MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 2
1. Hạn ngạch nhập khẩu 2
2. hạn ngạch xuất khẩu 3
3. Các hạn ngạch khác 4
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÂN BỐ HẠN NGẠCH CỦA NƯỚC TA 4
1. Hạn ngạch nhập khẩu 4
2. Hạn ngạch xuất khẩu 5
III. NHỮNG KIẾN NGHỊ, BIỆN PHÁP SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ
HẠN NGẠCH 8
1. Những qui định chung 8
2. Quy trình thực hiện đấu thầu 8
3. Tiêu chuẩn xét thầu 8
4. Trách nhệm và quyền lợi của doanh nghiệp trúng thầu 9
KẾT LUẬN 10
TÀI LIỆU THAM KHẢO 11
MỤC LỤC 12
12 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1502 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng của việc phân bố hạn ngạch của nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay có rất nhiều biến động, nhất là trong các hoạt động diễn ra trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Vì thế việc đặt kế hoạch hàng năm cho hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta được Bộ Thương mại trực tiếp quản lý và điều chỉnh cho phù hợp. Để quản lý được hoạt động xuất nhập khẩu tốt Nhà nước có rất nhiều các công cụ để điều chỉnh như thuế, hạn ngạch, các hàng rào thương mại phi thuế quan khác.
Thế nhưng thực tế thì các công cụ này được Nhà nước sử dụng như thế nào để đem lại hiệu quả một cách tốt nhất lại là một vấn đề hết sức nan giải hiện nay. Một trong những công cụ mà Nhà nước dùng để điều chỉnh các hoạt động xuất nhập khẩu đó là hạn ngạch.
Bài viết sau đây của em xin đóng góp một số ý kiến nhỏ bé góp phần vào việc nghiên cứu tác động của hạn ngạch tới thương mại, dịch vụ. Đây là một đề tài khó nên trong quá trình tìm hiểu em không tránh khỏi nhiều sai sót nên mong các thầy cô giáo chỉ bảo thêm để bài viết của em có thể hoàn thiện được một cách tốt nhất.
Em xin chân thành cảm ơn./.
Nội dung
i. Cơ sở lý luận của đề tàI
1. Hạn ngạch nhập khẩu (Import quota)
Hạn ngạch nhập khẩu là quy định của Nhà nước về số lượng hoặc giá trị một mặt hàng nào đó được nhập khẩu nói chung hoặc từ một thị trường nào đó trong một thời gian nhất định (thường là một năm).
Thực chất hạn ngạch nhập khẩu là một hình thức hạn chế về số lượng và thuộc hệ thống giấy phép không tự động. Khi hạn ngạch nhập khẩu quy định cho cả mặt hàng và thị trường thì hàng hoá đó chỉ được nhập khẩu từ nước (thị trường) đã định với số lượng bao nhiêu, trong thời hạn bao lâu.
Nhà nước áp dụng biện pháp quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch chủ yếu là nhằm một số mục đích.
* Hạn ngạch nhập khẩu có khả năng bảo hộ sản xuất trong nước bằng cách chống được các “ cơn sốt giá “.
* Sử dụng có hiệu quả quỹ ngoại tệ. phải sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả vốn ngoại tệ dành cho nhập khẩu sao cho có thể nhập được những vật tư, hàng hoá phục vụ cho phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ để đáp ứng những nhu cầu phù hợp với chiến lược kinh tế xã hội của nước ta.
* Nhà nước nhằm mục đích thực hiện các cam kết với nước ngoài, với các tổ chức quốc tế. Do vậy hạn ngạch là một công cụ để Nhà nước có thể thực hiện được các cam kết đã ký với nước ngoài.
Cũng giống như thuế, hạn ngạch nhập khẩu được coi là một biện pháp để bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ, vì hạn ngạch nhập khẩu có xu hướng làm tăng giá trên thị trường nội địa, giảm khối lượng tiêu thụ và nhập khẩu. Tác dụng làm tăng giá trong nước như vậy gọi là “ bảo hộ danh nghĩa “. Hạn ngạch nhập khẩu và thuế giữ giá trong nước của một sản phẩm cao hơn mức giá thế giới và do đó tạo cho ngành sản xuất trong nước hưởng lợi nhuận cao hơn so với trường hợp tự do thương mại. Tác động này làm cho các nhà sản xuất kém hiệu quả sản xuất ra một sản lượng cao hơn so với trong điều kiện thương mại tự do.
2. Hạn ngạch xuất khẩu (export quota).
Hạn ngạch xuất khẩu là quy định của Nhà nước về số lượng (hoặc trị giá) một mặt hàng nào đó được xuất khẩu nói chung hoặc từ một thị trường nào đó trong một thời gian nhất định (một năm).
Các hình thức hạn chế xuất khẩu được áp dụng tuỳ từng nước và trong thời gian nhất định.
Một số nước chỉ cho phép một số tổ chức có quyền xuất khẩu một số mặt hàng nhất định.
Hiện nay ở Việt Nam chế độ cấp hạn ngạch xuất khẩu được quy định theo bởi Thủ tướng Chính phủ. Hàng năm Bộ Thương mại công bố danh mục các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch sau khi thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ quản lý sản xuất và được Chính phủ duyệt.
Nhà nước quản lý bằng hạn ngạch xuất khẩu các mặt hàng sau :
* Gạo.
* Hàng dệt may mặc xuất khẩu vào EU, Canada và Nauy.
Bộ Thương mại phân bố hạn ngạch xuất khẩu cho các Bộ, ngành, địa phương. Những mặt hàng không quản lý bằng hạn ngạch thì cơ sở xuất khẩu đăng ký với Bộ Thương mại và được cấp giấy phép không hạn chế.
Mục đích của Nhà nước khi áp dụng hạn ngạch xuất khẩu.
Không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu mà đôi khi vì quyền lợi quốc gia phải kiểm soát một vài mặt hàng xuất khẩu đặc biệt, quý hiếm, những nguyên liệu, tài nguyên của đất nước, hoặc những mặt hàng mang tính chiến lược đối với nền kinh tế. Nguyên nhân chính là do: Cấm vận buôn bán: Hiện nay có nhiều nước đang sử dụng hạn ngạch xuất như là một công cụ để cấm vận buôn bán giữa các nước với nước mình hoặc giữa các nước với nhau. Bằng cách hạn chế hoặc là không cho xuất sang một nước nào đó các nước có thể làm cho các nước khác gặp phải khó khăn về kinh tế-xã hội vì tự do thương mại đã khiến cho các nước phụ thuộc lẫn nhau.
Mặt khác để bảo vệ tiềm năng, bảo vệ động vật và cây trồng, bảo vệ di sản văn hoá, đồ cổ. Khi xuất hàng hoá sang các nước phải làm sao để xuất được hàng hoá mà có kết tinh lao động trong nước và các yếu tố khác mà không làm thiệt hại đến tài nguyên của đất nước. Trong trường hợp này tốt nhất nên tập trung xuất khẩu những hàng hoá đã qua chế biến tinh, không nên xuất khẩu những hàng hoá mà chưa qua chế biến hoặc mới chỉ chế biến thô.
3. Các hạn ngạch khác
Ngoài hạn ngạch xuất nhập khẩu hiện nay còn có một số loại hạn ngạch khác như hạn ngạch công nghiệp, hạn ngạch sản xuất, hạn ngạch gia công tái xuất, hạn ngạch hội chợ triển lãm. Tuy nhiên vì các loại hạn ngạch này không được áp dụng rộng rãi trừ hạn ngạch công nghiệp và hạn ngạch sản xuất. Chủ yếu có hạn ngạch xuất nhập khẩu tác động tới thương mại và dịch vụ.
Hạn ngạch sản xuất: Ngoài việc trực tiếp tham gia vào thị trường và mua các sản phẩm do vậy làm tăng tổng cầu Chính phủ còn có thể làm cho giá cả của sản phẩm tăng bằng cách giảm cung. Chính phủ có thể làm điều này bằng các sắc lệnh - Chính phủ chỉ cần quy định hạn ngạch cho mỗi mặt hàng. Bằng cách ấn định hạn ngạch thích hợp giá cả có thể bị đẩy lên bất kỳ mức mong muốn nào.
II. Thực trạng của việc phân bổ hạn ngạch ở nước ta
ở nước ta Bộ Thương mại là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi cấp hạn ngạch cho một doanh nghiệp nào đó.
Có một số cách phân bổ hạn ngạch của Chính phủ khi phân bổ hạn ngạch cho một doanh nghiệp nào đó, liên quan đến phân bổ hạn ngạch là tiền thuê hạn ngạch.
1. Hạn ngạch nhập khẩu
- Nếu hạn ngạch được bán trong các cuộc đấu giá cạnh tranh, khi đó giá cả của nó sẽ không vượt quá hiệu số (Pd-Pw) cho một đơn vị nhập khẩu.
Tại bất kỳ một mức giá nào thấp hơn sẽ dư cầu về hạn ngạch vì mức rủi ro sẽ thấp hơn trong các cơ hội tìm kiếm lợi nhuận. Tại mức giá cân bằng toàn bộ thu nhập do bán các hạn ngạch nhập khẩu sẽ thuộc Chính phủ.
- Chính phủ giao toàn quyền phân phối các hạn ngạch nhập khẩu. Trong trường này những người nhận được hạn ngạch sẽ không phải bỏ ra bất cứ chi phí nào mà thu được lợi nhuận từ hạn ngạch tương ứng với tiền thuê hạn ngạch.
- Có thể đòi hỏi các nhà nhập khẩu đưa ra những kế hoạch về sử dụng nguồn lực khi xin giấy phép nhập khẩu. Phương pháp này rất tốn thời gian và không mang lại lợi ích cho nền kinh tế mà chỉ có lợi cho cá nhân vì khi có hạn ngạch nhập khẩu họ được hưởng không tiền thuê hạn ngạch đáng ra phải trả.
Với những cách phân bổ hạn ngạch nhập khẩu trên đây, các nhà nhập khẩu sẽ sẵn sàng chịu mọi phí tổn cần thiết để có được hạn ngạch nhập khẩu mà họ nhận thấy chi phí bỏ ra thấp hơn tiền thuê hạn ngạch. Với cách phân phối này một phần hoặc toàn bộ lợi ích sẽ phân tán trong những hoạt động không mang tính chất sản xuất trực tiếp làm tăng thiệt hại về phúc lợi do hạn chế thương mại.
2. Hạn ngạch xuất khẩu.
ở nước ta chủ yếu có 2 mặt hàng xuất khẩu quản lý bằng hạn ngạch đó là gạo và hàng dệt may.
Thực trạng của việc phân bổ hạn ngạch mặt hàng này như thế nào? Đó là một vấn đề gây ra rất nhiều tranh cãi, câu hỏi xoay quanh.
2.1 Mặt hàng gạo
a/ Thực trạng
Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn 12-11-1998 có đoạn: Cựu Bộ trưởng Thương mại Lê Văn Thiết có lần kể một địa phương “hăm” đổ gạo xuống sân Bộ Thương mại nếu không được cấp quota.
Việc phân chia hạn ngạch xuất khẩu gạo còn chưa hợp lý. Nước ta là một nước xuất khẩu gạo đứng vào hàng thứ ba trên thế giới sau Mỹ, Thái Lan. Vì vậy, vấn đề xuất khẩu gạo hàng năm ở các tỉnh thành nhiều lúa là vấn đề được quan tâm rất nhiều. Nhiều năm nay các tỉnh thành nhiều lúa này vẫn yêu cầu nhiều quota, nhiều đầu mối xuất khẩu gạo. Không chỉ có các tỉnh thành nhiều lúa mà còn có các tỉnh thành ít lúa hoặc không có hạt lúa nào nhưng có nhà máy, bến cảng và doanh nghiệp quen làm hàng xuất khẩu cũng yêu cầu cấp hạn ngạch xuất khẩu gạo cho mình. Thậm chí có những địa phương, ngành không có cơ sở vật chất và doanh nghiệp không đạt yêu cầu cho xuất khẩu gạo song vẫn đòi hỏi phải được cấp hạn ngạch xuất khẩu gạo. Trong khi đó có nhiều tỉnh thành, doanh nghiệp có nhiều lúa, có nhà máy, xí nghiệp có cơ sở vật chất thì lại không được cấp hạn ngạch xuất khẩu gạo.
Tất cả những điều trên có ảnh hưởng rất xấu tới việc xuất khẩu gạo. Gạo nước ta vì chưa có khâu đánh bóng hạt gạo, tỷ lệ hạt gạo gẫy cao, độ dài còn chưa đạt tiêu chuẩn nên giá gạo xuất khẩu còn thấp. Khâu chế biến của chúng ta rất kém cộng với việc xuất khẩu gạo như trên làm cho giá cả lộn xộn, giá xuất khẩu bị dìm. Điều này gây thiệt hại rất lớn cho các doanh nghiệp có khả năng, có cơ sở vật chất tốt mà không được nhận quota.
xét cho cùng Nhà nước nên tiếp tục phân bổ quota theo kiểu xin cho hay phân bổ theo các phương thức khác? Nếu phân bổ quota thì làm sao cho công khai và công bằng.
Tại cuộc thảo luận ngày 20-10 ở Hiệp hội xuất nhập khẩu lương thực bà Trần Ngọc Sương phó giám đốc nông trường Sông Hậu nêu đề nghị một cách rất hình tượng.
Xét quota và đầu mối xuất khẩu gạo cũng phải chấm như là thi hoa hậu phải đạt đủ ba vòng :
Vòng số 1: Sản lượng lúa.
Vòng số 2: Năng lực nhà máy.
Vòng số 3: Giá trị hàng hoá , thị trường xuất, người mua.
b/ Giải pháp.
Qua đây ta thấy rằng để thực sự xuất khẩu gạo có hiệu quả thì khi phân bổ quota cần phải căn cứ vào cơ sỏ vật chất (có đủ nhà máy, bến cảng, doanh nghiệp quen làm hàng xuất khẩu, có sản lượng lúa cao) và phải căn cứ vào khả năng khi xuất khẩu gạo của doanh nghiệp.
Đối với những doanh nghiệp đầu mối chưa đủ điều kiện thì nên đưa sang diện xuất khẩu không thường xuyên. Mặt khác Nhà nước cũng cần bổ sung các đầu mối xuất khẩu gạo đủ điều kiện làm đầu mối mới.
Chỉ có thế thì vấn đề xuất khẩu gạo mới có hiệu quả tránh được tình trạng “ ngồi mát ăn bát vàng”, kinh doanh tạm bợ chứ không đầu tư lâu dài. Về phân bổ quota Nhà nước cần bớt lại một số quota các dơn vị làm ăn thua lỗ hay xuất khẩu đạt hiệu quả thấp.
2.2 Mặt hàng dệt may
Việc giao hạn ngạch có thu phí được tiến hành theo nguyên tắc công khai, không phân biệt đối xử, khuyến khích xuất khẩu sản phẩm sử dụng nguyên liệu trong nước và xuất khẩu sang các thị trường không áp dụng hạn ngạch.
Đối tượng được giao hạn ngạch là các doanh nghiệp sản xuất hàng đệt may đủ tiêu chuẩn làm hàng xuất khẩu, có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, có ngành hàng dệt may và đã thực hiện hạn ngạch năm trước.
Căn cứ để giao hạn ngạch là số lương thực hiện năm trước của doanh nghiệp. Số lượng thực hiện được tính trên cơ sở số lượng giao chính thức, không tính hạn ngạch thưởng, điều chỉnh, bổ sung do yêu cầu đột xuất.
ở nước ta từ đầu năm 1999 tỷ lệ nhập khẩu hàng dệt may của các nước không áp dụng hạn ngạch thấp, sức mua hạn chế do hậu quả của khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực.
Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan đã có rất nhiều nỗ lực cố gắng đàm phán với EU, tìm kiếm thị trường mới, đề ra cơ chế chính sách phù hợp giúp các doanh nghiệp kịp thời tháo gỡ khó khăn, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế. Kết quả đạt được:
Hết tháng 8 năm 1999 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cả nước đạt 1,1 tỷ USD tăng 10.5% so với cùng kỳ năm 199, trong đó thị trường không hạn ngạch đạt 673 triệu USD chiếm 61% tổng kim ngạch tăng 17%.
Thị trường có áp dụng hạn ngạch chiếm 39% tăng 3%.
Trước đây Hiệp định buôn bán hàng dệt may hiữa Việt Nam và EU được ký tắt ngày 15-12-1992 và bắt đầu có hiệu lực từ 1-1-1993. Ngày 16-7-1996 Hiệp định về trao đổi mậu dịch hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký chính thức tại Brũcen(Bỉ)sau gần 4 năm được ký tắt.
Hiệp định hàng dệt may Việt Nam - EU đã tạo cho Việt Nam nhiều khả năng xuất khẩu sang EU hơn.
Như vậy Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam - EU đã góp phần tích cực trong bước phát triển ngành công nghiệp may mặc Việt Nam. Nó đã đưa sản phẩm may mặc của Việt Nam hoà nhập vào thị trường EU.
III. Những kiến nghị, giải pháp sử dụng có hiệu quả hạn ngạch
1. Những quy định chung.
1.1 Đối tượng và điều kiện tham gia đấu thầu.
Các doanh nghiệp tham gia đấu thầu là các doanh nghiệp có giấy chứng đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư theo luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có ngành hàng dệt may và đã thực hiện hạn ngạch năm trước.
1.2 Điều kiện để doanh nghiệp được tham gia đấu thầu.
Doanh nghiệp trực tiếp sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng dệt may cam kết có đủ năng lực thiết bị sản xuất phù hợp với mặt hàng và số lượng bỏ thầu, khả năng taig chính để thực hiện khi trúng thầu.
Có hồ sơ dự thầu theo đúng quy định.
1.3 Nguyên tắc đấu thầu.
Công khai trong việc tổ chức đấu thầu và mở thầu.
1.4 Thành lập hợp đồng đấu thầu.
Hội đồng đấu thầu gồm cấp vụ của Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp, Bộ kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính do lãnh đạo Bộ Thương mại làm Chủ tịch.
2. Quy trình thực hiện đấu thầu.
- Đăng ký đấu thầu.
- Tiếp nhận hồ sơ dự thầu.
- Mở thầu và xét thầu theo quy định về thời gian, địa điểm và phương thức đấu thầu được thông báo trong hồ sơ mời thầu.
- Công bố kết quả đấu thầu.
3. Tiêu chuẩn xét thầu.
Doanh nghiệp trúng thầu là doanh nghiệp có mức giá đăng ký cao theo thứ tự đến hết số lượng gọi thầu cho mỗi chủng loại và không thấp hơn mức giá chào thầu.
4. Trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp trúng thầu.
Trong vòng một tuần kể từ ngày nhận được thông báo trúng thầu các doanh nghiệp phải nộp tiền ký quỹ bảo đảm thực hiện số lượng hạn ngạch trúng thầu bằng 30% tổng số tiền doanh nghiệp phải mua hạn ngạch trúng thầu. Tiền ký quỹ được nộp bằng “Bảo chứng Ngân hàng” của Ngân hàng nơi doanh nghiệp mở tài khoản cấp.
Các doanh nghiệp trúng thầu được sử dụng hạn ngạch để ký hợp đồng với khách hàng nước ngoài. Hạn ngạch trúng thầu không được mua bán, trao đổi. Các doanh nghiệp không trúng thầu sẽ được nhận lại tiền ký quỹ dự thầu.
Bên dự thầu sẽ không được nhận tiền ký quỹ bảo đảm thực hiện trong trường hợp doanh nghiệp trúng thầu nhưng không thực hiện hết hoặc rút đơn dự thầu sau thời gian quy định.
Tiền mua hạn ngạch trúng thầu doanh nghiệp phải thanh toán cho từng lô hàng trước khi giao hàng.
Nếu trong nước thiếu hàng hoá, giá hàng hoá trong nước sẽ tăng cao hơn giá thế giới gây bất lợi cho người tiêu dùng và nạn buôn lậu tăng lên. Các nhà sản xuất trong nước khi đó về sản phẩm của họ nên yên tâm sản xuất mà không phải lo ngại về vấn đề cạnh tranh do vậy cũng có thể làm yếu đi chính khả năng tự cải tiến về dây chuyền kỹ thuật công nghệ hiện đại, khả năng đào tạo cán bộ kỹ thuật giỏi của họ. Tuy hạn ngạch có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước, thế nhưng trong chừng mực nào đó khác nó lại làm cho khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp yếu đi. Điều này sẽ là một khó khăn rất lớn trong tương lai khi Việt Nam tham gia CEPT/ APTA. Vì khi tham gia AFTA trước mắt tác động đến nguồn thu ngân sách Nhà nước, về lâu dài, sẽ tác động đến cơ cấu thương mại và nền kinh tế, điềy này là rất quan trọng vì nó liên quan đến lựa chọn chiến lược cơ cấu thích ứnh với tình thế của nền kinh tế không còn các hàng rào bảo hộ mậu dịch.
Kết luận
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về hạn ngạch chúng ta có thể thấy hạn ngạch là một trong những công cụ hết sức quan trọng trong công tác điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta, đồng thời hạn ngạch còn là một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Vì thế nghiên cứu tác động của hạn ngạch tới thương mại và dịch vụ là một đề tài rất hay, cũng thông qua sự tìm tòi, phân tích tìm hiểu về đề tài giúp cho em có được những kiến thức thực tế hết sức cần thiết để có thể chuẩn bị tốt cho quá trình học tập và làm việc sau này.
Do thời gian tìm hiểu còn chưa nhiều, đồng thời kiến thức về hạn ngạch của em còn hạn chế nên bàI viết không chánh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo của thầy cô cùng toàn thể các bạn để em có thể hểu sâu hơn về vấn đề này.
Em xin chân thành cảm ơn./.
Tài liệu tham khảo
1.Giáo trình Kinh Tế thương mại.Chủ biên: PGS.PTS NGUYễN DUY BộT
PGS.PTS ĐặNG ĐìNH ĐàO
2. Cẩm nang thương mại và dịch vụ. Chủ biên: PGS.PTS ĐặNG ĐìNH ĐàO
3. Tạp chí thương mại.
4. Thời báo Kinh tế Sài Gòn
5. Hệ thống chính sách thương mại Việt Nam. Nhà xuất bản chính trị 1995.
6.Việt Nam thương mại thời mở cửa. Tổng cục thống kê 1996.
7.Niên giám thống kê 1998. Nhà xuất bản thống kê.
8.Việt Nam và tiến trình hội nhập với các khối kinh tế thế giới. Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
9. Kinh tế học vi mô của ROBERT S.PINDYCK
DANIEL L.RUBìNELD
10. Tạp chí con số và sự kiện
11.Thương mại quốc tế lý thuyết và chính sách.Chủ biên:Thạc sỹ. Trần hoè
Mục lục
Lời nói đầu 1
Nội dung 2
I. Cơ sở lý luận của đề tàI 2
1. Hạn ngạch nhập khẩu 2
2. hạn ngạch xuất khẩu 3
3. Các hạn ngạch khác 4
II. Thực trạng của việc phân bố hạn ngạch của nước ta 4
1. Hạn ngạch nhập khẩu 4
2. Hạn ngạch xuất khẩu 5
III. Những kiến nghị, biện pháp sử dụng có hiệu quả
hạn ngạch 8
1. Những qui định chung 8
2. Quy trình thực hiện đấu thầu 8
3. Tiêu chuẩn xét thầu 8
4. Trách nhệm và quyền lợi của doanh nghiệp trúng thầu 9
kết luận 10
tàI liệu tham khảo 11
mục lục 12
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34643.doc