Tiểu luận Thực trạng hoạt động của ngân hàng chính sách xã hội trên thị trường tài chính

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 3

1. Giới thiệu về ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) 4

1.1 Sơ lược về NHCSXH VN: 4

1.2 Đối tượng phục vụ: 4

1.3 Chức năng: 4

2. Hoạt động của NHCSXH trên TTTC: 5

• Họat động của ngân hàng chính sách trên thị trường tiền tệ: 5

• Họat động của ngân hàng chính sách trên thị trường vốn: 6

 Huy động vốn: 6

 Vốn đi vay 9

 Cho vay vốn: 10

3. Thành tựu, tồn tại và nguyên nhân: 14

3.1 Thành tựu NHCSXH đạt được trong những năm qua: 14

• Giúp các hộ gia đình xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế 14

• Tạo cầu nối cho nhà nước thực hiện các chính sách xã hội 14

• Tiếp sức cho học sinh, sinh viên đến trường: 15

• Hỗ trợ tạo điều kiện xuất khẩu lao động, giải quyết việc làm: 15

• Thực hiện tốt các chiến dịch cho vay hỗ trợ bảo vệ cuộc sống nông thôn: 15

3.2 Tồn tại, nguyên nhân 16

4. Các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của NHCSXH trên TTTC 18

4.1 Giải pháp 18

4.2 Một số kiến nghị: 19

• Kiến nghị đối với nhà nước, NHTW: 19

• Kiến nghị đối với chính quyền các cấp: 20

• Kiến nghị đối với bản thân NHCSXHVN: 20

LỜI KẾT 22

TÀI LIỆU THAM KHẢO 23

 

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6695 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng hoạt động của ngân hàng chính sách xã hội trên thị trường tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.606 11.302 Tỷ trọng 51% 74% 65% + tiền gửi < 12 tháng 6891 3724 6164 Tỷ trọng 49% 26% 35% B Tổng dư nợ: 24.140 34.940 52.400 Trong đó : + Dư nợ trung, dài hạn 19.558 29.716 46.636 Tỷ trọng 81% 85% 89% + Dư nợ ngắn hạn 4582 5224 5764 Tỷ trọng 19% 15% 11% - Theo bảng số liệu trên ta thấy lượng tiền gửi của khách hàng kì hạn ngắn hạn chiếm tỷ trọng cũng khá lớn nhưng có xu hướng giảm qua các năm. - Tuy nhiên ngân hàng thực hiện tín dụng ngắn hạn đối với khách hàng với tỷ trọng thấp, chủ yếu cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng lớn. Việc này phù hợp với mục đích vay mượn tiền của khách hàng là những đối tượng thuộc diện nghèo vay vốn để sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống nên ít khi có khả năng hoàn vốn trong ngắn hạn. Chính vì vậy, hoạt động của NHCSXH trên TTTT còn hạn chế. Họat động của ngân hàng chính sách trên thị trường vốn: Huy động vốn: Bên cạnh nguồn vốn ổn định do Nhà nước cấp, NHCSXHVN còn có các hoạt động huy động vốn từ nhiều nguồn, nhằm tận dụng được số vốn nhàn rỗi trong xã hội, giảm được áp lực cho ngân sách quốc gia, các kênh huy động vốn mà NHCSXH thường dùng là: Tiền gửi có trả lãi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước Tiền gửi của các tổ chức tín dụng Nhà nước bằng 2% số dư nguồn vốn huy động bằng đồng Việt Nam có trả lãi theo thoả thuận Tiền gửi tự nguyện không lấy lãi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước Phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác Tiền tiết kiệm của người nghèo Thông qua số liệu về tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn của NHCSXHVN trong những năm 2006, 2007, 2008 (bảng 1) ta có thể thấy tiền gửi từ khách hàng luôn chiếm một tỉ trọng đáng kể trong tổng cơ cấu nguồn vốn, tuy nhiên tỉ trọng này có xu hướng ngày càng giảm dần. Cụ thể là tỉ trọng nguồn vốn tiền gửi khách hàng trong tổng nguồn vốn năm 2006 là 55.45%, đến năm 2007 giảm còn 39.75%, năm 2008 là 32.43%. Lượng tăng tuyệt đối của số dư tiền gửi có tăng song lại ít so với nhu cầu giải ngân thực tế ngày càng tăng do chính sách mở rộng mục đích cho vay cũng như đối tượng cho vay (hssv, hộ nghèo…), trong đó, khoản tiền gửi có kì hạn trên 12 tháng vốn giữ vai trò quan trọng đối với mục đich cho vay dài hạn của NHCSXH cũng có xu hướng ngày càng giảm dần về tỉ trọng. So với nhu cầu vay vốn ngày càng tăng từ học sinh sinh viên, các hộ nghèo cần được hỗ trợ trước tình hình kinh tế khó khăn như hiện nay thì NHCSXHVN cần tăng cường huy động vốn từ những nguồn khác, cụ thể là trong năm 2009, NHCSXH VN vẫn còn thiếu khoảng 5000 tỷ đồng giải ngân theo chính sách tăng trưởng tín dụng của chính phủ. Bên cạnh nguồn vốn ổn định từ tiền gửi của các tổ chức tín dụng Nhà nước bằng 2% số dư nguồn vốn huy động bằng đồng Việt Nam có trả lãi theo thoả thuận theo quy định, NH đã có những đợt phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh dự kiến sẽ phát hành trong năm 2009, 2010. Tuy nhiên, kết quả đấu thầu trái phiếu không thành công như mong đợi. Năm 2009, lượng trái phiếu trị giá 3.000 tỷ đồng được Chính phủ bảo lãnh đã không tìm được trái chủ, bởi lãi suất do người mua yêu cầu cao hơn hẳn lãi suất trần. Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) cho biết, có 4 thành viên tham gia đấu thầu lượng trái phiếu này hôm 11/8. Lượng trái phiếu này do Ngân hàng Chính sách Xã hội phát hành với mệnh giá 100.000 đồng và trả lãi sau. Lãi suất thấp nhất do các thành viên đưa ra là 9,5% mỗi năm và cao nhất là 10,6%, trong khi lãi suất trần là 9,1%. Đợt phát hành 2000 tỷ đồng trái phiếu ngày 16/3/2009 cũng cùng chung số phận khi 5 thành viên tham gia đấu thầu đặt mức lãi suất thấp nhất là 8.5%/năm, trong khi lãi suất trần là 7.45%/năm. Từ đầu năm 2009 đã có gần 10 phiên đấu thầu trái phiếu, nhưng phần lớn đều thất bại, do lãi suất người mua yêu cầu cao hơn lãi suất trần của Bộ Tài chính. Song, vẫn có các cuộc đấu thầu thu được thành công, chẳng hạn như: Ngày 16/4/2010 phát hành được 500 000 trái phiếu mệnh giá 100 000 đồng, lãi suất coupon 12%/năm. Ngày 11/5/2010 đã phát hành được 5 500 000 trái phiếu mệnh giá 100 000 đồng, lãi suất coupon 11.7%/năm… Nhìn chung, việc phát hành trái phiếu năm 2009 đã giúp NHCSXH đạt được chỉ tiêu tăng 5000 tỷ đồng vốn giải ngân theo kế hoạch. Tuy không thành công trọn vẹn nhưng việc phát hành trái phiếu cũng đã góp phần giải quyết bài toán giải ngân cho NHCSXH. Ngoài ra, NHCSXH còn có hoạt động huy động vốn thông qua việc nhận tiền gửi tiết kiệm từ người nghèo, từng bước tạo cho người nghèo có ý thức dành tiền tiết kiệm để tạo vốn tự có, quen dần với hoạt động tín dụng, tài chính, đồng thời tạo thêm nguồn vốn để mở rộng cho vay, bắt đầu từ tháng 4/2010, chi nhánh NHCSXH tỉnh Lạng Sơn đã có số dư tiền gửi tiết kiệm của hộ nghèo, số dư không ngừng tăng lên, đến nay được trên 2.425 triệu đồng với 1.655/2.924 Tổ TK&VV có số dư tiền gửi, đạt 56,6%. Vốn đi vay NHCSXH đã tập trung huy động nguồn vốn đáp ứng đủ nhu cầu giải ngân cho vay hộ nghèo, cho vay HSSV có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng chính sách khác theo kế hoạch tín dụng chủ yếu từ các nguồn: -Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước -Vay Tiết kiệm Bưu điện, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam -Vay Ngân hàng Nhà nước -Vốn đóng góp tự nguyện không hoàn trả của các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các hội, các tổ chức phi Chính phủ trong và ngoài nước -Vốn nhận ủy thác cho vay ưu đãi của chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các hội, các tổ chức phi Chính phủ, các cá nhân trong và ngoài nước. Số liệu thực tế từ NHCSXH Việt Nam 2008 và 2009 Năm 2008 - Nguồn vốn tồn ngân KBNN tăng 8.500 tỷ đồng; - NHNN tăng 2.974 tỷ đồng; - Nhận vốn cho vay của các chương trình tăng 370 tỷ đồng. - Đặc biệt là Chính phủ đã bố trí nguồn vốn cho vay HSSV có hoàn cảnh khó khăn từ nguồn vốn không lãi và lãi suất thấp. NHCSXH cũng đã chủ động huy động vốn từ các NHTM, huy động trên thị trường để đáp ứng nhu cầu cho vay. Mặc dù có rất nhiều khó khăn trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế năm 2008, việc khai thác huy động vốn trên thị trường do lãi suất trên thị trường tăng cao, diễn biến phức tạp song NHCSXH đã nỗ lực tập trung huy động mọi nguồn vốn đáp ứng đủ nhu cầu giải ngân cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Tính đến 31/12/2008, tổng nguồn vốn đạt 54.610 tỷ đồng, tăng 18.559 tỷ đồng so với năm 2007, tỷ lệ tăng 51%. Đây là sự tăng trưởng vượt bậc về nguồn vốn đáp ứng tăng trưởng dư nợ, là một năm tăng trưởng cao nhất kể từ khi thành lập NHCSXH, đạt 102% kế hoạch năm 2008 Thủ tướng Chính phủ giao. Năm 2009 Theo báo cáo, Tổng nguồn vốn đạt 74.467 tỷ đồng, trong đó: - Vốn điều lệ đạt 9.488 tỷ đồng, - Nguồn vốn cấp để cho vay các chương trình tín dụng đạt 5.636 tỷ đồng, - Vốn ngân sách địa phương 2.008 tỷ đồng, - Vốn vay lãi suất thấp 30.477 tỷ đồng, - Vay Ngân hàng Nhà nước 16.796 tỷ đồng và Kho bạc Nhà nước 13.099 tỷ đồng, - Vay và nhận uỷ thác nước ngoài 582 tỷ đồng, - Nguồn vốn huy động và vay lãi suất thị trường 22.982 tỷ đồng, - Còn lại là các quỹ và vốn khác. Cho vay vốn: Hộ nghèo: Cho vay  hộ nghèo ở vùng III và các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (lãi suất trong hạn là 0.9%/tháng) Cho vay hộ nghèo thuộc các khu vực khác (lãi suất trong hạn là 0.65%/tháng) Số liệu thực tế: Ngân hàng  Hộ nghèo ở vùng III và các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa Chính sách - xã hội Yên Bình: NHCSXH huyện Yên Bình (Yên Bái) đã cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách xã hội trên địa bàn huyện vay gần 6 tỷ 500 triệu đồng để phát triển kinh tế và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt, nâng tổng dư nợ của Ngân hàng lên trên 138 tỷ đồng, trong đó, dư nợ hộ nghèo đạt gần 59 tỷ đồng, chiếm trên 42% tổng dư nợ. Cầu nối giúp hộ nghèo sản xuất hàng hóa: Với phương châm: “Hoạt động vì người nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận với kênh tín dụng ưu đãi của Nhà nước”.Sau hơn 6 năm đi vào hoạt động (tính đến đầu tháng 1/2010), NHCSXH tỉnh Yên Bái có tổng dư nợ đạt 963 tỷ đồng (tăng 260 tỷ so với năm 2008), giải quyết cho 31.047 lượt khách hàng vay vốn, góp phần tạo việc làm mới cho 17.500 lao động ở địa phương, giúp 8195 hộ thoát nghèo 144000 hộ nghèo được vay vốn từ ngân hàng chính sách xã hội: Bà Hà Thị Hạnh - Tổng giám đốc NHCSXH VN cho biết:  năm 2009 NHCSXHVN đã cùng với cả nước thực hiện khá hiệu quả Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về giảm nghèo nhanh và bền vững tại 62 huyện nghèo. Theo đó, đã có 144 nghìn hộ nghèo ở 887 xã thuộc 62 huyện nghèo được vay vốn, với dư nợ gần 700 tỷ đồng, lãi suất cho vay bằng 0%. Phát huy những kết quả đã đạt được, năm 2010 toàn hệ thống NHCSXHVN tập trung huy động nguồn vốn và cho vay các chương trình ưu đãi, đảm bảo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng được Thủ tướng giao. Học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và học nghề (lãi suất trong hạn 0.5%/tháng): Tính đến hết tháng 9/2010, hơn 24.000 tỷ đồng đã được NHCSXH giải ngân, giúp gần 2 triệu HSSV của khoảng 1,7 triệu gia đình có hoàn cảnh khó khăn yên tâm học tập. Theo thống kê cho thấy, tỉ lệ HS-SV được vay vốn chiếm khoảng 28-30% tổng số HS-SV trên toàn quốc. Đến thời điểm hiện tại, Phòng giao dịch huyện Tuyên Hóa, Quảng Bình đã giải ngân học kỳ I năm học 2010 - 2011 cho 1.390 HSSV với số tiền hơn 6 tỷ đồng. Nâng tổng dư nợ chương trình tín dụng này lên 47 tỷ đồng (chiếm 23% tổng dư nợ các chương trình), với 3.110 HSSV dư nợ. Đồng thời để đảm bảo an toàn cho HSSV trong việc bảo quản tiền mặt, hạn chế lượng tiền mặt lưu thông đối với ngân hàng, Phòng giao dịch huyện đã thực hiện cho vay bằng hình thức chuyển khoản vào tài khoản ATM cho HSSV, và đã có 1.910 HSSV được giải ngân qua thẻ ATM. Các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài (lãi suất trong hạn là 0.65%/tháng) Đối với chương trình cho vay XKLĐ đã góp phần tạo điều kiện cho trên 50 nghìn người đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Tuy nhiên, theo đánh giá của lãnh đạo NHCSXH, nguồn vốn để cho vay còn hạn chế, mức cho vay còn thấp, chưa đáp ứng đủ chi phí cho một lao động đi làm việc ở các nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc... Hiện, chưa có quy chế quản lý thu nhập của người lao động đã được vay vốn nên có hiện tượng chây ỳ khiến cho việc thu hồi khi nợ đến hạn. Các tổ chức kinh tế và hộ sản xuất, kinh doanh thuộc hải đảo; thuộc khu vực II, III miền núi và thuộc Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135) Hộ nghèo trên địa bàn 61 huyện nghèo được hưởng các chính sách sau đây khi vay vốn tại NHCSXH: - Được vay ưu đãi 01 lần số tiền tối đa 5 triệu đồng với lãi suất 0% trong thời gian 02 năm để mua giống gia súc (trâu, bò, dê) hoặc giống gia cầm chăn nuôi tập trung hoặc giống thuỷ sản. - Đối với hộ nghèo không có điều kiện chăn nuôi mà có nhu cầu phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp tạo thu nhập được vay ưu đãi 01 lần với số tiền tối đa 5 triệu đồng với lãi suất 0% trong thời hạn 02 năm. Việc cho vay hỗ trợ lãi suất theo 2 điểm trên đây áp dụng với món cho vay mới kể từ ngày văn bản hướng dẫn có hiệu lực thi hành. Trường hợp hộ nghèo vay với mức vay trên 5 triệu đồng, thời gian vay vốn trên 02 năm thì số tiền vay trên 5 triệu đồng và thời hạn vay trên 2 năm được áp dụng lãi suất cho vay hộ nghèo hiện hành của NHCSXH tại thời điểm cho vay. Đồng thời, hộ nghèo vay vốn đến 31/12/2009 vẫn được hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất tại Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 06/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ, văn bản hướng dẫn thực hiện số 1221/NHCS-KT ngày 19/5/2009 của Tổng giám đốc NHCSXH. Trường hợp hộ vay thời hạn dưới 2 năm nhưng phải gia hạn nợ hoặc chuyển nợ quá hạn vẫn được hưởng lãi suất 0% trong thời hạn 2 năm đó. Trường hợp người vay đã vay vốn chương trình cho vay hộ nghèo, kể cả trường hợp người vay đã vay đến mức tối đa 30 triệu đồng, nếu có nhu cầu vay vốn để sử dụng vào các mục đích nêu tại điểm 3 văn bản này thì vẫn được vay thêm tối đa đến 5 triệu đồng với lãi suất 0% trong 2 năm. Chương trình được triển khai rộng rãi và đạt kết quả khả quan .Sau đây chỉ là một vài ví dụ trong hàng loạt chương trình vay vốn được triển khai tại các tỉnh thành trong cả nước. Những năm qua, Chi nhánh NHCSXH Nam Định đã phối hợp cùng các cấp hội, đoàn thể trên địa bàn nhận ủy thác, làm thủ tục cho hơn 157.000 lượt hộ vay vốn kịp thời. Việc làm này không những giúp nhiều hộ thoát cảnh nghèo khó mà còn tiếp thêm động lực cho bà con vươn lên làm giàu... Trải qua 5 năm hoạt động, đến nay tổng dư nợ của chi nhánh NHCSXH tỉnh Phú Yên đạt trên 520 tỷ đồng, tăng gấp 9 lần so khi thành lập với 75.000 hộ vay. Trong đó, dư nợ cho vay hộ nghèo chiếm 70%. Với mục tiêu giúp dân XĐGN và từng bước nâng cao đời sống, hiện bình quân mỗi hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn tỉnh Phú Yên được vay 10 triệu đồng để phục vụ cho việc phát triển SXKD, đời sống vật chất và tinh thần thực sự được cải thiện. Tỉnh Lai Châu báo cáo thực hiện chính sách vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn theo Quyết định 32/2007/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ giai đoạn 2007 – 2010 đã đánh giá: Sau 4 năm thực hiện chính sách toàn tỉnh đã có 3.554 hộ được vay với kết quả giảI ngân đạt 17 tỷ 765 triệu đồng đạt 95% tổng vốn giao. Nguồn vốn tín dụng ưu đãI của Chính phủ đã giúp bà con hộ nghèo đồng bào các dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn có vốn để chăn nuôI phát triển sản xuất. Nguồn vốn cho vay giúp đồng bào có điều kiện mua thêm trâu, bò, cày kéo và sinh sản để chuyển dần từ sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa phát triển kinh tế trang trạn tăng thêm thu nhập... Cho vay thực hiện dự án nước sạch và bảo vệ môi trường vệ sinh nông thôn Năm 2009, tỉnh Nam Định đã có 81% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh, tương đương khoảng 1,4 triệu người, 68% số hộ dân (khoảng 324 nghìn hộ) có nhà tiêu hợp vệ sinh và phấn đấu năm 2010 sẽ hoàn thành mục tiêu đề ra của chiến lược quốc gia về NS&VSMTNT là có 85% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch, 70% gia đình và dân số nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh tương đương khoảng 330 nghìn hộ. Thành tựu, tồn tại và nguyên nhân: 3.1 Thành tựu NHCSXH đạt được trong những năm qua: “ Chúng tôi cam kết thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo trên thế giới, thông qua các hành động quốc gia kiên quyết và sự hợp tác quốc tế, coi đây như một đòi hỏi bắt buộc về mặt đạo đức, xã hội, chính trị và kinh tế của toàn nhân lọai.” Với phương châm họat động đầy ý nghĩa đó, Ngân Hàng Chính Sách Xã hội đã không ngừng nỗ lực họat động đem nguồn vốn của mình đến tận tay người nghèo. Dõi theo chặng đường 7 năm qua, ngân hàng chính sách xã hội đã và đang đạt được những thành tựu to lớn, góp phần thực hiện các mục tiêu chính sách xã hội của nhà nước . Giúp các hộ gia đình xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế: Với mục đích họat động không vì mục tiêu lợi nhuận, Ngân hàng chính sách xã hội đã cho các hộ nghèo vay vốn để phát triển kinh tế với lãi suất 7.8%/năm, đặc biệt đối với những hộ nghèo tại 62 huyện nghèo (theo nghị quyết 30a của Chính phủ ngày 27/12/2008) và hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn ngân hàng đã có chính sách ưu đãi đặc biệt cho vay vốn với lãi suất 0%/năm. Chính những chính sách hỗ trợ lãi suất như vậy đã thu hút được một lượng lớn hộ nghèo mạnh dạn đến ngân hàng vay vốn để sản xuất, kinh doanh. Tính đến tháng 9/2008 thì đã có hơn 9.1 lượt hộ nghèo vay vốn, trong đó có 1.4 triệu hộ nghèo thoát nghèo. Theo thống kê thì đến tháng 3/2010 đã có 144 nghìn hộ nghèo ở 887 xã thuộc 62 huyện nghèo được vay vốn với lãi suất 0%/năm. Tạo cầu nối cho nhà nước thực hiện các chính sách xã hội: Nhà nước ta luôn chú ý đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo hỗ trợ các gia đình chính sách, gia đình khó khăn phát triển cuộc sống. Thông qua NHCSXH ở các địa bàn huyện, thành phố, các đối tượng cá nhân, hộ gia đình nghèo cần sự hỗ trợ dễ dàng tìm đến sự giúp đỡ của nhà nước thông qua các chi nhánh của ngân hàng. Đồng thời, các chính sách xã hội của nhà nước cũng đạt được hiệu quả họat động cao hơn do áp dụng đúng đối tượng là các hộ nghèo, tránh lãng phí nguồn ngân sách nhà nước. Tiếp sức cho học sinh, sinh viên đến trường: Giáo dục là một trong những lĩnh vực mà Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Hỗ trợ giáo dục là một trong những mục tiêu chính sách lớn của nước ta. Thực hiện mục tiêu này của nhà nước, NHCSXH đã tạo điều kiện cho những HS-SV có điều kiện khó khăn được vay vốn hỗ trợ học tập tại ngân hàng. Với chính sách lãi suất hỗ trợ cho học sinh, sinh viên nghèo vay vốn 6%/năm, tính đến hết tháng 9/2010, hơn 24.000 tỷ đồng đã được NHCSXH giải ngân, giúp gần 2 triệu học sinh sinh viên của khoảng 1.7 triệu gia đình có hoàn cảnh khó khăn yên tâm học tập. Theo thống kê cho thấy tỉ lệ học sinh, sinh viên được vay vốn chiếm khoảng 28-30% tổng số học sinh, sinh viên trên toàn quốc. Hỗ trợ tạo điều kiện xuất khẩu lao động, giải quyết việc làm: với mục tiêu thực hiện chương trình tạo thêm việc làm, NHCSXH đã không ngừng khuyến khích các đối tượng cho vay có dự án vay vốn tạo việc làm mới, thu hút thêm lao động vào làm việc thường xuyên. Đồng thời NHCSXH cũng có hỗ trợ giúp các đối tượng thuộc diện chính sách có điều kịên vay vốn đi xuất khẩu lao động, tìm kiếm công việc ở các nước khác. Thực hiện tốt các chiến dịch cho vay hỗ trợ bảo vệ cuộc sống nông thôn: bên cạnh việc hỗ trợ trực tiếp để giúp các hộ gia đình nghèo nông thôn thoát cảnh nghèo đói,cải thiện kinh tế, NHCSXH cũng quan tâm đến việc ổn định cuộc sống của các hộ nghèo,bảo vệ môi trường, bảo vệ cuộc sống người dân ở những vùng đất đói nghèo, thiếu thốn thông qua các chính sách hỗ trợ cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, chính sách cho vay làm nhà ở những vùng hay ngập lũ… Đối với từng chính sách, ban chỉ đạo ngân hàng đã trực tiếp rà soát, kiểm tra những đối tượng được hưởng lợi để tránh tình trạng bỏ sót. NHCSXH không ngừng tuyên truyền và vận động các ngành, đoàn thể có liên quan cũng thực hiện tham gia các chính sách của ngân hàng đảm bảo giúp các hộ nghèo có nhà ở, có nước sạch để dùng…đem đến cuộc sống tốt hơn cho người dân ở đây. èVới những nỗ lực không ngừng các các cấp lãnh đạo cũng như toàn thể cán bộ công nhân viên ngân hàng, Ngân hàng chính sách xã hội đã từng bước khẳng định vai trò và vị thế của mình trong sự nghiệp xóa đói giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội, trở thành người bạn thân thiết trung thành đối với những người dân nghèo, góp vai trò quan trọng trong công tác xây dựng cuộc sống văn minh của Đảng và Nhà nước. Những thành tựu to lớn của ngân hàng đã được Đảng và toàn dân ghi nhận. Chính vì vậy, ngày 8/9/2008, NHCSXH đã được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập Hạng 3. Đây là phần thưởng cao quý cho những đóng góp to lớn của ngân hàng cho đất nước trong suốt chặng đường qua. 3.2 Tồn tại, nguyên nhân - Còn nặng về việc thực hiện một chính sách lãi suất bao cấp trong quá trình thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo. + Tăng mức độ ỷ lại của người nghèo, người dân coi đây là một khỏan trợ cấp hay hỗ trợ nên không có tư tưởng phải hoàn trả, khiến họ không nỗ lực thoát nghèo, thực tế cho thấy tỷ lệ hoàn trả của các chương trình tín dụng bao cấp là thấp, trừ một vài trường hợp đặc biệt, tỷ lệ không hoàn trả ở các nước đang phát triển giao động khoảng từ 40 đến 95%. + Tín dụng bao cấp là tạo ra cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường tài chính khiến người nghèo khó tiếp cận được với vốn vay. + Chính sách lãi suất bao cấp gây sói mòn khả năng tài chính của tổ chức: khi lãi suất huy động bằng hoặc cao hơn lãi suất cho vay => tổ chức không thể bù đắp được cho hoạt động hiện tại. - Các thông tin về kênh tín dụng chưa được người nghèo nắm rõ. Nguyên nhân là do việc tuyên truyền từ NH đến người dân còn hạn chế, bởi mật độ phân bố các điểm giao dịch quá ít ỏi so với địa bàn nông thôn rộng lớn, có những điểm giao dịch làm việc chỉ từ 1-2 lần / tháng. - Thủ tục tín dụng còn nặng nề đối với người dân, chủ yếu là do bất cập giữa điều kiện áp dụng cho vay với thực tế (đòi hỏi phải có hóa đơn chứng từ rõ ràng nhưng hầu hết việc mua phân bón, thuốc trừ sâu, cây giống… không có chứng từ; chỉ hỗ trợ cho vay đối với nhu cầu mua máy móc thiết bị nội địa trong khi hàng nội địa không đáp ứng được phần lớn yêu cầu kĩ thuật cần thiết: máy cày…), việc này chủ yếu là do Nhà nước chưa thực sự đi sâu vào đời sống của người dân, chưa tìm hiểu rõ về nhu cầu, nguyện vọng bức thiết của họ. - Trong thực tế có nhiều hộ nông dân được vay vốn của NH để làm kinh tế và có nhiều hộ thoát khỏi nghèo nhưng do thời hạn vay vốn không dài nên sau khi trả vốn họ lại rơi vào tình trạng đói nghèo. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này một phần là do người nghèo chưa sử dụng vốn hiệu quả, họ không hiểu biết nhiều về khoa học kĩ thuật nên chỉ kinh doanh ở quy mô nhỏ do đó hiệu quả đem lại không lớn. - NH chưa huy động được nguồn vốn dài hạn ổn định, gây ra khó khăn cho đối tượng cần vốn nhưng không được đáp ứng (sinh viên cần tiền đóng học phí nhưng NH thiếu vốn nên không cung cấp được – giai đoạn đầu năm 2010). Nguyên nhân là do việc bố trí vốn giữa các dự án phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách còn bất cập, còn có khoảng cách rất xa giữa nhu cầu vốn của các chương trình an sinh xã hội do Nhà nước giao cho NHCSXH thực hiện với thực tế vốn được bố trí trong kế hoạch hàng năm (gồm vốn cho chương trình, vốn điều lệ, vốn cấp bù chênh lệch lãi suất), dẫn tới bị động, chắp vá cho cả các cơ quan chức năng và NHCSXH. - Đối tượng áp dụng không phù hợp với tiêu chí đã được đề ra gây ra sự không công bằng giữa các địa phương (sinh viên có hoàn cảnh không khó khăn vẫn được vay vốn, người dân không thuộc diện khó khăn vẫn được hỗ trợ vay vốn), nguyên nhân là do thiếu sự minh bạch trong việc thẩm tra, xem xét đối tượng được thụ hưởng. - Như đã nói ở trên, nguồn vốn để cho vay xuất khẩu lao động còn hạn chế, mức cho vay còn thấp, chưa đáp ứng đủ chi phí cho một lao động đi làm việc ở các nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc... Bên cạnh đó, chưa có quy chế quản lý thu nhập của người lao động đã được vay vốn nên có hiện tượng chây ỳ khiến cho việc thu hồi khi nợ đến hạn. Các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của NHCSXH trên TTTC 4.1 Giải pháp - Bất cứ một tổ chức nào cũng vậy, muốn hoạt động tốt đầu tiên đòi hỏi một bộ máy làm việc tốt. Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động của NHCSXH, một trong những giải pháp đáng chú ý đầu tiên là hoàn thiện mô hình tổ chức của NH. Trước hết NHCSXH phải tập trung sắp xếp bộ máy tổ chức từ TW đến địa phương. Cần tuyển dụng và đào tạo thêm cán bộ có phẩm chất chính trị và năng lực nghề nghiệp tốt, yên tâm làm việc ở vùng xâu vùng xa… - Hoạt động của NHCSXH chủ yếu còn dựa vào vốn nhà nước hay phát hành trái phiếu có đảm bảo của nhà nước nên khả năng phát triển bị hạn chế vì nguồn lực NSNN hạn hẹp, do đó cần có một cơ chế huy động vốn thích hợp để đảm bảo sự phát triển ổn định, lâu dài cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của NHCSXH trên TTTC. - Nghiên cứu về lãi suất cho vay phù hợp hơn với điều kiện kinh tế hộ nghèo: từng bước giảm dần ưu đãi về lãi suất theo hướng nâng dần lãi suất cho vay, lãi suất cho vay có phân biệt nhóm đối tượng khách hàng; tiến tới đảm bảo bền vững về tài chính cho NHCSXH; - NHCSXH tập trung huy động, khai thác các nguồn lực tài chính không phải trả lãi hoặc lãi suất thấp, tranh thủ các nguồn tài trợ nhân đạo trong và ngoài nước để lập quỹ đầu tư cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách vay vốn ưu đãi, phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống, đặc biệt coi trọng thu hồi nợ đến hạn để tái đầu tư quay vòng vốn. - Đa dạng kênh tín dụng chính sách, góp phần phát triển thị trường tài chính ở nông thôn: Bảo đảm 100% vốn tín dụng chính sách của Chính phủ đến được với hộ nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác, tất cả hộ nghèo có nhu cầu vay vốn đều được hỗ trợ và tư vấn cách thức sử dụng vốn đầu tư vào sản xuất theo hướng chuyển mạnh sang đầu tư theo các chương trình dự án nhỏ, đơn giản, dễ tính toán, tạo điều kiện cho người nghèo tập dượt cách làm ăn, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. - Tiếp tục bổ sung và hoàn chỉnh chính sách, cơ chế quản lý, đặc biệt là cơ chế huy động nguồn vốn, cơ chế tín dụng và cơ chế tài chính. - Đổi mới cơ chế điều hành, cải tiến thủ tục và quy trình nghiệp vụ đơn giản, dễ làm, tránh gây phiền hà cho khách hàng. - Phát triển ngành tài chính vi mô theo hướng thị trường: không nên áp dụng chính sách lãi suất bao cấp. - Về vấn đề tín dụng đối với người nghèo, cần tăng cường công tác kiểm tra giám sát nguồn vốn thông qua sự chỉ đạo của cấp Ủy đảng, chính quyền các cấp, sự phối hợp giữa ngân hàng và các tổ chức đoàn thể, các chủ dự án thông qua việc cho vay, thu nợ, kiểm tra sử dụng vốn và hướng dẫn cách làm ăn đối với người nghèo nhằm hạn chế rủi ro tín dụng, thất thoát vốn. 4.2 Một số kiến nghị: Kiến nghị đối với nhà nước, NHTW: - Huy động vốn từ các NHTM Nhà nước: Hiện tại NHTW quy định bắt buộc các NHTM nhà nước phải đóng góp 2% vố

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng hoạt động của NH CSXHVN trên thị trường tài chính.doc
Tài liệu liên quan