Mạng thông tin được đánh giá là một trong những kết cấu hạ tầng quan trọng nhất của xã hội và nền kinh tế tri thức. Trong những năm qua, nhờ những nỗ lực thực hiện Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin (từ năm 1995) và chiến lược đẩy nhanh phát triển lĩnh vực viễn thông, mạng thông tin ở nước ta đã được hình thành và mở rộng nhanh chóng, và viễn thông được đánh giá là một trong những lĩnh vực có tốc độ phát triển và đuổi kịp nhanh nhất của nền kinh tế. Hiện nay, mạng lưới viễn thông của Việt Nam đã được tự động hoá hoàn toàn với 100% các hệ thống chuyển mạch số và truyền dẫn số trải rộng trên toàn quốc và kết nối với quốc tế. Một loạt các dịch vụ bưu chính, viễn thông và Internet đã được tạo lập và mở rộng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, phục vụ các hoạt động sản xuất- kinh doanh, quản lý nhà nước, giáo dục, y tế, nghiên cứu, giải trí, giao tiếp.
Nhiều doanh nghiệp đã nhận thấy cơ hội tốt của thương mại điện tử và đã bắt đầu áp dụng phương thức kinh doanh mới này, như các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet, các doanh nghiệp kinh doanh về dịch vụ và du lịch, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp có nhu cầu thông tin nhanh, kịp thời về thị trường thế giới, và các doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ sản phẩm công nghệ cao như tin học, điện tử viễn thông, tư vấn, thị trường, giá cả. Nhiều cơ quan nhà nước cũng từng bước nghiên cứu áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý trong một số lĩnh vực, điển hình là đăng ký kinh doanh.
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8571 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng của nền kinh tế tri thức ở Việt Nam và giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hông cũn như cũ. Một điều quan trọng hơn rất nhiều là tri thức tạo ra được cơ chế lợi nhuận tăng dần, trong khi các yếu tố sản xuất truyền thống (đất đai, vốn, lao động), như chúng ta đó biết, lại tuõn theo quy luật lợi nhuận giảm dần. Đó là một xu hướng thực tế, bới chính công nghệ thông tin - một bộ phận quan trọng của nền kinh tế tri thức đó trở thành phương tiện giải phóng các tiềm năng sáng tạo và tri thức tiềm ẩn trong mỗi người, thành công cụ "khuếch đại sức mạnh của nóo giống như công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp khuếch đại sức mạnh của cơ bắp " (Brad de Long). Bắt đầu từ giữa những năm 80 của thế kỷ XIX, một bộ phận quan trọng của nền kinh tế đó tuõn theo cơ chế lợi nhuận tăng dần, đó là khu vực công nghệ cao. Các nền kinh tế phát triển như các nước OECD đang phụ thuộc rất nhiều vào việc sản xuất phân phối và sử dụng tri thức. Sản lượng và việc làm được mở rộng rất nhanh ở các ngành công nghệ cao. Trên 50% GDP của các nền kinh tế OECD là dựa trên tri thức (Candie Stevens).
Sở hữu trong nền kinh tế tri thức trước hết và chủ yếu là sở hữu trí tuệ. Trong nền kinh tế đó, trí tuệ là nguồn lực cơ bán nhất của quốc gia. Ai nắm được trí tuệ, có khả năng điều tiết, chi phối nó, kẻ đó có sức mạnh chi phối sự phát triển xó hội theo mục tiờu và lợi ớch của mỡnh. Trong khi đó, như đó đề cập trên đây, tri thức mang tính xó hội hoỏ, quốc tế húa cao. Theo Joseph Stigliz, nhà kinh tế học Mỹ được nhận giải Nobel năm 2001 đồng thời là cố vấn kinh tế trưởng của Ngân hàng thế giới, thỡ tri thức và thụng tin là loại hàng hoỏ đặc biệt, nó hoàn toàn khác các loại hàng hoá thông thường khác: nó thuộc về không phải của một cá nhân nào đó, mà thuộc về quyền sở hữu của toàn xó hội, là một hàng hoỏ xó hội và hơn thế nữa, nó thực sự là một hàng hoá mang tính toàn cầu.
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành nhân tố sản xuất quan trọng hàng đầu trong lực lượng sản xuất, quyết định lợi thế so sánh của một nước. Nếu doanh nghiệp nào nắm được quyền sở hữu trí tuệ, ứng dụng công nghệ mới, tạo ra sản phẩm mới sẽ thu được tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức trung bỡnh. Thớ dụ: Nhờ luụn tạo ra cỏc bộ vi xử lý trước một thế hệ, lợi nhuận của hóng Intel trong nhiều năm là 23% doanh thu. Cũng với cách thay đổi luôn như vậy lợi nhuận của hóng Microsoft đạt 24% doanh thu vào năm 1994. Lợi nhuận cao như thế tuy không thể tồn tại mói, nhưng có thể duy trỡ trong nhiều năm, như hóng Intel duy trỡ tỷ suất lợi nhuận cao trong một thập kỷ. Như vậy, quy luật bỡnh quõn hoỏ tỷ suất lợi nhuận bị cản trở, khụng thể phỏt huy tỏc dụng mạnh mẽ. Bởi vỡ, tiền đề để quy luật này hoạt động là môi trường cạnh tranh tự do hoàn háo, nhưng trong nền kinh tế tri thức, việc bảo hộ quyển sở hữu trí tuệ đó làm tăng tính độc quyền, khiến cho người nắm quyền chiếm hữu đối với tri thức thu được lợi nhuận siêu ngạch.
So với sở hữu các giá trị vật chất, sở hữu tri thức có những đặc điểm hết sức riêng biệt: Sở hữu tri thức bao gồm quyền sở hữu cụng nghiệp (quyền về phỏt minh - sỏng chế, về nhón hiệu thương mại, bản quyền và các kiểu dáng công nghiệp...), ngày nay cũn tớnh thờm phương pháp gây giống các loài cây, quyền về các hỡnh vẽ, mẫu vẽ, quyền về cỏc bản đồ vẽ địa hỡnh, về cỏc chất bỏn dẫn... Ngoài ra, cũn quyền về bớ mật thương mại.
Với tư cách là đối tượng sở hữu, tri thức là một sản phẩm có đặc tính lũy tiến và rất khó kiểm soát. Tri thức là một sản phẩm không bị cạn kiệt khi sử dụng, có thể vô số người cùng sử dụng một tri thức mà không ai mất phần. Một tri thức có thể thuộc quyền sở hữu của nhiều người, một người có thể dùng nhiều lần mà không phái trả thêm tiền. Hơn nữa, càng nhiều người sử dụng càng tăng hiệu quả (như mạng Internet). Người sau có thể kế thừa tri thức của người đi trước để sần xuất ra tri thức mới. Bởi vậy, tri thức cũng là một tài sản khó kiểm soát nhất. Chi phí cho phát triển tri thức rất lớn, nhưng sản phẩm càng về sau càng rẻ. Vớ dụ, chi phớ cho việc nghiên cứu đĩa chương trỡnh Window đầu tiên tổn phí hết 50 triệu USD, nhưng đĩa thứ hai và các đĩa tiếp theo chỉ tốn 3 USD.
Khác với "lao động" và "vốn", việc sử dụng tri thức không làm nó mất đi và vỡ vậy, càng nhiều người sử dụng càng đem lại lợi ích nhiều mà không tốn thêm chi phí. Người này sử dụng không làm giảm khả năng sử dụng của người khác, vỡ vậy, tri thức cú tớnh khụng cạnh tranh trong sử dụng.
Tri thức có tính không loại trừ với nghĩa là khi truyền bá và chuyển giao tri thức không làm tri thức mất đi, vỡ vậy, một tri thức được xó hội hoỏ (nhiều người biết), người ta không thể loại trừ người này sử dụng trong khi cho phép người khác được sử dụng (theo nghĩa tự nhiên của nó). Trên thực tế, người ta có thề thông qua bản quyền để cấm áp dụng.
Tri thức cũng có tính tích luỹ cao. Tri thức và thông tin không bị giảm đi theo thời gian sử dụng (không khấu hao), mà luôn được tích luỹ thêm.
Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, dũng tri thức lưu chuyển nhanh khắp thế giới, lợi ích thu được từ tri thức mới không nhất thiết sẽ thuộc về nơi đó phỏt minh ra chỳng, mà tuỳ thuộc vào tri thức và kỹ năng tổ chức sản xuất với chi phí thấp nhất và gắn kết được toàn bộ các hoạt động của hệ thống tổ chức sản xuất. Thí dụ, Hoa Kỳ đó phỏt minh ra mỏy quay phim và mỏy ghi õm, mỏy Fax, Hà Lan phỏt minh ra mỏy CD, nhưng phần lớn lợi nhuận của sản phẩm này lại rơi vào tay Nhật Bản.
Các tính chất nêu trên của tri thức với tư cách là bộ phận chủ yếu của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức quy định tính tất yếu phải có hỡnh thức sở hữu tương ứng Dưới một hỡnh thức nào đó, chế độ sở hữu phải mang tính chất xó hội. Tuy chưa phải la xó hội hoỏ sở hữu với nghĩa đen của từ này, nhưng sự ra đời và ngày càng phát triển của những Công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia trong những thập kỷ gần đây phần nào do tính tất yếu khách quan đó quy định. Đành rằng giờ đây, ở một số nước rất coi trọng việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng xét về tính chất sở hữu và quản lý, cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ đó vẫn nằm trong một hệ thống chung, có sự liên kết và hỗ tương nhau rất chặt chẽ, chúng phụ thuộc vả ràng buộc lẫn nhau tạo thành một chỉnh thể không phải chỉ ở quy mô quốc gia, mà cá quy mô quốc tế. Trong giới hạn của chế độ sở hữu tư nhân, "xó hội húa về sở hữu”, với nghĩa là số người tham gia vào sở hữu ngày càng táng, quy mô sở hữu ngày càng mở rộng đang là một xu thế phổ biến, nó làm cho việc sở hữu ấy mang tính xá hội (mặc dù vẫn thuộc những cá nhân cụ thể) và tri thức được vận hành vỡ sự phỏt triển chung của toàn xó hội, tuy lợi ớch trực tiếp thuộc về một số người.
Đối với trí tuệ, vấn đề bản quyền chỉ có giá trị trên phương diện pháp lý nhằm bảo đảm lợi ích của chủ thể sáng tạo ra tri thức mới, của phát minh, sáng tạo chứ không làm cho trí tuệ đó mang tính cá nhân. Nó chỉ thuộc cá nhân khi mới sáng tạo ra, sau đó nhanh chóng trở thành của xó hội.
I.1.2.5. Đặc điểm mới của quan hệ tổ chức, quản lý trong nền kinh tế tri thức
Tác động của kinh tế tri thức đối với tổ chức và quản lý rất rộng, trong đó, nổi bật nhất là một số điểm chính sau đây:
Chủ thể và đối tượng quản lý: đại bộ phận là cụng nhõn cú học vấn.
Việc ỏp dụng cỏc thành tựu của cỏch mạng khoa học - cụng nghệ (nhất là cụng nghệ thụng tin) vào quản lý đũi hỏi chủ thể quản lý phải nõng cao trỡnh độ hiểu biết về nhiều mặt. Cũn về đối tượng chịu sự quản lý, đúng như dự báo của C.Mác "toàn bộ quá trỡnh sản xuất thỡ biểu hiện ra khụng phải như là một quá trỡnh phụ thuộc vào tài nghệ trực tiếp của người công nhân, mà với tư cách là sự ứng dụng khoa học trong “lĩnh vực công nghệ" và "biến quá trỡnh sản xuất từ chỗ là quỏ trỡnh lao động giản đơn thành quá trỡnh khoa học...", "do đó đến một giai đoạn nào đó, guồng máy có thể thay thế công nhân" và "theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực tế trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và vào số lượng lao động đó chi phớ hơn là vào sức mạnh của những tác nhân được khơi động trong thời gian lao động và bản thân những tác nhân ấy, đến lượt chúng (hiệu quả to lớn của chúng) tuyệt đối không tương ứng với thời gian lao động trực tiếp cần thiết để sản xuất ra chúng, mà đúng hơn, chúng phụ thuộc vào trỡnh độ chung của khoa học và vào sự tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất". Vỡ thế, "lao động biểu hiện ra không phải chủ yếu là lao động được nhập vào quá trỡnh sản xuất, mà chủ yếu là một loại lao động trong đó con người, trái lại, là người kiểm soát và điều tiết bản thân quá trỡnh sản xuất" và "thay vỡ làm tỏc nhõn chủ yếu của quỏ trỡnh sản xuất, người công nhân lại đứng bên cạnh quá trỡnh ấy”.
Như trong bất kỳ nền kinh tế nào, đối tượng quản lý là quỏ trỡnh sản xuất, nhưng trong nền kinh tế tri thức, quản lý trước hết và chủ yếu là quá trỡnh ứng dụng khoa học trong lĩnh vực cụng nghệ, trong đó máy móc đó thay thế hầu hết lao động chân tay, cũn lao động sống chủ yếu là lao động trí óc kiểm soát và điều tiết bản thõn quỏ trỡnh sản xuất.
I.1.2.6. Một phương thức tổ chức sản xuất mới ra đời
Để thích ứng với đối tượng quán lý là cụng nhõn tri thức, sự thay đổi về phương pháp tổ chức công việc đó được tiến hành thử nghiệm:Sản xuất vừa đủ bắt nguồn từ kiểu sản xuất của hóng Toyota (triệt tiờu tồn kho, sản xuất theo đơn đặt hàng, thông tin, báo cáo theo chiều dọc và nhân viên có thể đề xuất ý kiến cải tiến kết quả cụng việc và chất lượng).
Cơ cấu lại là lý thuyết nhằm vào cắt giảm chi phớ và hướng ngoại, liên quan chủ yếu đến đội ngũ cán bộ khung, trong đó ứng dụng công nghệ thông tin để tạo ra những dịch vụ mới, phối hợp kiểm tra công việc thông qua các mạng nội bộ chứ không cũn thụng qua cỏn bộ trung gian.
Quản lý toàn diện chất lượng là lý thuyết phỏt triển sâu hơn một số điểm của lý thuyết sản xuất vừa đủ như thoả món toàn bộ nhu cầu khỏch hàng và xoỏ bỏ tỡnh trạng lóng phớ.
Nhưng sáng tạo đa dạng về cơ cấu tổ chức đó đều tỡm cỏch đoạn tuyệt với với cái logic của mô hỡnh kiểu Taylor (lợi ớch kinh tế nhờ quy mô, tiêu chuẩn hoá sản phẩm, mỗi nhân viên một phận sự). Chính các phương thức linh hoạt đó tham gia trực tiếp vào quỏ trỡnh nõng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều mụ hỡnh lý thuyết chứng minh rằng, cụng nghệ thụng tin đang tạo điều kiện cho việc cấu trúc lại doanh nghiệp, đặc biệt là khuyên khích phân cấp chức năng, hoặc tăng cường hiệu quả của tính đa năng trong doanh nghiệp. Nói một cách khái quát, toàn bộ những lựa chọn của doanh nghiệp về chiến lược, tổ chức công việc hay về công nghệ sẽ mang tính chất bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Như vậy, ý tưởng, tổ chức nhân lực triển khai ý tưởng, tổ chức cách thức đùng vật lực (công nghệ) thực hiện ý tưởng luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Để kinh tế tri thức phát triển, phương pháp tổ chức sản xuất mới từng bước thay thế phương pháp Taylor trước đây. Đó là việc tổ chức ở cấp kinh tế vi mô, kết nối các Xí nghiệp, Công ty, doanh nghiệp thành mạng lưới.
Từ đó giảm các khâu trung gian, chuyển giao nhiều trách nhiệm hơn cho cấp dưới và ngược lại, cũng đũi hỏi người lao động phải có năng lực cao hơn.
Trong thời đại hiện nay, sự phát triển của công nghệ thông tin đang tạo điều kiện cho việc thực hiện các chu trỡnh sản xuất phi tập trung hơn, sự phối hợp giữa các công đoạn sản xuất kinh doanh trở nên mềm dẻo hơn so với thời kỳ trước đây trong nền sản xuất đại trà.
I.1.2.7. Đặc điểm mới của quan hệ phân phối trong nền kinh tế tri thức
Khoảng cách giữa nước nghèo nhất và nước giàu nhất về thu nhập, tuổi thọ, giáo dục và chất lượng cuộc sống đó ngày một rộng hơn trong quá trỡnh phỏt triển của nền kinh tế tri thức. 20% dõn số thế giới hiện đang sống ở những nước có thu nhập cao nhất (hưởng 86% GDP, 82% thị trường xuất khẩu hàng hoá và địch vụ, 68% đầu tư từ nước ngoài trực tiếp, 93,3% mạng lưới viễn thông toàn cầu).Trong khi đó, 20% dân số là những người nghèo khó của thế giới chỉ được hưởng chưa đầy 1% thành quả trên.
Riêng về thu nhập, khoảng cách giữa 1/5 số người giàu nhất và 1/5 số người nghèo nhất tăng từ 30 lần (thập niên 60) lờn 74 lần (thập niờn 60).
Những nước phát triển mạnh kinh tế tri thức thường có tăng trưởng GDP cao, tỷ lệ thất nghiệp giảm và đời sống của người lao động được nâng cao. Chẳng hạn, Ôxtrâylia đó cú lỳc là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới (năm 1998 GDP tăng 4,9%). Một trong những nguyên nhân của thành công trên là Ôxtrâylia đó đi đầu trong ứng đụng công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin. Vào tháng giêng 1999, trên 48. 000 doanh nghiệp ở Ôxtrâylia đó cú cỏc địa chỉ miền riờng với mỏy chủ là cỏc nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP), ngoài ra cũn 50.000 địa chỉ Web thuộc các trang chủ khác trong các thư mục cửa hàng hoặc khu buôn bán trên mạng. Hiện có hơn 640 ISP đang hoạt động ở Ôxtrâylia. Doanh thu của các ngành công nghiệp thông tin của Ôxtrâylia trong những năm 1995 - 1996 là 47 tỷ USD Ôxtrâylia. Ôxtrâylia hiện chỉ tạo ra 1,2% GDP toàn cầu, nhưng lại tạo ra tới 2,3% giá trị của ngành công nghiệp thông tin toàn cầu. Xuất khẩu công nghệ thông tin đạt 4 tỷ USD Ôxtrâylia một năm.
Tỷ trọng các ngành công nghệ cao trong GDP của Phần Lan đó tăng gấp 5 lần trong 10 năm qua, và GNP trên đầu người tăng vọt. Đó là do Phần Lan đó đi nhanh vào công nghệ thông tin, công nghệ sinh học. Phần Lan đạt tiêu chuẩn cao về giáo dục - đào tạo. Học sinh tiếp cận với cụng nghệ thụng tin từ khi cũn nhỏ. Tất cả cỏc trường đều truy cập mạng Internet với tốc độ nhanh. Phần Lan đó đào tạo số cử nhân khoa học và công nghệ gấp 5 lần số cử nhân luật.
Sigapore là một trong những bước đầu tiên hướng đến nền kinh tế tri thức. Năm 1992, kế hoạch IT2000 được ban hành nhằm chuyển Singapore thành một “hũn đảo thông minh". Ngày nay, một nửa số gia đỡnh đó cú mỏy vi tớnh cỏ nhõn và 1/5 số người dân dùng Internet. Năm 1997, ngành công nghiệp thông tin Singapore có doanh thu 7,3 tỷ USD (không tính các sản phẩm chế tạo và doanh thu của các nhà phân phối), 98% các gia đỡnh Singapore đó truy cập mạng Internet Singapore one mạng kết nối toàn quốc duy nhất trờn thế giới.
Các nước lạc hậu không vận dụng được công nghệ mới thường tăng trưởng chậm, thậm chí suy thoái. Bởi vậy, cái gọi là sự phân cách về kỹ thuật số càng rộng và sự phân cực giàu nghèo giữa các nước tiến lên kinh tế tri thức với các nước kém phát triển có khuynh hướng ngày càng ra xa. Sự bất bỡnh đẳng trong phân phối “cái bánh” toàn cầu hóa kinh tế tăng lên.
I.1.2.8. Đặc điểm mới của cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế tri thức
Sự thay đổi về đối tượng sở hữu, về tổ chức việc quản lý quỏ trỡnh sản xuất cú tỏc động rất lớn tới sự chạy đổi cơ cấu của nền kinh tế tri thức. Theo lý luận về kết cấu cỏc ngành (khu vực) sản xuất của kinh tế truyền thống, cơ cấu nền kinh tế bao gồm: ngành sản xuất thứ nhất là nông nghiệp, ngành sản xuất thứ hai là công nghiệp và ngành sản xuất thứ ba là địch vụ. Dịch vụ đang nói ở đây là một khái niệm rộng, bao gồm dịch vụ đối với các ngành sản xuất vật chất và bao gồm các loại dịch vụ đối với đời sống và tiêu đùng của nhân dân (như thương nghiệp, tiền tệ, vận tải, thông tin, thậm chí cả những hoạt động của khoa học, giáo dục, những hoạt động của Chính phủ, toà án... đều được gọi là ngành sản xuất thứ ba). Sự phân loại ngành sản xuất thứ nhất, thứ hai, thứ ba và sự ra đời, sự tiến triển của các ngành đó cung phản ánh một xu thế lịch sử, tức cái sau hơn cái trước - cả về chất lượng và tốc độ. Riêng về tốc độ, chúng ta thấy rằng ngành sản xuất thứ hai có nhịp độ phát triển nhanh hơn so với ngành sản xuất thứ nhất, ngành sản xuất thứ ba có nhịp độ tăng trưởng nhanh hơn ngành thứ hai. Tỡnh hỡnh thực tế hiện nay của cỏc nước phát triển là tỷ trọng ngành sản xuất thứ ba có thể chiếm tới 66,7% GDP. Dư luận chung hiện nay cho thấy, nhịp độ tăng trưởng của giáo dục và khoa học trong ngành sản xuất thứ ba là hết sức nhanh, vị trí ngày càng quan trọng. Cho nên có thể tách giáo đục, khoa học từ ngành sản xuất thứ ba ra thành ngành sản xuất thứ tư.
Theo thống kờ của Tổ chức Hợp tỏc Phỏt triển Kinh tế ( OECD), tỷ lệ đóng góp của ngành dịch vụ Hoa Kỳ vào GNP từ 50% tăng lên 80%, trong đó 63% dịch vụ là thuộc dịch vụ kỹ thuật cao. Cũn theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, 64% của cải thế giới hiện nay là do “vốn nhân lực" cấu thành. Trên 80% công việc trong các ngành của Hoa Kỳ về bản chất là công việc "lao động trí óc". Trong nền kinh tế tri thức, hàm lượng tri thức trong các yếu tố sản xuất ngày càng tăng, các ngành kinh tế tri thức (những ngành dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ) và cả nhưng ngành truyền thống (như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, được cải tạo bằng ứng đụng thành tựu khoa học và công nghệ) ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất công nghệ trở thành loại hỡnh sản xuất quan trọng nhất, tiờn tiến nhất, tiờu biểu cho nền kinh tế tri thức. Ở những nước công nghiệp phát triển cao (ở Bắc Mỹ và Tây Âu), những ngành chủ yếu dựa vào công nghệ thông tin đó chiếm khoảng 45% đến 50% GDP. Một số điều trỡnh bày trờn đây được rút ra từ nhiều tư liệu khác nhau nhằm giúp bạn đọc có được một ý niệm nào đó về một lĩnh vực mới mẻ đối với nước ta - kinh tế tri thức.
Như vậy cỏc nhà khoa học cũn cú những khỏi niệm khỏc nhau về kinh tế tri thức, nhưng đó cú thể thống nhất với nhau về một số đặc điểm cơ bản, đó là:
- Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu sản xuất và nền tảng của sự tăng trưởng kinh tế ngày càng dựa vào việc ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao;
- Tỷ trọng GDP hoặc tỉ trọng ngành nghề đều có sự chuyển dịch dần từ sản xuất vật chất sang hoạt động xử lý thông tin là chủ đạo.
- Sản xuất ra cụng nghệ trở thành sản xuất quan trọng nhất vad tiờu biểu nhất;
- Từ tổ chức sản xuất theo quy mụ lớn, nhất thể húa chuyển sang tổ chức sản xuất phõn tỏn theo cấu trỳc mạng và linh hoạt theo yờu cầu của khỏch hàng.
- Xu thế toàn cầu hóa, nhất thể các nền kinh tế quốc gia và khu vục tăng nhanh kèm theo hai mặt: cạnh tranh khốc liệt và hợp tác hiệu quả;
- Quỏ trỡnh tin học húa cỏc khõu sản xuất, dịch vụ và quản lý là cốt lừi của quỏ trỡnh chuyển sang nền kinh tế tri thức;
- Tri thức là vốn quý giỏ nhất; quyền sơ hữu trí tuệ trở thành quan trọng nhất và sáng tạo là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển;
- Học tập và học tập thường xuyên, học tập suốt đời là đặc điểm nổi bật của xó hội và nền kinh tế tri thức.
Với cách hiểu như vậy, kinh tế tri thức sẽ làm cho diện mạo và cơ cấu kinh tế thế giới thay đổi một cách căn bản và sâu sắc trong thế kỷ tới. Các siêu cường quốc, đắc biệt là Hoa Kỳ, với tiềm lực kinh tế, đặc biệt là tiềm lực khoa học và công nghệ hùng hậu của mỡnh đang ráo riết tập trung phát triển nền kinh tế tri thức như một chiến lược đảm bảo vị thế lónh đạo, chi phối trật tự thế giới. Các nước công nghiệp mới đang tỡm thấy trong nền kinh tế tri thức một sung lực mới, động lực quyết định để đuổi kip các nước công nghiệp phát triển. Các nước phương Nam nhỡn nhận kinh tế tri thức với cỏc nguy cơ và thách thức lớn lao. Song cũng có nhiều nước vừa ý thức được rất rừ những thỏch thức thực sự, đồng thời vừa nhận thấy nền kinh tế tri thức là một thời cơ chiến lược giúp họ thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu và chậm phát triển.Với quan niệm: kinh tế tri thức là sản phẩm của sự phát triển chung của toàn nhân loại, xu hướng phát triển dựa trên tri thức – cái tinh túy nhất của Con người, của nhân loại, nguồn lực có khả năng tái sinh mạnh mẽ nhất – là một xu hướng tất yếu.
II.2. Thực trạng của nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
II.2.1. Những việc đ∙ làm được
Đánh giá theo những đặc trưng của kinh tế tri thức, trong gần 20 năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả, thể hiện chủ yếu như sau:
- Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Liên tục trong nhiều năm, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, đạt trung bình khoảng hơn 8% hàng năm trong giai đoạn 1990- 2000 và hơn 7% trong giai đoạn từ năm 2001 đến nay. GDP thực tế trên đầu người đạt trung bình hàng năm khoảng 5,9% trong giai đoạn 1990- 2002. Tăng trưởng cao và ổn định đã có những tác động lan toả tích cực đến các khía cạnh khác của đời sống kinh tế- xã hội.
Bên cạnh tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế của nước ta trong những năm qua đã có sự chuyển dịch, với tỷ trọng các lĩnh vực kinh tế có giá trị gia tăng cao, trong đó có những lĩnh vực dựa nhiều vào tri thức, ngày càng tăng. Tỷ trọng nông- lâm- ngư nghiệp trong GDP đã giảm đều đặn và tỷ trọng công nghiệp- xây dựng và dịch vụ đã tăng lên tương ứng (Bảng 1). Một số lĩnh vực như công nghiệp thông tin, công nghiệp công nghệ cao, các lĩnh vực dịch vụ dựa vào xử lý thông tin, tài chính ngân hàng, giáo dục đào tạo, nghiên cứu phát triển công nghệ… đã dần dần hình thành và có bước phát triển đáng kể. Những lĩnh vực này được chờ đợi trở thành đầu tàu thúc đẩy phát triển, đổi mới toàn bộ nền kinh tế.
Bảng 1. Tỷ trọng các ngành trong GDP (%)
Các ngành/năm
1986
1990
1995
2000
2003
Nông - lâm- ngư nghiệp
38,06
38,74
27,18
24,30
21,80
Công nghiệp - xây dựng
28,88
22,67
28,76
36,61
40,00
Dịch vụ
33,06
38,59
44,06
39,09
38,20
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
- Thứ hai, xây dựng thể chế kinh tế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân:
Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng trong việc xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế thị trường, cải cách tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước, tăng cường năng lực, tính năng động và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, chú trọng hỗ trợ cho các doanh nghiệp mới và tạo cuộc sống tốt hơn cho người dân; cơ cấu lao động thay đổi với sự từng bước gia tăng của lực lượng lao động xử lý thông tin, làm dịch vụ, di chuyển sản phẩm, làm văn phòng,… (còn gọi là lao động tri thức).
Đặc biệt, trong những năm gần đây, với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp, khu vực kinh tế tư nhân đã có bước phát triển mạnh. Trong giai đoạn 2000- 2003, trung bình hàng năm có khoảng 20.000 doanh nghiệp dân doanh thành lập mới, với số vốn đăng ký đầu tư hơn 40.000 tỷ đồng và giải quyết việc làm cho hơn 1 triệu lao động. Các doanh nghiệp dân doanh đã tham gia vào hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, với tổ chức sản xuất- kinh doanh linh hoạt, nỗ lực cải tiến công nghệ, tăng năng suất, thâm nhập thị trường. Tình hình đó càng đòi hỏi phát triển thị trường hàng hoá và thị trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ..., góp phần làm tăng phạm vi, quy mô và mức độ thị trường hoá nền kinh tế nước ta.
- Thứ ba,chủ động hội nhập kinh tế quốc tế:
Các quan hệ kinh tế song phương và đa phương của Việt Nam không ngừng được mở rộng thông qua việc ký kết và tham gia vào các hiệp định và diễn đàn như: ký Hiệp định khung với Liên minh Châu Âu (EU) (1992); tham gia Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) (1996); tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương (APEC) (1998); ký Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ (2000); và từ năm 1995 đang trong quá trình đàm phán gia nhập WTO.
Kết quả là cho đến nay, lần đầu tiên nước ta đã thiết lập được mối quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn, các nhóm nước và trung tâm kinh tế, tài chính lớn trên thế giới. Điều này đã đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế, như: tiếp nhận một khối lượng vốn lớn FDI, ODA; tiếp nhận chuyển giao công nghệ, tăng năng suất lao động; có nguồn vốn để xoá đói giảm nghèo; mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng kim ngạch xuất khẩu; tăng vị thế của nước ta trên thị trường quốc tế... Nước ta đang từng bước trở thành một mắt khâu trong mạng lưới sản xuất- kinh doanh toàn cầu, trong đó có những hoạt động liên quan đến sự sản sinh truyền bá và sử dụng tri thức.
- Thứ tư, từng bước hình thành kết cấu hạ tầng then chốt cho kinh tế tri thức:
Mạng thông tin được đánh giá là một trong những kết cấu hạ tầng quan trọng nhất của xã hội và nền kinh tế tri thức. Trong những năm qua, nhờ những nỗ lực thực hiện Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin (từ năm 1995) và chiến lược đẩy nhanh phát triển lĩnh vực viễn thông, mạng thông tin ở nước ta đã được hình thành và mở rộng nhanh chóng, và viễn thông được đánh giá là một trong những lĩnh vực có tốc độ phát triển và đuổi kịp nhanh nhất của nền kinh tế. Hiện nay, mạng lưới viễn thông của Việt Nam đã được tự động hoá hoàn toàn với 100% các hệ thống chuyển mạch số và truyền dẫn số trải rộng trên toàn quốc và kết nối với quốc tế. Một loạt các dịch vụ bưu chính, viễn thông và Internet đã được tạo lập và mở rộng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, phục vụ các hoạt động sản xuất- kinh doanh, quản lý nhà nước, giáo dục, y tế, nghiên cứu, giải trí, giao tiếp...
Nhiều doanh nghiệp đã nhận thấy cơ hội tốt của thương mại điện tử và đã bắt đầu áp dụng phương thức kinh doanh mới này, như các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet, các doanh nghiệp kinh doanh về dịch vụ và du lịch, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp có nhu cầu thông tin nhanh, kịp thời về thị trường thế giới, và các doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ sản phẩm công nghệ cao như tin học, điện tử viễn thông, tư vấn, thị trường, giá cả... Nhiều cơ quan
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Triet 7.docx