Tiểu luận Thực trạng giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán

Hoạt động phát sinh TC trên TTCK phải thuộc một trong những hoạt động thương mại được liệt kê tại Khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh trọng tài thương mại, bao gồm các hoạt động mua bán CK (thuộc loại hoạt động mua bán hàng hóa), bảo lãnh pháp hành CK, lưu ký, đăng ký, thanh toán (thuộc loại hoạt động cung ứng dịch vụ); đại lý phát hành (thuộc loại hoạt động đại lý). Việc quy định các hoạt động trên TTCK về từng loại hoạt động thương mại chỉ mang tính chất tương đối, bởi lẽ, trong nhiều trường hợp, một hoạt động trên TTCK mang tính chất của cả hai loại hoạt động thương mại. Chẳng hạn, hoạt động bảo lãnh phát hành CK vừa là hoạt động cung ứng dịch vụ vừa là hoạt động mua bán hàng hóa. Có thể nhận thấy, một số hoạt động được thực hiện trên TTCk không được coi là hoạt động thương mại như hoạt động niêm yết chứng khoán, hoạt động phát hành CK. Chủ thể tiến hành các hoạt động này phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất định đối với các nhà đầu tư trên thị trường. Đó là những nghĩa vụ do pháp luật quy định, không phải trên cơ sở sự thỏa thuận của các chủ thể. Do vậy, TC phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ trên không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại.

doc9 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2224 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG LĨNH VỰC CHỨNG KHOÁN. Điều 131 Luật Chứng khoán quy định: “Tranh chấp phát sinh trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán tại Việt nam có thể được giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải hoặc yêu cầu trọng tài hoặc toàn án giải quyết theo quy định của pháp luật” Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng Thương lượng là việc các bên TC cùng nhu bàn bạc, trao đổi, dấu tranh, nhân nhượng và thỏa thuận để đi đến thống nhất phương án giải quyết xung đột. Đây là hình thức giải quyết tranh chấp không chính thức, do các bên tự nguyện áp dụng. Lựa chọn thương lượng các bên tiết kiệm được thời gian, chi phí – những yếu tố vô cùng quan trọng đối với bất kì chủ thể nào tham gia thị trường chứng khoán. Giải quyết bằng thương lượng thường được áp dụng với tranh chấp đơn giản, giái trị tranh chấp không lớn. Thực tiễn cho thấy giải quyết TC bằng con đường thương lượng là hình thức được sử dụng phổ biến nhất, chiếm tỷ trọng gần như quyết định trên TTCK hiện nay. Điều này xuất phát từ chính ưu điểm của phương thức này là không có sự xuất hiện của bên thứ 3, uy tín của các bên được đảm bảo. Giải quyết TC bằng hòa giải Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp trong đó các bên tự thỏa thuận để thống nhất lựa chọn giải pháp chấm dứt xung đột với sự hỗ trợ của người thứ ba đóng vai trò là trung gian hòa giải (hòa giải viên). Đối với việc giải quyết tranh châp trên thị trường chứng khoán giữa các thành viên, trung tâm giao dịch chứng khoán có thể làm trung gian hòa giải. Khoản 8 Điều 37 LCK không quy định Sở giao dịch CK hoặc trung tâm gio dịch CK có thể làm trung gián hòa giải nếu được thành viên yêu cầu đối với tranh chấp phát sinh từ giao dịch CK. Quy định này cho thấy rất nhiều tranh chấp khác phát sinh trên thị trường chứng khoán có thể thực hiện hòa giải bởi các hòa giải viên khác. Chẳng hạn như tranh chấp phát sinh trong quá trình tư vấn đầu tư, bảo lãnh phát hành, quản lý quỹ đầu tư hay danh mục quản lý quỹ đầu tư CK, TC phát sinh trong quá trình lưu kí CK. Cũng giống như quốc gia có thị trường trung tâm giao dịch CK Việt Nam thành lập ban hòa giải nhằm tạo điều kiện thuận lựi cho quá trình giải quyết TC bằng con đường này. Ban hòa giải gồm có trưởng ban hòa giải là giám đốc hoặc phó giám đốc trung tâm giao dịch chứng khoán, đại diện phowngf giám sát thị trường, các phòng chức năng liên quan và đại diện của các công ty CK thành viên cùng một số thành viên khác theo đề nghị của trưởng ban hòa giải. Quá trình hòa giải gồm ba bước cơ bản: - Bước 1: Tiếp nhận đơn đề nghị hòa giải. bên yêu cầu hòa giải phải gửi đơn đề nghị hòa giải cùng các tài liệu chứng cứ, tài liệu cần thiết đến trung tâm. Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận, trung tâm phải gửi bản sao cho bị đơn. - Bước 2: Chuẩn bị hòa giải: trong thời hạn 15 ngày, bị đơn phải gửi văn bản trả lời chấp nhận hoặc không chấp nhận việc hòa giải. Trường hợp bị đơn chấp nhận hòa giải, giám đốc trung tâm kí quyết định thành lập ban hòa giải. Ban hòa giải tiến hành triệu tập trực tiếp hoặc yêu cầu các bên giải thích bằng văn bản, cung cấp chứng cứ và các tài liệu khác, ra quyết định đình chỉ hòa giải trong một số trường hợp nhát định, ấn định thời gian, địa điểm diễn ra phiên hòa giải, gửi giấy triệu tập hòa giải cho các bên trước ngày hòa giải ít nhất 15 ngày. - Bước 3: tiến hành hòa giải dưới sự chủ trì của trưởng ban hòa giải - Bước 4: Hòa giải kết thúc bằng việc ban hòa giải lập biên bản hòa giải thành hoặc biên bản hòa giải không thành tùy theo kết quả của phiên hòa giải. Việc thực hiện kết quả hòa giải hoàn toàn phục thuộc vò ý chí tự nghuyện của các bên. Đoạn này là đánh theo tài liệu photo nhé Hình thức hoà giải phải có sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian, có nhiệm vụ giúp đỡ, hỗ trợ các bên trong quá trình đàm phán để nhanh chóng tìm ra giải pháp thích hợp, Xem xét các văn bản pháp lý cao nhất về CK và TTCK từ trước đến nay cho thấy, pháp luật luôn ghi nhận vai trò trung gian hào giải của Sở giao dịch CK. Trung tâm giao dịch CK đối với những TC liên quan đến hoạt động giao dịch CK. Đây là điểm đặc thù trong pháp luật về giải quyết TC trên TTCK ở Việt Nam nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung. Trên thế giới, tuỳ theo điều kiện cụ thể mỗi nước mà pháp luật có sự điều chỉnh khác nhau nhưng xu hướng chung đều ghi nhận thương lượng, hoà giải là phương thức giải quyết mang tính tự nguyện. Mỹ được coi là nước có TTCK lâu đời và phát triển nhất hiện nay, trong đó phải kể đến thị trường giao dịch tập trung NYSE và thị trường giao dịch OTC NASD. Quy tắc giải quyết TC tại hai thị trường này đều thừa nhận thương lượng, hòa giải là cách giải quyết hoàn toàn tự nguyện, không bắt buộc đồng thời mỗi sở đều đưa ra chương trình hoà giải riêng, phù hợp với điều kiện của mình. Thương lượng, hoà giải được đề cập ở trên với tư cách là biện pháp ngoài tố tụng, tức là được thực hiện trước khi các bên đưa đơn kiện ra trọng tài hoặc toà án. Bên cạnh đó, pháp luật một số nước lại nhìn nhận hoà giải với tư cách biện pháp bắt buộc trong thủ tục tố tụng. Quy chế Sở giao dịch CK Kuala Lumpur (Malaixia ) quy định: “ khi Sở giao dịch chấp nhạn giải quyết TC giữa các bên liên quan thì các bên phải tự hoà giải trong vòng 30 ngày kể từ ngày có thông báo chấp nhanạ giải quyết TC của Sở giao dịch. Chỉ sau khi các bên không thể thoả thuận được thì Sở giao dịch mới chỉ định trọng tài viên giải quyết “ (14, tr 174) Vai trò trung gian hoà giải của sở giải dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán. TTCK là sản phẩm bậc cao của nền kinh tế thị trường. Để đảm bảo chất lượng hoà giải các TC phát sinh trên thị trường, đòi hỏi đội ngũ hoà giải viên ngoài kinh nghiệm đàm phán, nghệ thuật thuyết phục, sự nhiệt tình, trung thực phải có sự am hiểu nhất định về lĩnh vực CK và TTCK. Xuất phát từ yêu cầu này, pháp luật đã ghi nhận vai trò trung gian hoà giải của một tổ chức hoạt động trên TTCK, bao gồm Trung tâm giao dịch CK và Sở giao dịch CK, tại các văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất về TTCK. Nghị định số 144/2003/NĐ – CP quy định một ttrong những nhiệm vụ, quyền hạn của trung tâm giao dịch CK là làm trung tâm hoà giải theo yêu cầu khi phát sinh TC liên quan đến hoạt đọng giao dịch CK. Theo quy định hiện hành, giao dịch CK tại thị trường tập trung phải thực hiện thông qua thành viên của trung tâm giao dịch là các công ty CK. Đối với phương thức gaio dịch thoả thuận ( áp dụng cho giao dịch CK lô lớn ), mức giá và số lượng CK giao dịch đã thoả thuận từ trước giữa hai nhà đầu tư với công ty CK hoặc giữa hai công ty CK với nhau , công ty CK chỉ nhập lệnh vào hệ thống giao dịch của trung tâm để trung tâm xác nhận kết quả giao dịch. Đối với phương thức khớp lệnh, căn cứ vào lệnh ( mua hoặc bán CK ) của khách hàng, công ty CK nhập lệnh vào hệ thống giao dịch tại trung tâm để tiến hành khớp lệnh trên cơ sở ưu tiên về giá. Quy trình giao dịch CK kết thúc bằng thủ tục chuyển giao CK và thanh toán tiền giữa trung tâm lưu kýCK và ngân hàng chỉ định thanh toán. TC liên quan đến hoạt động giao dịch CK có thể phát sịnh tại bất kỳ giai đoạn nào trong quy trình giao dịch trên giữa các chủ thể là công ty CK, nhà đầu tư, tổ chức thanh toán và tổ chức có CK giao dịch. Khi xảy ra TC, các chủ thể này đều có quyền đề nghị trung tâm tiến hành hoà giải vì quy định nêu trên không xác định rõ quyền đề nghị thuộc chủ thể nào. Quy định về vai trò của trung gian hoà giải của Sở ( trung tâm ) giao dịch CK tại Nghị định số 144/2003/NĐ – CP đã được cụ thể hoá trong một số văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn như: Thông tư số 58/ TT-BTC ngày 17/06/2004 hướng dẫn thi hành về thành viên và giao dịch CK chỉ rõ, thành viên của Trung tâm có quyền đề nghị Trung tâm làm trung gian hoà giải khi có TC liên quan đến hoạt động kinh doanh CK. Theo quy định tại Nghị định số 144/2003/NĐ – CP, hoạt động kinh doanh CK không bao gồm hoạt động quản lý quỹ đầu tư CK và hoạt động lưu ký CK nên TC phát sinh từ hai hoạt động này không được thừa nhận là TC liên quan đến hoạt động kinh doanh CK để được hoà giải tại trung tâm. Đây là quy định bất hợp lý, bởi lẽ, về bản chất, hoạt động lưu ký CK và hoạt động quản lý quỹ đầu tư CK đều là hoạt động kinh doanh CK dưới dạng dịch vụ để thu phí. Tuy nhiên, Luật chứng kháon ra đời khắc phcụ hạn chế này. Bên cạnh thông tư kể trên, Quyết định số 1788/QĐ – BTC ngày 30/05/2005 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Trung tâm giao dịch chứng khoán tại Hà Nội cuãng quy định rõ, Trung tâm có thể làm trung gian hoà giải theo yêu cầu khi phát sinh TC liên quan đến CK đăng ký giao dịch tại trung tâm. Nội dung quy định trên tiếp tục được khẳng định trong luật chứng khán nhưng đã có thời điểm mới khi luật xác định rõ quyền làm trung gian hoà giải của Sở giao dịch CK, Trung tâm giao dịch CK và chủ thể có quyền yêu cầu trung tâm hoà giải chỉ bao gồm các thành viên giao dịch ( tức là các công ty CK). Về vấn đề này, phápnluật Việt Nam có các điểm khác so với pháp luật các nước khi quy định về phạm vi chủ thể có quyền đệ đơn yêu cầu Trung tâm tiến hành hoà giải tương đối hẹp. Bên cạnh các tahnhf viên giao dịch, các công ty niêm yết…Ngoài ra, Luật chứng khoán yêu cầu Sở ( trung tâm ) phải quy định nguyên tắc giải quyết TC nội bộ trong Điều lệ được Bộ tài chính phê chuẩn. Điều đó có nghĩa, TC xảy ra giữa các công ty CK là thành viên của Sở (trung tâm), trước hết phải tuân theo nguyên tắc giải quyết riêng trong nội bộ tổ chức. Nếu xem xét quy định của pháp luật Việt nam về vai trò trung gian hòa giải của các tổ chức như Sở giao dịch CK, trung tâm giao dịch Ck trong mối tương quan với pháp luật của các quốc gia thì đây là quy định có tính kế thừa thành tựu lập pháp của các nước. Hầu hết các nước có TTCK phát triển lâu đời hay vừa hình thành đều ghi nhận quy định trên. Bên cạnh đó pháp luật của một số nước còn ghi nhận vai trò hòa giải các tranh chấp trên TTCK cho một số tổ chức khác. Ví dụ: Luật CK Hàn Quốc quy định rõ về Ủy ban hòa giải TC về CK và thủ tục hòa giải TC về CK… 3. Trọng tài. Như trên đã nêu, pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán hiện hành không có quy định riêng, trực tiếp điều chỉnh vấn đề giải quyết tranh chấp xảy ra trong lĩnh vực chứng khoán. Do vậy, các quy định chung về tố tụng trọng tài là cơ sở pháp lý quan trọng nhất hiện nay để giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán. Mà Điều 1 Pháp lệnh trọng tài thương mại quy định: “Pháp lệnh này quy định về tổ chức và tố tụng trọng tài để giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại theo sự thỏa thuận của các bên”. Như vậy, với tư cách là tranh chấp xảy ra trong lĩnh vực thương mại đặc thù, tranh chấp trên thị trường chứng khoán giải quyết theo thủ tục trọng tài phải tuân theo pháp luật tố tụng trọng tài nói chung và các quy định mang tính chuyên ngành của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán nói riêng. a. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán của trọng tài thương mại. Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu việt, đặc biệt đối với các tranh chấp xảy ra trên TTCK. Điều đó không có nghĩa, mọi TC trên TTCK đều thuộc thẩm quyền của trọng tài thương mại. Theo quy định chung, trọng tài có thẩm quyền giải quyết một vụ TC khi TC đó phát sinh trong hoạt động thương mại, tức là phát sinh giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh trong quá trình thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại, đồng thời trước hoặc sau khi phát sinh TC, các bên có thỏa thuận trọng tài. Điều này dẫn đến hệ quả, để TC trên TTCK được giải quyết theo thủ tục trọng tài phải thỏa mãn ba điều kiện: - Các bên trong TC trên TTCK phải là tổ chức hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh. Pháp lệnh không quy định rõ trọng tài chỉ giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thuộc nội dung đăng ký kinh doanh của các bên. Đây là sự không rõ ràng trong quy định của pháp luật có thể dẫn đến hai cách hiểu: thứ nhất, để TC trên TTCK được giải quyết theo thủ tục trọng tài, các bên TC phải là tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh ngàng nghề CK hoặc các bên chỉ cần có đăng ký kinh doanh, không phụ thuộc vào nội dung ngành nghề đăng ký thuộc lĩnh vực nào. Trong khi đó, TTCK là lĩnh vực thương mại đặc thù nhưng pháp luật không bắt buộc mọi chủ thể tham gia phải tiến hành đăng ký kinh doanh. - Hoạt động phát sinh TC trên TTCK phải thuộc một trong những hoạt động thương mại được liệt kê tại Khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh trọng tài thương mại, bao gồm các hoạt động mua bán CK (thuộc loại hoạt động mua bán hàng hóa), bảo lãnh pháp hành CK, lưu ký, đăng ký, thanh toán… (thuộc loại hoạt động cung ứng dịch vụ); đại lý phát hành (thuộc loại hoạt động đại lý). Việc quy định các hoạt động trên TTCK về từng loại hoạt động thương mại chỉ mang tính chất tương đối, bởi lẽ, trong nhiều trường hợp, một hoạt động trên TTCK mang tính chất của cả hai loại hoạt động thương mại. Chẳng hạn, hoạt động bảo lãnh phát hành CK vừa là hoạt động cung ứng dịch vụ vừa là hoạt động mua bán hàng hóa. Có thể nhận thấy, một số hoạt động được thực hiện trên TTCk không được coi là hoạt động thương mại như hoạt động niêm yết chứng khoán, hoạt động phát hành CK. Chủ thể tiến hành các hoạt động này phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất định đối với các nhà đầu tư trên thị trường. Đó là những nghĩa vụ do pháp luật quy định, không phải trên cơ sở sự thỏa thuận của các chủ thể. Do vậy, TC phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ trên không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại. - Trước hoặc sau khi xảy ra TC, các bên phải có thỏa thuận trọng tài. Đây là điều kiện không chỉ đặt ra đối với TC trên TTCK mà bất kì TC nào phát sinh trong hoạt động thương mại muốn phân xử bằng trọng tài đều phải đáp ứng. Ngoài hình thức văn bản truyền thống. Pháp lệnh cho phép thỏa thuận trọng tài dưới hình thức như “thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc bằng hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ TC bằng trọng tài”. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định rõ tính độc lập của điều khoản trọng tài trong quan hệ với hợp đồng. Các điều khoản trọng tài chỉ vô hiệu trong các trường hợp cụ thể do luật định, không phụ thuộc vào nội dung hay hiệu lực của hợp đồng. Về cơ bản, những quy định trên của pháp luật VN về thỏa thuận trọng tài tương đồng với pháp luật nhiều nước. Tóm lại, pháp luật về CK và TTCk không đặt ra các quy định nhằm hạn chế quyền lựa chọn trọng tài để giải quyết TC trên TTCK của các bên. Vấn đề một TC xảy ra trên TTCK có được giải quyết bằng trọng tài hay không hoàn toàn phụ thuộc vào quy định về thẩm quyền của trọng tài thương mại trong pháp luật tố tụng trọng tài. b. Thủ tục giải quyết tranh chấp trên TTCK tại trọng tài thương mại. Giải quyết TC trên TTCK tại trọng tài thương mại phải tuân theo trình tự thủ tục luật định. DO pháp luật chuyên ngành không có quy định riêng nên theo quy định chung của pháp luật tố tụng trọng tài, thời hiệu khởi kiện TC trên TTCk nói riêng và TC phát sinh trong hoạt động thương mại nói chung là 2 năm, kể từ ngày xảy ra TC. Pháp luật cho phép các bên lựa chọn một trong hai hình thức trọng tài để giải quyết tranh chấp, tại các trung tâm trọng tài hoặc hội đồng trọng tài do các bên thành lập. Trường hợp các bên lựa chọn trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn kiện gửi trung tâm trong đó chỉ rõ tên trọng tài viên đã chọn. Trung tâm trọng tài sẽ gửi bản sao đơn kiện kèm theo danh sách trọng tài viên của trung tâm cho bị đơn. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được, bị đơn phải gửi cho trung tâm trọng tài bản tự bảo vệ cùng tên trọng tài viên đã chọn. Hai trọng tài viên được chọn thống nhất chọn trọng tài vên thứ ba là chủ tịch hội đồng trọng tài. Chủ tịch trung tâm trọng tài có thể chỉ định trọng tài viên nếu hết thời hạn mà bị đơn không chọn trọng tài viên hoặc hai trọng tài viên không thống nhất chọn được trọng tài viên thứ ba. Đối với trường hợp hội đồng trọng tài do các bên thành lập, thay vì gửi đơn lên trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải gửi đơn đến bị đơn và quyền chỉ định trọng tài viên giúp các bên thuộc về tòa án cấp tỉnh nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú. Tổng thời gian tính từ thời điểm gửi đơn kiện đến khi hội đồng trọng tài được thành lập không quá 59 ngày. Sauk hi được chỉ định, các trọng tài viên phải nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc nếu thấy cần thiết, có quyền gặp các bên để nghe các bên trình bày ý kiến, yêu cầu các bên cung cấp chứng cứ liên quan hoặc tự mình thu thập chứng cứ. Các trọng tài viên này vẫn có thể bị thay đổi trong quá trình giải quyết vụ TC nếu có yếu tố ảnh hưởng đến tính khách quan trong công việc phân xử của họ. Thực tế hoạt động TTCk ở các nước cho thấy, đa số trọng tài viên phân xử TC trên TTCk thuộc các trung tâm trọng tài do các Sở giao dịch CK thành lập. Hiện nay, tại Viên Nam chưa tồn tại trung tâm trọng tài nào chuyên phân xử TC trong lĩnh vực CK. Trong khi đó, trọng tài ở cá nước có TTCk phát triển đã đạt đến trình độ chuyên nghiệp rất cao, điển hình là thị trường chứng khoán Mĩ. Pháp lệnh trọng tài thương mại không quy định thủ tục phân xử bằng trọng tài đơn giản trên. Thời gian mở phiên họp do chủ tịch hội đồng trọng tài quyết định nếu các bên không có thỏa thuận khác. Phiên họp không công khai, các bên có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho người đại diện tham dự, có quyền mời nhân chứng, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đồng thời, trong quá trình hội đồng trọng tài giải quyết vụ TC, các bên có quyền làm đơn yêu cầu tòa án cấp tỉnh nơi hội đồng trọng tài thụ lý áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời khi thấy quyền và lợi ích bị xâm phạm hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm phạm. Đây là điểm mới quan trọng trong Pháp lệnh, thể hiện mối quan hệ tương trợ tư pháp giữa hai cơ quan giải quyết TC. Hội đồng trọng tài ra quyết định dựa trên nguyên tắc đa số và quyết định này có tính cưỡng chế thi hành như bản án do tòa tuyên. Pháp luật trọng tài đặc biệt khuyến khích các bên hòa giải trong quá trình tố tụng trọng tài nhưng có sự phân biệt khá rõ giá trị pháp lý của kết quả hòa giải trong hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất, các bên tự hòa giải với nhau. Quá trình hòa giải này có thể tiến hành song song, độc lập với quá trình phân xử của trọng tài. Nếu hòa giải thành thì theo yêu cầu của các bên, hội đồng trọng tài sẽ đình chỉ quá trình tố tụng trọng tài. Đây là hòa giải ngoài tố tụng nên kết quả hòa giải có được thi hành hay không hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên. Trường hợp thứ hai, các bên yêu cầu hội đồng trọng tài tiến hành hòa giải. Nếu hòa giải thành, các bên yêu cầu hội đồng trọng tài lập bên bản hòa giải thành và ra quyết định công nhận hòa giải thành. Quyết định này là trung thẩm, có tính bắt buộc phải thi hành với các bên. Trên chỉ là những bước cơ bản phải tiến hành trong quá trình giải quyết TC trên TTCk bằng trọng tài thương mại. Có thể nhận thấy rằng, trình tự thủ tục phân xử TC bằng trọng tài tương đối đơn giản, các bên không mất quá nhiều thời gian vào những thủ tục pháp lý rườm rà, phức tạp như tòa án trong khi kết quả giải quyết vẫn đảm bảo tính cưỡng chế thi hành. 4. Tòa án. Với mục đích tạo một mặt bằng thông thoáng về mặt thủ tục giải quyết TC tại tòa án và hình thành một nền văn hóa tư pháp công bằng, lành mạnh thông qua hoạt động xét xử, Quốc hội đã ban hành Bộ luật tố tụng dân sự 2005, quy tụ các thủ tục tố tụng gần nhau vào thành một mối. Phạm vi điều chỉnh của Bộ luật không chỉ giới hạn trong khuôn khổ các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự mà còn mở rộng sang các quan hệ tố tụng kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình. Do vậy, mọi TC xảy ra trên TTCK đưa ra giải quyết tại tòa án tuân theo một trình tự tố tụng chung, thống nhất trên cơ sở Bộ luật tố tụng dân sự. a. Về việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp trên TTCK của Tòa án. Thẩm quyền của Tòa án về giải quyết các TC phát sinh trong quan hệ dân sự (quan hệ dân sự hiểu theo nghĩa rộng) được pháp luật phân định theo vụ việc, theo cấp tòa án, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn. Đối với TC xảy ra trên TTCk, thẩm quyền của tòa án cũng được xác định dựa trên bốn tiêu chí trên. - Xác định thẩm quyền của tòa kinh tế và tòa dân sự trong việc giải quyết TC trên TTCK. Khác với các văn bản pháp luật tố tụng được ban hành trước đó, Bộ luật tố tụng dân sự chia các TC thuộc thẩm quyền của tòa án thành các TC về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và giao cho các tòa chuyên trách nằm trong hệ thống tòa án nhân dân giải quyết. Các TC xảy ra trên TTCk có thể thuộc thẩm quyền của tòa kinh tế hoặc tòa dân sự, tùy thuộc TC đó là TC về kinh doanh thương mại hay TC về dân sự. Căn cứ vào Điều 29 Bộ luật, có thể xác định các TC trên TTCk thuộc thẩm quyền của tòa kinh tế gồm hai nhóm cơ bán: (chỗ này photo thiếu ba con ah!!!!!!!!) b. Thủ tục giải quyết tranh chấp trên TTCk tại tòa án. Bộ luật tố tụng dân sự ra đời, thống nhất trình tự thủ tục giải quyết các TC về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động. Tuy nhiên, pháp luật vẫn quy định một số thủ tục đặc thù áp dụng cho một số loại việc cụ thể. Thủ tục giải quyết TC trên TTCk không nằm trong các trường hợp đặc biệt đó mà tuân theo thủ tục tố tụng chung. Theo đó, thời hiện khởi kiện của các TC trên thị trường là 2 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. “Thời điểm quyền, lợi ích bị xâm phạm được xác định là thời điểm người có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ đó”, không phụ thuộc vào bên có quyền lợi ích xâm phạm có nhận thức được hành vi xâm phạm của bên kia không. Thủ tục tố tụng bắt đầu từ thời điểm tòa án thụ lý đơn kiện của nguyên đơn và kết thúc bằng bản án do hội đồng xét xử tuyên. Thỏa thuận trọng tài trước hoặc sau khi xảy ra TC của các bên là một trong những lý do tòa án trả lại đơn kiện. Đối với TC xảy ra giữa các thành viên (không phải với tư cách thành viên sở hữu) của trung tâm giao dịch CK, nếu các bên không tiến hành thương lượng hòa giải theo quy định trong nguyên tắc giải quyết TC nội bộ của trung tâm trước khi khởi kiện, tòa án cũng có quyền không thụ lý (Điểm e Khoản 1 Điều 168 Bộ luật TTDS). Sauk hi thụ lý vụ án, tòa án sẽ tiến hành một số công việc cần thiết để chuẩn bị cho phiên tòa xét xử. Điểm đặc biệt trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là trách nhiệm hòa giải của tòa án, cụ thể là của thẩm phán được giao giải quyết vụ án. Pháp luật hiện hành quy định rõ, trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, tối đa là 6 tháng (kể từ ngày thụ lý) đối với TC về dân sự và 3 tháng đối với TC về kinh doanh thương mại, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được. Trong trường hợp hòa giải thành, thẩm phán lập biên bản hòa giải thành. Các bên được pháp luật dành cho một khoảng thời gian cần thiết là 7 ngày (kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành) để suy nghĩ và cân nhắc nhữn nội dung đã thỏa thuận. Hết thời hạn đó mà không có bên nào thay đổi ý kiến thì thẩm phán mới ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay sau khi ban hành và không bị kháng cáo kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nhưng có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, đạo đức xã hội. Trường hợp hòa giải không thành, thẩm phán sẽ ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Phiên tòa sơ thẩm diễn ra công khai theo thời gian và địa điểm do thẩm phán ấn định. Đương sự có thể tự mình tham gia hoặc cử người đại diện và có quyền tranh luận tại phiên tòa. Đây được coi là “hoạt động trung tâm của phiên tòa, bảo đảm cho đương sự bảo vệ được quyền và lợi ích hơp pháp của mình trước tòa án”. Theo quy định, hội đồng xét xử gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân. Hội đồng xét xử làm việc tập thể và ra bản án giải quyết vụ TC theo nguyên tắc đa số dựa trên kết quả của việc hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Bản án có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên và được đảm bảo bằng sự cưỡng chế của nhà nước mà đại diện alf cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, nếu không đồng ý với quyết định phân xử của tòa án, các bên TC có quyền kháng cáo trong thời gian luật định theo thủ tục phúc thẩm. Đây chính là điểm khác biệt cơ bản giữa bản án của tòa án và phán quyết của trọng tài, bởi phán quyết của trọng tài có giá trị trung thẩm, các bên không có quyền kháng cáo. Quy định thủ tục kháng cáo trong tố tụng tòa án thể hiện tính chất hai mặt, vừa tạo cơ hội cho cơ quan xét xử sửa chữa sai lầm trong trường hợp bản án tuyên không thỏa đáng nhưng vừa là nguyên nhân làm cho quá trình giải quyết TC bị kéo dài, gây lãng phí thời gian của đương sự và cơ quan xét xử.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán.doc