MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA CÁC DNNN Ở VIỆT NAM 2
I. Quan niệm về cổ phần hoá DNNN : 2
II. Nội dung cổ phần hoá : 3
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ - NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN CẦN THÁO GỠ 7
I. Tiến trình cổ phần hoá trong những năm qua : 7
1. Giai đoạn thí điểm ( 1992 – 5/1996 ) 7
2. Giai đoạn mở rộng cổ phần hoá ( 5/1996 – 6/1998 ) : 8
3. Giai đoạn thực hiện theo nghị định 44/CP đến nay : 10
II. Một số khó khăn cần tháo gỡ : 11
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY CỔ PHẦN HOÁ 13
I. Tiếp tục cổ phần hóa các công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, địa phương : 13
II. Đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hóa các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước: 14
III. Cổ phần hoá các ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm: 14
KẾT LUẬN 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2450 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam - Những kết quả đạt được và những khó khăn cần tháo gỡ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng phải là công ty cổ phần sang hoạt động theo quy chế của công ty cổ phần. Từ quan niệm đó, kết hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta có thể đưa ra khái niệm cổ phần hoá DNNN là việc chuyển doanh nghiệp mà chủ sở hữu là nhà nước( doanh nghiệp đơn sở hữu ) thành công ty cổ phần( đa sở hữu ), chuyển doanh nghiệp từ nhỏ hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà nước sang hoật động theo các quy định về công ty cổ phần trong luật doanh nghiệp.
Từ nghị quyết của hội nghị lần thứ 2 ban chấp hành TW Đảng khoá VII ( 6/1992 )
tiếp đó là quyết định số 202/CT ( 6/1992 ) của chủ tịch hội đồng bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính phủ ), rồi tới các nghị định số 28/CP ( 7/5/1996 ), 25/CP ( 23/7/1997), nghị định HH/CP ( 29/6/1998 ), nghị quyết hội nghị lần thứ 3 ban chấp hành TW Đảng khoá IX - số 05 – NQTW ( 24/9/2001). Cổ phần hoá luôn được Đảng và nhà nước xác định là việc chuyển các DNNN thành các công ty cổ phần nhằm thực hịên các mục tiêu :
Chuyển một phần sở hữu nhà nước sang sở hữu hỗn hợp
Huy động vốn của toàn xã hội
Tạo điều kiện để người lao động trở thành người làm chủ thực sự của doanh nghiệp
Thay đổi phương thức quản lí trong doanh nghiệp
Sau một thời gian tiến hành thí điểm cổ phần hoá, chính phủ đã có sự nghiên cứu và sửa đổi nội dung mục tiêu cổ phần hoá cho phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước và xu thế biến đổi chung của thị trường. Theo nghị định 44 CP ngày 29/6/1998 thì mục tiêu cổ phần hoá được rút gọn từ ba mục tiêu xuống còn hai nhưng nội dung chính vẫn được giữ nguyên. Cụ thể:
Mục tiêu 1: Huy động vốn của toàn xã hội bao gồm các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu DNNN.
Mục tiêu 2: Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
Như vậy có thể thấy so với các nước đã và đang tiến hành cổ phần hoá trên thế giới, ở nước ta chủ trương cổ phần hoá DNNN lại xuất phát từ đường lối kinh tế và đặc điểm KT – XH trong giai đoạn hiện nay: Chúng ta đang bố trí lại cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ chế quản lí cho phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Đó là đặc điểm lớn nhất chi phối, quyết định mục đích, nội dung và phương thức cổ phần hoá DNNN. Vì vậy thực chất cổ phần hoá ở nước ta là nhằm sắp xếp lại DNNN cho hợp lí và hiệu quả, còn việc chuyển đổi sở hữu của các cổ đông trong công ty cổ phần chỉ là một trong những phương tiện quan trọng để thực hiện mục đích trên.
II. Nội dung cổ phần hoá :
Với mục tiêu như trên, tiến trình cổ phần hoá đã dành được quan tâm đặc biệt của Đảng, Chính phủ và các ban nghành, chính quyền địa phương. Tong suốt gần 22 năm thực hiện nhiều văn bản pháp quy, quy định chi tiết nội dung cổ phần hoá DNNN đã được ban hành nhằm đưa công tác cổ phần hoá phù hợp với từng giai đoạn. Đặc biệt nghị định HH/CP ( 29/6/1998 ) và nghị định 64/2002/NĐ – CP ( 19/6/2002 ) của Chính phủ quy định chi tiết nội dung cổ phần hoá bao gồm: Đối tượng cổ phần hoá, hình thức cổ phần hoá, xác định giá trị doanh nghiệp, đối tượng mua cổ phần và phân tích đánh giá thực trạng doanh nghiệp.
Về đối tượng cổ phần hoá :
Xuất phát từ thể chế chính trị, lịch sử, để phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện kinh tế nước ta. Đối tượng thực hiện cổ phần hoá là những DNNN hội tụ đủ 3 điều kiện:
Có quy mô vừa và nhỏ
Không thuộc diện nhà nước giữ 100% vốn đầu tư
Có phương án kinh doanh hiệu quả hoặc tuy trước mắt có khó khăn nhưng triển vọng tốt.
Trong 3 điều kiện này, điều kiện thứ 2 ( DN không thuộc diện nhà nước giữ 100% vốn đầu tư là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước, là đòn bẩy kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế hát triển ổn định, theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về lựa chọn hình thức tiến hành :
Theo quy định thì có 4 hình thức cổ phần hoá, ban cổ phần hoá sẽ lựa chọn một hình thức phù hợp với điều kiện cụ thể của người lao động. Các hình thức đó là :
Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn.
Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
Thực hiện các hình thức 2 hoặc 3 kết hợp với phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn.
Trên cơ sở đã lựa chọn hình thức cổ phần hoá, khâu tiếp theo đó là xác định giá trị doanh nghiệp :
Đây là một khâu quan trọng và thường chiếm nhiều thời gian, công sức nhất trong quá trình cổ phần hóa. Có 2 nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp được đưa ra đó là :
Giá trị thực tế là giá toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa mà người mua người bán cổ phần đều chấp nhận được.Người mua và người bán cổ phần sẽ thoả thuận theo nguyên tắc tự nguyện, đôi bên cùng có lợi. Tại các nước có nền kinh tế phát triển, thoả thuận này diễn ra trên thị trường chứng khoán, còn ở nước ta thoả thuận có thể diễn ra thông qua các công ty môi giới, kiểm toán (đã diễn ra trên thị trường chứng khoán nhưng chưa phổ biến). Trên cơ sở xác định được giá trị thực tế của doanh nghiệp, giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp sẽ là phần còn lại của giá trị thực tế sau khi đã trừ đi các khoản nợ phải trả và số dư quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi.
Căn cứ xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp đó là số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá và giá trị thực tế của tài sản tại doanh nghiệp được xác dịnh trên cơ sơ hiện trạng về số lượng, chất lượng, tính năng kĩ thuật của tài sản, nhu cầu sử dụng và giá thị trường tại thời điểm cổ phần hóa. Giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế kinh doanh, tính chất độc quyền về sản phẩm, thương hiệu của doanh nghiệp.
Nguyên tắc này được đặt ra để đảm bảo tính khách quan trong việc xác định giá trị doanh nghiệp.Thực tế việc cổ phần hoá các doanh nghiệp cho thấy rằng các doanh nghiệp dăng kí cổ phần hoá thường có xu hướng định thấp giá trị doanh nghiệp, thông qua việc khai báo không chính xác như khai thấp giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp, khai không đúng lượng vốn … Từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến việc xác định giá trị doanh nghiệp và gây thiệt hại cho nhà nước. Ngược lại hiện tượng cơ quan kiểm toán định giá cao hơn giá trị thực của doanh nghiệp lại có thể làm thiệt hại cho người mua cổ phần.
Xác định đối tượng mua cổ phần và cơ cấu phân chia cổ phần :
Các đối tượng được phép mua cổ phần: Đó là các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, công dân Việt Nam, người nước ngoài định cư ở Việt Nam trong đó cán bộ công nhân viên tại các DNNN là đối tượng được ưu tiên mua cổ phần.
Về số lượng cổ phần được mua có quy định như sau :
Loại doanh nghiệp mà nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt: một pháp nhân được mua không quá 10%, một cá nhân được mua không quá 5% tổng số cổ phần doanh nghiệp.
Loại doanh nghiệp mà nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt: một pháp nhân được mua không quá 20%, một cá nhân không được mua quá 10% tổng số cổ phần doanh nghiệp.
Loại doanh nghiệp mà nhà nước không tham gia cổ phần: không hạn chế số lượng cổ phần lần đầu mỗi pháp nhân và cá nhân được mua nhưng phải đảm bảo số cổ đông tối thiểu theo đúng quy định của luật doanh nghiệp.
Trên đây là mức quy định cụ thể về đối tượng mua cũng như mức mua cổ phần, tuy nhiên nghị định HH/CP đã có sự điều chỉnh nhằm khuyến khích việc mua cổ phần. Cụ thể là mọi người mua cổ phần sẽ được vay một cổ phiếu khi mua một cổ phiếu bằng tiền mặt. Với người lao động, họ sẽ được nhà nước bán cổ phần với mức giá thấp hơn 30% so với giá bán cho các đối tượng khác. Mỗi năm làm việc tại doanh nghiệp được mua tối đa 10 cổ phần. Đối với người lao động nghèo trong doanh nghiệp cổ phần hoá, ngoài việc được mua cổ phần ưu đãi họ còn được hoãn trả tiền mua cổ phần trong 3 năm đầu mà vẫn được hưởng lợi tức. Số tiền này sẽ trả dần trong 10 năm không phải trả lãi.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ - NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN CẦN THÁO GỠ
I. Tiến trình cổ phần hoá trong những năm qua :
1. Giai đoạn thí điểm ( 1992 – 5/1996 )
- Ngày 08/06/1992, chủ tịch HĐBT đã ra quyết định 202/CT cho phép lựa chọn và triển khai thí điểm cổ phần hoá ở một số DNNN. Mốc quan trọng này mở ra một hướng đi mới cho việc cải cách DNNN ở Việt Nam.
- Ngày 04/03/1993, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị 84/TTg về việc xúc tiến cổ phần hoá DNNN và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các DNNN.
+ Về mục tiêu của giai đoạn này là thí điểm cổ phần hoá để từ đó rút ra kinh nghiệm và mở rộng việc cổ phần hoá sau này.
+ Về đối tượng cổ phần hoá ở giai đoạn này là các DNNN kinh doanh trong các nghành thông dụng, không có ý nghĩa chiến lược đối với nền kinh tế quốc dân ( như dịch vụ và công nghiệp ).
Trong giai đoạn này, Nhà nước áp dụng hình thức chuyển một phần sở hữu Nhà nước dưới dạng bán cổ phần DNNN sang sở hữu tư nhân. Sau khi cổ phần hoá, DNNN chuyển sang hoạt động theo luật công ty. Đối với công nhân viên chức trong doanh nghiệp, người lao động được mua cổ phiếu trả chậm với thời gian không quá 12 tháng.
Ở giai đoạn thí điểm này, các bộ, nghành địa phương đã hướng dẫn DNNN đăng kí thực hiện cổ phần hoá. Trên cơ sở số lượng DNNN dăng kí, chủ tịch HĐBT ( nay là Thủ tướng chính phủ ) đã ra quyết định số 203/CT thí điểm chọn 7 DNNN do HĐBT chỉ đạo trực tiếp.
Tuy nhiên trong 4 năm mới thực hiện cổ phần hoá được 5 doanh nghiệp, bao gồm 3 doanh nghiệp trung ương và 2 doanh nghiệp địa phương. Tất cả các doanh nghiệp cổ phần đều có quy mô nhỏ và có lợi thế nhất định trong hoạt động kinh doanh. Trong giai đoạn này, Việt Nam chưa bán cổ phần cho thể nhân hoặc pháp nhân nước ngoài.
+ Hầu hết các doanh nghiệp cổ phần hoá lần này có số vốn ít, qui mô nhỏ. Tổng số vốn cao nhất là 16 tỷ đồng và thấp nhất là 3,5 tỷ.
+ Nhà nước nắm giữ 28,25% trong tổng số vốn điều lệ. Như vậy, Nhà nước không nắm mức cổ phần chi phối. Tỉ lệ vốn nhà nước trong các công ty cao nhất chỉ ở mức 30,2%, còn lại hầu như các cổ phiếu do cổ đông trong công ty nắm giữ. Tỉ lệ vốn do các cổ đông ngoài công ty đóng góp rất nhỏ, tính bình quân chỉ chiếm16,37%,…
Tóm lại, từ khi có chủ trương cổ phần hoá DNNN vào năm 1987 thì phải đến 6 năm sau ( tháng 7/1993 ), nhà nước ta mới cổ phần hóa được 5 doanh nghiệp. Điều này cho thấy tiến thình cổ phần hoá diễn ra rất chậm. Sự chậm trễ này là do chưa thông suốt các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cổ phần hoá.
2. Giai đoạn mở rộng cổ phần hoá ( 5/1996 – 6/1998 ) :
Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc chính phủ ban hành nghị định 28CP ngày 07/05/1995. Lần đầu tiên đã có một qui định một cách có hệ thống từ mục đích, yêu cầu, đối tượng đến phương thức tiến hành, chế độ đủ với người lao động.
- Tháng 12/1997, Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành TW Đảng đã ra nghị quyết, trong đó nêu rõ định hướng và giải pháp cổ phần hoá một bộ phận DNNN “ Phân loại doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp kinh doanh; xác định danh mục loại doanh nghiệp cần giữ 100% vốn Nhà nước; loại DNNN cần giữ tỷ lệ cổ phần chi phối; loại DNNN chỉ cần giữ cổ phần ở mức thấp “ và “ Đối với DNNN không cần giữ 100% vốn Nhà nước, cần lập kế hoạch cổ phần hoá để tạo động lực phát triển thúc đẩy làm ăn có hiệu quả “.
- Ngày 19-20/02/1998, Bộ Tài chính đã phối hợp với Ngân hàng thế giới ( WB ) tổ chức một cuộc hội thảo nhằm thúc đẩy qúa trình cổ phần hoá các DNNN ở Việt nam trên qui mô lớn.
- Ngày 20/04/1998, có chỉ thị 20/1998/CTCP-TTg của Thủ tướng chính phủ về việc đẩy mạnh, sắp xếp và đổi mới DNNN. Trong đó, DNNN được chia làm 3 nhóm:
1. Các DNNN quan trọng cần duy trì hoạt động theo luật DNNN.
2. Các DNNN cần chuyển đổi cơ cấu sở hữu.
3. Các DNNN thua lỗ kéo dài.
Các DNNN thuộc nhóm 2 là thuộc diện cổ phần hoá. Chính phủ yêu cầu từng Bộ, địa phương và tổng công ty 91 trong kế hoạch cổ phần hoá phải lựa chọn ít nhất 20% số doanh nghiệp không cần duy trì 100% vốn Nhà nước để thực hiện cổ phần hoá.
Kết quả là trong 2 năm, Nhà nước đã cổ phần hoá được 25 doanh nghiệp. Tuy vậy, tiến độ cổ phần hoá vẫn còn chậm. Chỉ tiêu năm 1998 phải cổ phần hoá được 150 doanh nghiệp chưa được hoàn thành.
Trong đó phải kể đến Thành phố HCM - Đơn vị dẫn đầu cả nước về cổ phần hoá. Trong năm 1996, thành phố đã mở lớp tập huấn cho trên 100 cán bộ thuộc DNNN về cổ phần hoá, tại các lớp chuyên viên kinh tế đã hướng dẫn tỷ mỉ về Nghị định 28/CP và lập ra các DNNN sẽ cổ phần hoá, kèm theo các hướng dẫn cụ thể. Riêng Hà Nội trong năm 1997 chỉ cổ phần hoá được 1 doanh nghiệp, chậm nhất trong cả nước.
* Các chỉ tiêu như vốn, nộp ngân sách, việc làm, thu nhập bình quân đều có sự tiến bộ đáng kể. Theo tổng kết 13 doanh nghiệp cổ phần đến giữa năm 1997, Ban cổ phần hoá DNNN đã có đánh giá như sau:
- Vốn bình quân tăng: 45%/năm
- Doanh thu tăng bình quân: 56,9%/năm
- Nộp ngân sách Nhà nước tăng bình quân: 98%/năm
- Lợi nhuận tăng bình quân: 70,2%/năm
- Việc làm tăng bình quân: 46,8%/năm
- Thu nhập người lao động tăng bình quân: 20%/năm
- Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu tăng: 14,1%/năm
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tăng: 74,6%/năm
* Tài sản của DNNN được đánh giá lại chính xác hơn: Lâu nay, tài sản thuộc các DNNN bị đánh giá thấp, khấu hao tích nộp rất thấp, không đủ bù đắp vốn để tái đầu tư, mở rộng phát triển sản xuất. Thông qua việc cổ phần hoá 18 doanh nghiệp trong giai đoạn trước 01/01/1998, tổng giá trị đánh giá lại đã tăng 48,8% so với tổng giá trị hạch toán.
* Nhà nước tăng nguồn thu ngân sách: thông qua tiền bán cổ phần và tiền lợi tức. Từ đó có thể đầu tư vào những lĩnh vực và vào các doanh nghiệp khác cần thiết hơn.
3. Giai đoạn thực hiện theo nghị định 44/CP đến nay :
Việc thực hiện chương trình cổ phần hoá chỉ thực sự có chuyển biến rõ rệt và thu được kết quả đáng khích lệ từ khi có nghị định 44/NĐ – CP ngày 29/6/1998 sự ra đời của nghị định này đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DNNN thực hiện cổ phần hoá. Bởi ngoài kế thừa nhiều mặt tích cực của nghị định 28/CP, Nghị định này đã có nhiều bổ sung sửa đổi và phát triển trên nhiều điểm mới để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cổ phần hoá.
Do có cơ chế thông thoáng và sự chỉ đạo điều hành tập trùn của Chính phủ cũng như của các cấp có thẩm quyền đã kịp thời tháo gỡ các khó khăn vướng mắc. Nên sau hơn 10 năm thực hiện, tiến trình cổ phần hoá đã có bước nhảy vọt với trên 3000 doanh nghiệp và bộ phận DNNN hoạt động hầu hết các lĩnh vực kinh tế của Việt Nam chuyển thành công ty cổ phần.
Tính đến tháng 8/2006, cả nước đã sắp xếp được 4.447 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 3.060 doanh nghiệp. Riêng từ năm 2001 đến nay đã sắp xếp được 3.830 doanh nghiệp nhà nước, bằng gần 68% số DNNN đầu năm 2001.
Sau qúa trình thực hiện sắp xếp, số lượng DNNN giảm nhưng vẫn tiếp tục giữ vai trò chi phối những nghành, lĩnh vực then chốt. Khu vực DNNN vẫn đóng góp gần 40% GDP và 50% tổng thu ngân sách nhà nước. Dựa trên báo cáo của các Bộ, Nghành, địa phương về kết quả hoạt động của 850 doanh nghiệp cổ phần hoá đã hoạt động trên 1 năm cho thấy, vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%. Đặc biệt có tới trên 90% số doanh nghiệp sau cổ phần hoá hoạt động kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân 24,9%, thu hập bình quân của người lao động tăng 12%, số lao động tăng bình quân 6,6%, cổ tức bình quân đạt 17,11%.
Cùng với việc sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, từ năm 2001 đến nay, trên địa bàn cả nước đã tiến hành giải thể 5 tổng công ty không giữ được vai trò chi phối, đồng thời hỗ trợ các công ty thành viên sát nhập, hợp nhất 7 tổng công ty; tổ chức lại tổng công ty rượu - bia - nước giải khát thành 2 tổng công ty; thành lập thêm 17 tổng công ty Nhà nước, tổ chức lại 7 tổng công ty thành tập đoàn, đưa 1 tổng công ty 90 vào cơ cấu của tập đoàn.
Như vậy, đến hết tháng 9/2007,cả nước đã có 105 tập đoàn và tổng công ty, cụ thể gồm 7 tập đoàn, 13 tổng công ty 91; 83 tổng công ty thuộc các bộ, ngành, địa phương và 2 tổng công ty thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than - khoáng sản Việt Nam. Theo số liệu tổng hợp từ các bộ, địa phương, đến nay, cả nước còn 2.176 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước với tổng số vốn Nhà nước gần 260 nghìn tỷ đồng. Trong đó, 1.546 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, 355 doanh nghiệp quốc phòng an ninh và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và 295 nông, lâm trường quốc doanh.
II. Một số khó khăn cần tháo gỡ :
Tuy đạt được những hiệu quả đáng ghi nhận nêu trên nhưng so với yêu cầu và mục tiêu thì việc cổ phần hóa, sắp xếp các doanh nghiệp còn gặp phải những hạn chế sau:
- Việc cổ phần hóa, sắp xếp các doanh nghiệp có quy mô lớn, trong đó các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hang thực hiện còn chậm.
- Các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và việc huy động vốn trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế. Thời kỳ đầu do chưa khuyến khích việc bán cổ phần ra bên ngoài nên số vốn huy động ngoài xã hội vào sản xuất, kinh doanh còn hạn chế. Chưa có doanh nghiệp nào tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa.
- Thời gian thực hiện cổ phần hóa một doanh nghiệp còn dài làm tiến độ cổ phần hóa chậm.
- Vốn nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong vốn điều lệ ở nhiều doanh nghiệp không thuộc diện cần giữ cố phần chi phối, phổ biến nhất là trong các tổng công ty nhà nước thuộc các ngành xây dựng, giao thng. Việc thu hút vốn cổ đông ngoài doanh nghiệp mới đạt 24,1% vốn điều lệ; mới có trên 20 công ty có cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài; các cổ đông chiến lược vì thế cũng không có nhiều cơ hội để tham gia vào phát triển sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc người lao động trong một số doanh nghiệp bán bớt cổ phần ưu đãi sau khi mua đã làm giảm tác dụng của chính sách khuyến khích người lao động có cổ phần trong doanh nghiệp cổ phần hóa.
- Nhiều công ty cổ phần chưa có sự đổi mới thực sự trong quản trị công ty; phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý vẫn còn như doanh nghiệp nhà nước. Hạn chế này rõ nhất là ở những doanh nghiệp mà Nhà nước còn giữ cố phần chi phối, ban lãnh đạo của doanh nghiệp đều tư doanh nghiệp nhà nước trước đó chuyển sang.
- Trong một số công ty cổ phần, người lao động - cổ đông do nhận thức chưa đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình, phần do sự hiểu biết pháp luật về công ty cổ phần còn hạn chế, nên có nơi quyền làm chủ chưa được phát huy, ngược lại có nơi lạm quy định của pháp luật gây khó khăn cho công tác quản lý của Hội đồng quản trị, sự điều hành của giám đốc. Nhiều nội dung của cơ chế, chính sách quản lý công ty cổ phần như: chính sách tiền lương, tiền thưởng … vẫn còn áp dụng như doanh nghiệp nhà nước.
- Một số công ty cổ phần kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh đạt thấp, chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành, lĩnh vực điều kiện phát triển khó khăn.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY
CỔ PHẦN HOÁ
I. Tiếp tục cổ phần hóa các công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, địa phương :
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh: tiến hành cổ phần hóa toàn bộ, kể cả doanh nghiệp hoạt động ở địa bàn khó khăn: hỗ trợ cho doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế, thu hút các nhà đầu tư có tiềm năng đến mua cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hoá ở địa bàn này. Những doanh nghiệp có khó khăn về tài chính cần cơ cấu lại trước khi chuyển đổi sở hữu. Những doanh nghiệp kết hợp kinh tế với quốc phòng, kinh tế với an ninh thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Công an hoạt động trong lĩnh vực may mặc, xây lắp, thương mại... sẽ cổ phần hóa; trường hợp thật cần thiết Nhà nước mới giữ cổ phần chi phối. Có chính sách, chế độ lương hợp lý đối với số sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp làm việc trong các doanh nghiệp cổ phần hoá.
Những công ty không còn vốn nhà nước thì bán, giải thể hoặc phá sản.
Đối với những doanh nghiệp quy mô nhỏ, có cùng ngành nghề hoặc có mối quan hệ về công nghệ, thị trường... với các doanh nghiệp khác thì xem xét sáp nhập, hợp nhất, không phụ thuộc vào doanh nghiệp do địa phương hay do Trung ương quản lý để hình thành những doanh nghiệp quy mô lớn hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con.
Sau khi tổ chức lại sẽ tiến hành cổ phần hóa công ty mẹ. Việc sáp nhập, hợp nhất không được làm ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất, kinh doanh, tài chính của đơn vị nhận sáp nhập, hợp nhất; phải tiến hành xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính, lao động trước khi thực hiện phương án sáp nhập, hợp nhất. Tránh tình trạng thực hiện sáp nhập một số DNNN quản lý yếu kém, kinh doanh thua lỗ vào các DNNN đang kinh doanh có hiệu quả làm giảm sức mạnh của đơn vị tiếp nhận.
Thực hiện cổ phần hóa với lộ trình phù hợp, trước mắt Nhà nước giữ cổ phần chi phối đối với các doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích theo phương thức đặt hàng, giao kế hoạch quy định tại Nghị định số 31/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2005.
Cổ phần hóa, Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần hoặc chỉ nắm giữ cổ phần ở mức thấp (< 35%) tại các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích theo phương thức đấu thầu, đặt hàng quy định tại Nghị định nói trên.
II. Đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hóa các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước:
Việc cổ phần hóa các tập đoàn, tổng công ty là vấn đề mới mẻ, hệ trọng, khó khăn và phức tạp. Vì vậy, cần phải có quan điểm, phương pháp, bước đi phù hợp, chắc chắn, giữ vững ổn định sản xuất, không gây tác động đến môi trường đầu tư, đời sống người lao động và xã hội. Khẩn trương phân loại rõ những tập đoàn, tổng công ty nhà nước cần nắm giữ 100% vốn; những tập đoàn, tổng công ty cần cổ phần hoá. Nhà nước chỉ nắm giữ 100% vốn đối với các tập đoàn, tổng công ty hoạt động có hiệu quả, được Nhà nước giao quản lý, khai thác và phân phối một bộ phận tài nguyên quốc gia, làm công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô.
Các tổng công ty nhà nước là những doanh nghiệp có quy mô lớn, đa số hoạt động có hiệu quả, tuy nhiên, vẫn còn một số tổng công ty kết quả sản xuất, kinh doanh còn thấp. Để cổ phần hóa một cách hiệu quả, cần phân thành hai loại: loại hoạt động có hiệu quả thì tiến hành cổ phần hóa ngay, loại hiệu quả chưa cao thì cần làm rõ nguyên nhân để có biện pháp nâng cao hiệu quả trước khi cổ phần hóa như: đầu tư, sắp xếp lại, lành mạnh hóa tình hình tài chính, đổi mới tổ chức cán bộ.
III. Cổ phần hoá các ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm:
Ngân hàng thương mại nhà nước là loại doanh nghiệp đặc thù, là một kênh cung cấp vốn quan trọng nhất cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại nhà nước có vốn điều lệ và hệ số an toàn vốn còn thấp, năng lực quản lý, trình độ công nghệ còn yếu, các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng còn nghèo, mới tập trung chủ yếu vào hoạt động cấp tín dụng. Ngân hàng thương mại nhà nước nhìn chung chưa thật sự đáp ứng nhu cầu vay vốn, mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp chưa thật sự bình đẳng, vừa là đối tác, vừa là bạn hàng, gắn bó chặt chẽ với nhau để hoạt động và phát triển. Trong các năm 2008- 2010, cần tập trung chỉ đạo đổi mới và phát triển ngân hàng thương mại nhà nước theo các hướng sau:
Đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long, cần khẩn trương thực hiện các công việc mà Thủ tướng Chính phủ đã quyết định, hoàn chỉnh trình Thủ tướng Chính phủ đề án cổ phần hóa ngay trong năm 2006 để hoàn thành cổ phần hóa trong năm 2007.
Đối với ba ngân hàng thương mại còn lại (Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam) thì tiến hành cổ phần hoá trong năm 2007 và 2008.
Đối với Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, cần khẩn trương thực hiện đề án cổ phần hóa Tổng công ty này và hình thành Tập đoàn Tài chính bảo hiểm Bảo Việt mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt. Đối với Công ty Bảo hiểm Dầu khí, đi vào thực hiện. Việc cổ phần hóa hai công ty bảo hiểm nhà nước này phải chú trọng tới ổn định và phát triển thị trường bảo hiểm trong nước, đồng thời có biện pháp nhanh chóng vươn ra thị trường quốc tế.
Đối với các công ty dịch vụ tài chính, cần tiến hành rà soát để đề ra và thực hiện lộ trình cổ phần hóa phù hợp với đặc thù của loại hình doanh nghiệp này và yêu cầu phát triển thị trường tài chính.
Tổng hợp lại, từ nay đến hết năm 2010, sẽ cổ phần hóa khoảng 1.500 doanh nghiệp và đến cuối năm 2010 cả nước có 554 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, trong đó 26 tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn; 178 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ thiết yếu; 200 nông, lâm trường; 150 doanh nghiệp thành viên các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
KẾT LUẬN
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một quá trình vô cùng khó khăn phức tạp vì nó đụng chạm đến nhiều vấn đề nhạy cảm, hơn nữa lại không có con đường chung nào cho tất cả các nước tiến hành CPH doanh nghiệp nhà nước. Những thành công và những bài học kinh nghiệm quý giá mà chúng ta thu được đã k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cổ phần hóa các dnnn ở việt nam.DOC