trên 1 năm cho thấy, vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%. Đặc biệt, có tới trên 90% số doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 12%, số lao động tăng bình quân 6,6%, cổ tức bình quân đạt 17,11%. Báo cáo tình hình thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại phiên họp thứ 43 của ủy ban Thường vụ Quốc hội (ngày 21-9-2006) nhận định: "Qua hơn 15 năm triển khai, chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã đạt được những hiệu quả về kinh tế, chính trị, xã hội nhất định, tạo sự rõ ràng về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của từng thành phần sở hữu, từng cổ đông; xoá bỏ cơ chế phân phối bình quân; hình thành phương thức phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ góp vốn, giảm được sự can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước; tạo cơ chế quản lý tự chủ, tự chịu trách nhiệm nhằm thúc đẩy doanh nghiệp năng động hơn; tạo cơ sở pháp lý và vật chất để người lao động xác lập và nâng cao vai trò làm chủ, gắn bó máu thịt với doanh nghiệp. Kết quả nổi bật của cổ phần hoá là năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước được nâng lên đáng kể. Họ phải tự tìm kiếm cơ hội, đối tác kinh doanh, chủ động đổi mới công nghệ, tiết kiệm tối đa các chi phí để tăng doanh thu. Cổ phần hoá cũng đã huy động thêm vốn của xã hội đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh, tạo cơ hội việc làm cho người lao động. Dưới góc độ phân công lao động trong xã hội, cổ phần hoá đã thật sự giải phóng sức lao động từ chỗ đông mà không mạnh, ỷ lại, dựa dẫm, thụ động chuyển sang chủ động, tích cực hơn trong nền kinh tế nhiều thành phần với thái độ đầy đủ hơn, trách nhiệm hơn, góp phần tăng thu nhập cho xã hội, cho Nhà nước và cho người lao động". Và cũng theo đánh giá của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, sau quá trình thực hiện sắp xếp, số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm nhưng vẫn tiếp tục giữ vai trò chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt. Khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng góp gần 40% GDP và 50% tổng thu ngân sách nhà nước. Thực tiễn đó đã đủ để khẳng định, về cơ bản cổ phần hóa là một hướng đổi mới doanh nghiệp phù hợp với tiến trình đổi mới kinh tế nói chung. Nhưng, một nghịch lý đã từng tồn tại ngay từ khi công cuộc cổ phần hóa được khởi động cho đến tận nay là "Tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp Việt Nam còn chậm, chưa đạt yêu cầu" như nhan đề của một bài viết đăng trên website của Đảng (ngày 21-9-2006). Bản báo cáo nêu rõ: những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2001, số lượng doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa tăng đáng kể, nhưng nhìn chung việc triển khai còn chậm. Số doanh nghiệp được cố phần hóa tăng nhiều, nhưng số vốn mới chiếm 12% tổng số vốn trong các doanh nghiệp nhà nước; nếu trừ đi phần vốn nhà nước còn giữ lại gần 50% trong các doanh nghiệp cố phần hóa, thì thực chất tỷ lệ trên chỉ chiếm khoảng 6%. So với mục tiêu của Nghị quyết Trung ương 9 khoá IX thì còn chậm, nhất là các doanh nghiệp có quy mô lớn, các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Tiến độ cổ phần hóa không đồng đều giữa các bộ, ngành, địa phương; một số bộ, ngành chưa hoàn thành theo đề án đã được phê duyệt. Như vậy, tuy số lượng doanh nghiệp có thể nhiều, nhưng xét về chỉ tiêu vốn đã được cổ phần hóa thì coi như không đáng kể, thậm chí chưa xứng với một chương trình lớn ở tầm quốc gia, bởi vì cổ phần hóa dường như ít ảnh hưởng tới nguyên tắc thị trường của các doanh nghiệp nhà nước nói riêng và toàn bộ cơ chế vận hành của nền kinh tế nói chung. Điều này cũng có nghĩa là, mục tiêu chính của sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước là góp phần thúc đẩy nhanh sự chuyển đổi cơ chế của nền kinh tế, làm cho nguyên tắc thị trường thay thế nguyên tắc kế hoạch hóa tập trung, vẫn chưa đạt được như mong đợi. Chính vì vậy mà tại Hội nghị về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2006-2010 được tổ chức ngày 7-10-2006 vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: "Nhiệm vụ sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp trong 5 năm tới trọng tâm là cổ phần hóa. Mục tiêu đến năm 2010, chúng ta sẽ cơ bản cổ phần hóa xong doanh nghiệp nhà nước". Phương án được lựa chọn để tiếp tục thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước từ nay đến 2010 là đẩy mạnh sắp xếp, cố phần hóa các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Theo đó, từ nay đến hết năm 2010 sẽ cổ phần hóa khoảng 1.500 doanh nghiệp (riêng các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty nhà nước phải hoàn thành trong năm 2008), trong đó, năm 2007 phải cổ phần hóa 550 doanh nghiệp (có khoảng 20 tổng công ty), số còn lại sẽ thực hiện trong các năm 2008-2009, một số công ty và số ít doanh nghiệp chưa cố phần hóa được thực hiện trong năm 2010. Theo kết quả này, đến cuối năm 2010, cả nước sẽ chỉ còn 554 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, trong đó có 26 tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn; 178 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ thiết yếu; 200 nông, lâm trường; 150 doanh nghiệp thành viên các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Có thể nói rằng, đây là một trong những nhiệm vụ rất khó khăn trong những năm sắp tới. Bởi vì như thực tiễn nhiều năm qua đã cho thấy, không chỉ khối lượng công việc phải tiến hành rất lớn, mà còn có thể phải đối mặt với không ít trở lực. Trong 4 năm sắp tới (2007-2010) sẽ phải cổ phần hóa 1.500 doanh nghiệp (bình quân mỗi năm cổ phần hóa 375 doanh nghiệp), riêng năm 2007 đặt kế hoạch cổ phần hóa 550 doanh nghiệp. Chỉ tiêu này tuy không cao hơn nhiều so với kế hoạch của một số năm trước, nhưng so với kinh nghiệm thực hiện nhiều năm thì rất cao. Như trên đã nêu, trong khoảng 15 năm (1992-2006), cả nước cổ phần hóa được 3.060 doanh nghiệp, tức là bình quân mỗi năm cổ phần hóa được 204 doanh nghiệp. Tất nhiên, với quyết tâm cao và kinh nghiệm đã tích lũy được, hoàn toàn có cơ sở để hoàn thành mục tiêu này, dĩ nhiên là còn cần phải có những đổi mới mạnh mẽ trong phương thức tiến hành cổ phần hóa. Thật vậy, với cách làm như từ trước đến nay, diện mạo của tình hình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam là: "quy mô doanh nghiệp được sắp xếp hoặc cổ phần hóa trong thời gian qua chủ yếu vẫn là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong tổng số doanh nghiệp được cổ phần hóa có trên 2.600 đơn vị có quy mô dưới 10 tỉ đồng. Tuy việc cố phần hóa các doanh nghiệp quy mô trên 10 tỉ đồng đã tăng lên trong các năm 2004-2005, số doanh nghiệp dưới 10 tỉ vẫn chiếm 80% tổng số được cổ phần hóa... Đáng chú ý, trong số các đơn vị đã cổ phần hóa có tới gần 1.200 đơn vị nhà nước tiếp tục giữ trên 50% vốn điều lệ, tỷ lệ này tương đương khoảng 33% nhưng hầu hết đây là những doanh nghiệp có vốn lớn. Nhiều doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nước nắm 100% vốn nhưng đã tránh cổ phần hóa bằng cách chuyển sang mô hình công ty mẹ - công ty con hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Số lượng doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch vụ công ích còn lớn, nhưng không ít doanh nghiệp có số thu từ dịch vụ công ích dưới 20%. Hiệu quả của quá trình sắp xếp, cổ phần hóa vẫn chưa được như mong đợi. Tuy Chính phủ đã hỗ trợ: loại trừ tài sản và công nợ không tính vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa trên 2.500 tỉ đồng; xóa nợ thuế và các khoản phải nộp Nhà nước trên 310 tỉ đồng; ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trên 1.000 tỉ đồng; chi phí cho cải cách doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng thương mại để hỗ trợ doanh nghiệp sắp xếp và xử lý nợ và lỗ là 2.962 tỉ đồng; hỗ trợ lao động dôi dư 6.000 tỉ đồng; chi xử lý nợ các ngân hàng thương mại 8.317 tỉ đồng. Tình trạng này cho thấy, cổ phần hóa chưa đạt được kết quả tương xứng với sự kỳ vọng cũng như hỗ trợ của Nhà nước. Một khía cạnh rất quan trọng khác của tình hình là bộ máy quản lý và phương thức hoạt động của các doanh nghiệp được cổ phần hóa. Công chúng vẫn thấy một tình hình rất phổ biến là những “Công ty cổ phần nhà nước”. Bởi vì, “Sau khi cổ phần hóa, khoảng 81,5% giám đốc, 78% chức danh phó giám đốc và kế toán trưởng không có sự thay đổi. Điều này cho thấy trên thực tế là nhiều doanh nghiệp sau cổ phần hóa vẫn hoạt động như trước cả về tổ chức, tư duy, công nghệ, quản lý và triết lý kinh doanh vẫn mang dáng dấp của doanh nghiệp nhà nước. Nếu có thay đổi chỉ là giám đốc doanh nghiệp nhà nước cũ trở thành lãnh đạo mới của công ty cổ phần, chưa có doanh nghiệp nào sử dụng cơ chế thuê giám đốc điều hành”(7). Rõ ràng, để tăng tốc tiến trình cổ phần hóa trong những năm tới, cần phải xem xét lại nhiều vấn đề liên quan, trong đó đặc biệt là các chính sách thực thi cổ phần hóa đã và đang được áp dụng. 2)Một số DNNN điển hình: a/DNNN cổ phần hóa không đạt mục tiêu: Đó là phương án CPH TCty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn được Bộ Công nghiệp trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với vốn điều lệ là 5.500 tỉ đồng thì phần vốn Nhà nước nắm giữ tới 80% là quá lớn và không cần thiết, còn phần bán cho CBNV và ra ngoài có 20%.  Hay theo hồ sơ bán đấu giá cổ phần lần đầu của Cty thuỷ điện Thác Mơ thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam ngày 29.3.2007 có vốn điều lệ 700 tỉ đồng thì phần vốn Nhà nước nắm giữ cũng tới 79,73%, bán ra bên ngoài 20%, còn phần bán ưu đãi cho người lao động chỉ có 0,27%.   Đây là một xu hướng không tích cực, cả bộ chủ quản lẫn DN đều muốn Nhà nước (mà thực chất là bộ và DN) nắm giữ cổ phần chi phối tới 80%. Trong khi DN rượu - bia - nước giải khát thực ra Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối, còn với khâu phát điện Nhà máy thuỷ điện Thác Mơ với công suất 150MW thì giai đoạn đầu Nhà nước cũng chỉ cần nắm giữ cổ phần chi phối ở mức trên 51% là được.   Hiện cả nước còn 2.176 DN 100% vốn nhà nước chưa CPH với giá trị tài sản 260 nghìn tỉ đồng (đó là giá trên sổ sách kế toán, nếu CPH áp giá mới đánh giá lại thì giá trị tài sản còn lớn hơn nhiều).  Nếu vẫn cung cách xây dựng và phê duyệt phương án CPH như trên thì rất khó đẩy nhanh tốc độ CPH DNNN và hiệu quả huy động vốn của các nhà đầu tư sẽ vẫn rất thấp. b/Các DNNN cổ phần hóa có hiệu quả: Công ty cổ phần cơ điện lạnh tại Thành phố Hồ Chí Minh là một minh chứng điển hình của các doanh nghiệp cổ phần hoá làm ăn có hiệu quả. Với số vốn ban đầu 15 tỉ đồng, sau 5 năm cổ phần hoá, vốn của doanh nghiệp đã tăng lên 167 tỉ đồng, doanh thu tăng từ 78,44 tỉ đồng lên 353 tỉ đồng và lợi nhuận tăng gấp 4 lần, thu nhập bình quân hàng tháng của người lao động tăng từ 1,4 triệu đồng lên 2 triệu đồng. Công ty cổ phần bông Bạch Tuyết chỉ có 11 tỉ đồng vốn khi tiến hành cổ phần hoá, sau 1 năm số vốn này đã tăng lên 15 tỉ đồng, doanh thu tăng 22 lần, lợi nhuận tăng 30%. c/Các dự án cổ phần hóa khác: Ngân hàng Thương mại Việt Nam và Công ty bảo hiểm Bảo Việt nằm trong số các doanh nghiệp nhà nước bắt đầu bán cổ phần cho công chúng trong năm nay; 26 công ty khác, trong đó có VietNam Airlines, sẽ được cổ phần hóa vào năm 2008. 19 công ty khác sẽ bán cổ phần vào năm 2009 và đến năm 2010 sẽ có thêm 6 công ty tiến hành cố phần hóa. Một viên chức của VietNam Airlines, ông Trần Đình Hùng, cho phái viên AP biết rằng công ty đang nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của thủ tướng này dự trù bán từ 10 đến 20% phần hùn cho công chúng. Ông Hùng nói thêm rằng sau khi cổ phần hóa, công ty ông sẽ hoạt động có hiệu quả và năng động hơn. Đầu năm 2006 đã triển khai sắp xếp: Công ty mía đường, đã phê duyệt giá trị doanh nghiệp; xây dựng phương thức bán và giá khởi điểm để đưa ra đấu giá. Tỉnh củng đã kiến nghị Bộ Tài chính giao cho Trung tâm thẩm định giá và dịch vụ bất động sản để tổ chức đấu giá nhà máy đường. Quyết định phê duyệt phương án chuyển đổi công ty bế xe tàu thành đơn vị sự nghiệp có thu thực hiện theo Nghị định số 10 của Thủ tướng Chính phủ. Xây dựng phương án hợp nhất giữa Công ty du lịch và Công ty thương mại thành Công ty du lịch thương mại, hoạt động theo mô hình Công ty mẹ, công ty con. Triển khai xây dựng phương án thành lập Công ty nông lâm nghiệp. Triển khai thực hiện cổ phần hoá: Tổ chức đại hội cổ đông thành lập công ty cổ phần nông lậm sản. Các đơn vị: Công ty TNHH Kiên Hùng I và các cơ sở của Công ty Du lịch (Khách sạn nhà hàng Tô Châu, Nhà hàng Hải Âu, khách sạn- nhà hàng Hòn Trẹm và các cơ sở du lịch tại Mũi Nai) đang trong quá trình thẩm định giá trị doanh nghiệp để lập phương án cổ phần hoá. Đối với Công ty xuất nhập khẩu thủy sản, hiện đang trong quá trình quyết toán tài chính năm 2005 và thẩm định giá trị doanh nghiệp để lập phương án cổ phần hoá. Có thể nói tiến động sắp xếp và thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh quản lý vẫn đảm bảo theo kế hoạch đề ra, các doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hoá (Công ty cổ phần chế biến thủy sản xuất khẩu Ngô Quyền, Công ty cổ phần nước đá thủy sản, Công ty cổ phần chế biến thực phẩm đóng hộp, Công ty cổ phần vận tải thủy bộ,….đều có công nhân tham gia vay; đồng thời đơn vị đã chủ động qua hệ với các ngân hàng thương mại để vay vốn cho công nhân, viên chức của doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính (thế chấp bằng cổ phiếu), mua cổ phần ưu đãi, nhằm hạn chế tình trạng mua, bán cổ phần ưu đãi giữa công nhân viên chức với nhau. Ngoài ra theo như Ban chỉ đạo đổi mới phát triển doanh nghiệp tỉnh cho biết từ khi chuyển giao một số doanh nghiệp: Công ty TNHH Kiên Hùng I, Công ty cổ phần chế biến xuất khẩu thủy sản Ngô Quyền, Công ty cổ phần nước đá thủy sản, Công ty cổ phần chế biến thực phẩm đóng hộp, Công ty cổ phần nước mắm Nam Phương và Công ty cổ phần khai thác thủy sản (Công ty quốc doanh đánh cá cũ) về Công ty thương mại đại diện làm chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp này, hoạt động hiệu quả tốt hơn, do Công ty thương mại đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và đã hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp này hoạt động. d/DNNN điển hình: Công ty Cổ phần sữa Việt Nam(vốn điều lệ 1.590.000.000.000 đồng) Theo điều lệ của công ty Điều 2: Tên, Hình thức, Trụ sở, Đại diện theo pháp luật, Chi nhánh, Văn phòng đại diện và Thời hạn hoạt động của Công ty 1. Tên hợp pháp của Công ty bằng tiếng Việt là Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam. Tên đăng ký hợp pháp của Công ty bằng tiếng Anh là Vietnam Dairy Products Joint-Stock Company. Tên viết tắt là Vinamilk. 2. Công ty được thành lập theo phương thức chuyển từ một doanh nghiệp nhà nước thành một công ty cổ phần, được tổ chức quản lý và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Theo đó, Công ty có tư cách pháp nhân kể từ Ngày Thành lập, và các Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của Công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào Công ty. 3. Trụ sở đăng ký của Công ty là: Địa chỉ: 184-186-188 Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh Điện thoại: (848) 9300 358 Fax: (848) 9305 206 E-mail: vinamilk@vinamilk.com.vn Website: www.vinamilk.com.vn 4. Tổng Giám đốc sẽ là đại diện theo pháp luật của Công ty. 5. Công ty có thể thành lập chi nhánh và văn phòng đại diện tại Địa bàn Kinh doanh để hỗ trợ các mục tiêu của Công ty phù hợp với Nghị quyết của Hội đồng quản trị và trong phạm vi Pháp luật cho phép. 6. Trừ khi chấm dứt hoạt động trước thời hạn theo Điều 43.2 và 44 hoặc gia hạn hoạt động theo Điều 45, Thời hạn của Công ty là 50 năm kể từ Ngày Thành lập Theo Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Nguyễn Xuân Thúy, Bộ Công nghiệp đã quyết định  khi tiến hành cổ phần hóa Công ty Vinamilk, Nhà nước giữ 80% vốn điều lệ của công ty, 20% còn lại được bán cho cán bộ nhân viên công ty và các cổ đông bên ngoài (chủ yếu là các hộ bán sữa cho công ty, các đối tác chiến lược...). Lý do Nhà nước giữ cổ phần lớn ở Vinamilk vì đây là công ty có vốn lớn và đang kinh doanh có hiệu quả (đối với các công ty loại này, qui định là khi cổ phần hóa Nhà nước phải giữ cổ phần chi phối). Ngoài ra, mức cổ phần bán ra cho cán bộ nhân viên và cổ đông bên ngoài tuy chỉ có 20% nhưng do Vinamilk khi cổ phần hóa có vốn điều lệ lớn (khoảng 1.500 tỉ đồng) nên lượng cổ phần bán ra cũng không phải ít. Thứ trưởng Nguyễn Xuân Thúy cũng cho biết ngoài Vinamilk, hiện nay Bộ Công nghiệp đang đẩy mạnh thực hiện cổ phần hóa ở gần 100 doanh nghiệp thuộc bộ quản lý, trong số này có khá nhiều doanh nghiệp loại lớn và làm ăn có hiệu quả 3)Mục tiêu hoàn thành CPH hơn 1500 DNNN vào năm 2010: Sau quá trình thực hiện sắp xếp, số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm nhưng vẫn tiếp tục giữ vai trò chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng góp gần 40% GDP và 50% tổng thu ngân sách Nhà nước. Dựa trên báo cáo của các bộ, ngành, địa phương về kết quả hoạt động của 850 doanh nghiệp CPH đã hoạt động trên 1 năm cho thấy, vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%. Đặc biệt, có tới trên 90% số doanh nghiệp sau CPH hoạt động kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 12%, số lao động tăng bình quân 6,6%, cổ tức bình quân đạt 17,11%. Cùng với việc sắp xếp, CPH doanh nghiệp Nhà nước, từ năm 2001 đến nay, trên địa bàn cả nước đã tiến hành giải thể 5 tổng công ty không giữ được vai trò chi phối, đồng thời hỗ trợ các công ty thành viên sát nhập, hợp nhất 7 tổng công ty; tổ chức lại tổng công ty rượu - bia - nước giải khát thành 2 tổng công ty; thành lập thêm 17 tổng công ty Nhà nước, tổ chức lại 7 tổng công ty thành tập đoàn, đưa 1 tổng công ty 90 vào cơ cấu của tập đoàn. Như vậy, đến hết tháng 9/2006, cả nước đã có 105 tập đoàn và tổng công ty, cụ thể gồm 7 tập đoàn, 13 tổng công ty 91; 83 tổng công ty thuộc các bộ, ngành, địa phương và 2 tổng công ty thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than - khoáng sản Việt Nam. Theo số liệu tổng hợp từ các bộ, địa phương, đến nay, cả nước còn 2.176 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước với tổng số vốn Nhà nước gần 260 nghìn tỷ đồng. Trong đó, 1.546 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, 355 doanh nghiệp quốc phòng an ninh và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và 295 nông, lâm trường quốc doanh. Phương án được lựa chọn để tiếp tục thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước từ nay đến 2010 là đẩy mạnh sắp xếp, CPH các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước. Theo đó, từ nay đến hết năm 2010 sẽ cổ phần hoá khoảng 1.500 doanh nghiệp (riêng các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty Nhà nước phải hoàn thành trong năm 2008), trong đó, năm 2007 phải CPH 550 doanh nghiệp (có khoảng 20 tổng công ty), số còn lại sẽ thực hiện trong các năm 2008- 2009, một số công ty và số ít doanh nghiệp chưa cổ phần hoá được sẽ thực hiện trong năm 2010. Như vậy, đến cuối năm 2010, cả nước sẽ chỉ còn 554 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, trong đó có 26 tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn; 178 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ thiết yếu; 200 nông, lâm trường; 150 doanh nghiệp thành viên các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước. Tại hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo, để cơ bản hoàn thành xong CPH vào năm 2010, chúng ta dự kiến sẽ phải cổ phần hoá xong 79 tổng công ty trong số 105 tổng công ty và CPH khoảng 1.500 doanh nghiệp, còn lại là các doanh nghiệp công ích, nông, lâm trường. Theo Thủ tướng, trước mắt, trong khi chưa thực hiện CPH được tổng công ty thì tiến hành cổ phần hóa tất cả các doanh nghiệp thành viên trước và chuyển sang mô hình hoạt động công ty mẹ - con. Chúng ta chưa cần CPH ngay các tổng công ty vì hiện vẫn chưa có kinh nghiệm cổ phần hóa tổng công ty. Vì thế, Ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp sẽ có hướng dẫn cụ thể đối với các tổng công ty. Riêng những lĩnh vực mới, kể cả những lĩnh vực nhạy cảm, đòi hỏi Nhà nước phải tham gia quản lý như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, điện lực, viễn thông thì phải xây dựng đề án CPH cụ thể để trình Chính phủ phê duyệt. Đối với những doanh nghiệp đã lỗ hết vốn thì buộc phải giải thể và thực hiện chính sách lao động dôi dư hoặc bán đấu giá mặt bằng thu hồi về cho Nhà nước. Một vấn đề quan trọng nữa là CPH phải gắn liền với vấn đề đưa ra sàn đấu giá và niêm yết trên thị trường chứng khoán (tính đến thời điểm này, mới chỉ có

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doccophanhoaDNNN.doc
Tài liệu liên quan