Mục lục
trang
LỜI MỞ ĐẦU 2
I. Lý Luận Chung Về Hàng Hóa Công 3
1.Định Nghĩa 3
a. Hàng hóa công thuần túy (Pure Public Goods) 3
b.Hàng hóa công không thuần túy (Impure Public Goods) 4
2. Tính không hiệu quả của việc cung cấp tư nhân hàng hóa công 5
3.Hàng Hóa cá nhân được cung cấp công cộng 7
a. Khái niệm: 7
b. Các biện pháp định suất hàng hóa cá nhân được cung cấp công cộng 8
b.1 Định suất đồng đều 9
b.2 Xếp hàng 10
II. Nhiêu Lộc -Thị Nghè - Con kênh đen 10
1.Thực trạng 10
2. Nguyên nhân 12
3. Thất bại của thị trường 13
a. Về phía nhà nước 13
b. Về phía người dân 14
4. Giải pháp 14
KẾT LUẬN 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7159 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng kênh Nhiêu Lộc, nguyên nhân và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ụng hàng hóa công của người này không ảnh hưởng đáng kể đến việc sử dụng của n gười khác.. bởi vì chi phí tăng thêm để tiêu dùng hàng hóa tăng thêm là rất nhỏ, gần như bằng không. Chúng ta hãy xem xét việc các tàu biển sử dụng hải đăng. Khi ngọn hải đăng được xây dựng và đang hoạt động thì việc có bao nhiêu tàu biển sử dụng hải đăng hầu như không làm ảnh hưởng gì đến chi phí hoạt động của hải đăng. Lợi ích sử dụng của tàu biển nào đó từ ngọn hải đăng không vì thế mà giảm đi lợi ích tàu khác khi sử dụng hải đăng ấy.
Tuy nhiên, không phải bất kì một hàng hóa được gọi là hàng hóa công nào cũng đảm bảo một cách nghiêm ngặt các đặc điểm trên, mà tùy theo mức độ bảo đảm, mà người ta có thể chia thành hai loại hàng hóa công. Đó là hàng hóa công thuần túy và hàng hóa công không thuần túy.
a.Hàng hóa công thuần túy (Pure Public Goods)
Là loại hàng hóa công không thể định suất sử dụng và việc đinh suất sử dụng là không cần thiết.
Có nghĩa là mọi người đều có thể sử dụng hàng hóa.. mức độ sử dụng phụ thuộc vào nhu cầu của họ và các quy định chung. Trong nhiều trường hợp mức độ này không thể định suất hoặc định suất sẽ không có hiệu quả.
Như vậy hàng hóa công thuần túy là loại hàng hóa công phải đảm bảo được đặc điểm đầu tiên là hàng hóa thuộc quyền sỡ hữu công cộng, không thể loại trừ các cá nhân sử dụng chúng, bởi vì:
● Không thể đo lường mức độ sử dụng của từng người, do đó không thể buộc người tiêu dùng phải trả tiền trực tiếp khi sử dụng hàng hóa. Chi phí cho việc sản xuất hàng hóa công chỉ có thể bù đắp thông qua hệ thống thuế.
Ví dụ: Chương trình quốc phòng, hệ thống đường sá, hải đăng, không khí trong sạch… Đối với loại hàng hóa công này người ta hoàn toàn không thể dịnh suất hoặc loại trừ một cá nhân nào đó trong việc sử dụng hàng hóa. Điều đó là không thực hiện được. Dù có trả tiền hay không thì các cá nhân vẫn có thể được sử dụng hàng hóa.
● Việc định suất hoặc loại trừ các cá nhân sử dụng hàng hóa có khả năng dẫn đến tình trạng kém hiệu quả, thậm chí gây hậu quả nghiêm trọng.
Ví dụ: Chương trình phòng chống bệnh lây nhiễm; chương trình phòng, chữa cháy; chương trình xóa nạn mù chữ… Đối với các loại hàng hóa công này việc địn suất hoặc loại trừ một cá nhân nào đó trong việc sử dụng hàng hóa sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nhân khác, hiệu quả kinh tế - xã hội bị giảm đi. Giả sử có một cá nhân nào đó không đồng ý trả tiền cho việc phòng - chữa cháy. Tuy nhiên, đội phòng - chữa cháy cũng không thể bỏ rơi các cá nhân đó trong hỏa hoạn xảy ra. Bởi vì thiệt hại của cá nhân đó sẽ dẫn đến thiệt hại cho các cá nhân khác và ngược lại.
Đối với hàng hóa công thuần túy, đặc điểm thứ hai của hàng hóa công là việc sử dụng hàng hóa không ảnh hưởng đáng kể giữa các cá nhân sử dụng có thể được bảo đảm hoặc không bảo đảm.
Hàng hóa công thuần túy bảo đảm đặc điểm thứ hai, bao gồm: chương trình quốc phòng, chương trình y tế, chương trình phòng chữa cháy, hải đăng, chương trình phổ thông giáo dục…. Việc tăng thêm một cá nhân nào đó tiêu dùng hàng hóa trên không làm ảnh hưởng đáng kể đến lợi ích của các cá nhân khác.
Hàng hóa công thuần túy không bảo đảm đặc điểm thứ hai bao gồm: không khí trong sạch, sông ngòi ao hồ, đường sá có mật độ lưu thông cao. Những chất xả thải của một hãng có thể có tác động đến chất lượng không khí trong sạch; việc quá nhiều người đánh bắt cá trên sông ngòi ao hồ có thể làm ảnh hưởng đáng kể đến sản lượng đánh bắt lẫn nhau; trên một đoạn đường có mật độ lưu thông quá cao, việc tăng thêm một người đi trên đường sẽ có những cản trở lưu thông nào đó đối với những người dang lưu thông khác….
Hàng hóa công không thuần túy (Impure Public Goods)
Là hàng hóa công có thể định suất sử dụng, có thể loại trừ các cá nhân sử dụng nhưng phải chấp nhận một khoản tốn kém chi phí nhất định.
Như vậy hàng hóa công không thuần túy là loại hàng hóa công không đảm bảo được điều kiện đầu tiên nhưng bảo đảm được điều kiện thứ hai. Có nghĩa là hàng hóa công không thuần túy hoàn toàn có thể thuộc quyền sở hữu của một cá nhân nào đó và do đó nó có thể được đinh suất và loại trừ các cá nhân khác trong việc sử dụng. Tuy nhiên, việc tiêu dùng hàng hóa của người này cũng không làm ảnh hưởng đáng kể đến việc tiêu dùng của người khác.
Ví dụ: Đường cáp vô tuyến truyền hình, mạng lưới điện thoại, đường cao tốc, lớp học… bằng việc sử dụng con người hoặc những phương tiện kĩ thuật thiết bị, người ta hoàn toàn có thể kiểm soát, định suất hoặc loại trừ việc sử dụng các hàng hóa này. Việc tính xem có bao nhiêu thời gian cho việc xem một kênh truyền hình, có bao nhiêu cuộc gọi điện thoại trong tháng, có bao nhiêu lần đi trên đường cao tốc…của một cá nhân nào đó hoàn toàn có thể thực hiện. Điều đó lý giải vì sao trong lĩnh vực này có sự xuất hiện của các nhà sản xuất tư nhân và vì lẽ dĩ nhiên họ có quyền sỡ hữu cá nhân về hàng hóa mà họ sản xuất ra. Trong giới hạn nhất định, việc tiêu dùng hàng hóa của cá nhân này hầu như không ảnh hưởng đáng kể đến việc tiêu dùng của người khác. Việc một cá nhân sử dụng nhiều hay ít thời gian cho một kênh truyền hình nào đó hầu như không ảnh hưởng đáng kể đến cá nhân khác đang sử dụng kênh truyền hình đó; việc một cá nhân đi nhiều lần hay ít lần trên một đoạn đường cao tốc có mật độ giao thông thấp cũng chẳng ảnh hưởng gì đến một cá nhân khác cũng đang đi trên đường đó.
Chúng ta có thể phân biệt các loại hàng hóa công qua bảng 1.
2. Tính không hiệu quả của việc cung cấp tư nhân hàng hóa công:
Giả sử một hàng hóa công mà chi phí biên duyên của người tiêu thụ chúng tăng thêm là 0 (gần bằng 0) được cung cấp tư nhân, thì việc sử dụng hàng hóa đó sẽ buộc phải nộp tiền bởi một tư nhân nào đó. Tất nhiên, mọi trường hợp buộc phải nộp tiền khi sử dụng đều không khuyến khích các cá nhân sử dung. Như vậy, khi hàng hóa công được cung cấp tư nhân sẽ dẫn đến tình trạng sử dụng dưới mức cho phép của hàng hóa, một phần phúc lợi bị mất đi.
Việc buộc phải nộp tiền sử dụng hàng hóa công là hoàn toàn có thể thực hiện được trong nhiều trường hợp, nhưng điều đó là không cần thiết. Tổn thất phúc lợi do phải nộp tiền càng lớn khi khoản tiền nộp càng lớn. Lượng hàng hóa sẽ được sử dụng ít trong khi khả năng cung cấp vẫn còn rất lớn.
Giả sử trong trường hợp không thu tiền, số lượt qua cầu được sử dụng là QB = 5 (tương ứng với MU = 0) (Hình 2-1).
5
5
6
3
2
D≡ MU
Sc
CA
LW
CP
0
Q
P
QE
E
Hình 2.1
Thặng dư tiêu dùng của người sử dụng (Cosumer’s Surplus) là SC = dt (ODB) = ½ OD x O = 1/2x5x5 = 12,5.
Trong trường hợp có thu tiền, nếu lệ phí thu tiền cho mỗi lượt qua cầu cố định MC = AC = 2, lập tức số lượt qua cầu sẽ giảm tương ứng QE = 3. Thặng dư tiêu dùng trong trường hợp này là S’C = dt (PEDE) = 1/2 PED x OQE = 1/2 x 3 x 3 = 4,5.
So sánh hai trường hợp, thặng dư tiêu dùng trong trường hợp cung cấp tư nhân hàng hóa đã giảm đi một lượng là SC – S’C = dt (ODB) – dt (PEDE) = dt (OPEEB) = 12,5 – 4,5 = 8.
Bảng 1: BẢNG PHÂN LOẠI HÀNG HÓA CÔNG
Việc sử dụng hàng hóa không ảnh hưởng đáng kể đến người khác
Việc sử dụng hàng hóa có ảnh hưởng đáng kể đến cá nhân khác
(Quyền sỡ hữu công cộng về hàng hóa) không thể định suất hoặc loại trừ việc sử dụng hàng hóa.
(Hành hóa công thuần túy)
Chương trình quốc phòng.
Hoạt động của chính phủ.
Chương trình y tế quốc gia.
Chương trình phổ cập tiểu học…..
(Hàng hóa công thuần túy)
Sông ngòi, ao hồ.
Không khí sạch.
Đường sá có mật độ giao thông cao.
(Quyền sỡ hữu cá nhân về hàng hóa) có thể định suất hoặc loại trừ việc sử dụng hàng hóa.
(Hàng hóa công không thuần túy)
- Mạng lưới điện thoại.
Cáp truyền hình.
Đường cao tốc.
Cầu, phà.…
(Hàng hóa cá nhân)
bánh mì.
Quần áo.
Thực phẩm.
Rượu.…
Nếu chính phủ cung cấp công cộng hàng hóa thì mức độ tiêu dùng hàng hóa có khả năng tăng lên cho đến khi nào mà lợi ích biên từ việc tiêu dùng hàng hóa bằng không (MU = 0). Sản lượng hàng hóa tiêu dùng tương ứng là Qm. Lúc bấy giờ toàn bộ chi phí kiểm soát Ct = dt (PEPAAB) = 3 được tiết kiệm, đồng thời thặng dư tiêu dùng (Added Surplus – SA) cũng tăng lên, biểu thị bằng dt (BAE) = 1/2 QAQE x PAPE = 1/2 x 3 x 3 = 4,5 khi sản lượng hàng hóa tiêu dùng lên từ QA đến QE. Tuy nhiên lượng hàng hóa tiêu dùng không dừng lại ở QE mà tăng đến Qm do không phải trả tiền. Trong mức tiêu dùng này, sự tự nguyện trả tiền của mỗi người tiêu dùng tăng lên nhỏ hơn chi phí sản xuất hàng hóa. Mức tiêu dùng này được gọi là mức tiêu dùng hiệu quả, gây ra tổn thất phúc lợi do tiêu dùng quá mức (Welfare loss form excesive consumption - LE), được thể hiện bằng dt (EFQm) = 1/2 x OPE x QEQm = 1/2 x 2 x 2 = 2. Cũng cần phải lưu ý rằng đối với hàng hóa công, không phải lúc nào cũng xảy ra trường hợp sản lượng hàng hóa tiêu dùng cho đến khi lợi ích biên bằng 0 khi cung cấp công cộng. Do đó tổn thất do tiêu dùng quá mức không phải lúc nào cũng xảy ra tương ứng.
Cuối cùng, để quyết định xem hàng hóa có nên được cung cấp công cộng hay không? Chúng ta phải so sánh giũa số tiền tiết kiệm được trong chi phí kiểm soát cộng với lợi ích tăng thêm do tăng tiêu dùng từ QA đến QE với tổn thất do tiêu dùng quá mức hàng hóa công. Tổn thất từ việc định suất để tài trợ cho việc cung cấp hàng hóa với tổn thất do tiêu dùng quá mức.
Như vậy, rõ ràng là chi phí kiểm soát quá cao thì việc cung ứng công cộng tỏ ra hiệu quả hơn so với việc cung ứng bởi thị trường tư nhân thông qua các khoản tài trợ từ thuế.
3.Hàng Hóa cá nhân được cung cấp công cộng
a. Khái niệm:
Hàng hóa cá nhân được cung cấp công cộng là loại hàng hóa được cung cấp không mất tiền mà việc cung cấp cho các cá nhân tăng thêm tạo nên chi phí biên lớn.
Ví dụ : sách, phần mềm máy tính, dịch vụ y tế…………..
Khi hàng hóa cá nhân được cung cấp công cộng thì sẽ có sự tiêu dùng hàng hóa quá mức cần thiết.Người tiêu dung không phải trả tiền cho hàng hóa mà anh ta tiêu thụ.Vì vậy,họ tiêu dùng hàng hóa cho đến khi lợi ích biên mà họ nhận được từ hàng hóa đó bằng không. Mặc dù là trên thực tế có chi phí biên duyên thật sự liên quan đến việc cung cấp chúng.Tùy theo loại hàng hóa sử dụng mà độ dốc của đường cầu là cao hay thấp.
Đối với đường cào có độ dốc cao thì tổn thất do tiêu dùng quá mức là thấp hơn và ngược lại.Do vậy,việc hàng hóa cá nhân được cung cấp công cộng được xem xét tùy theo độ co dãn của đường cấu.
Nếu loại hàng hóa mà việc thỏa mãng nhu cầu của người tiêu dùng được thỏa mãn rất nhanh khi tăng sản lượng sử dụng thì độ dốc đường cầu đứng hơn.Lúc đó tổn thất phúc lợi do tiêu dùng quá mức sẽ nhỏ hơn.
Nếu loại hàng hóa mà việc thỏa mãng nhu cầu của người tiêu dùng được thỏa mãn chậm hơn khi tăng sản lượng sử dụng thì độ dốc đường cầu xiên hơn. Lúc đó tổn thất phúc lợi do tiêu dùng quá mức sẽ lớn hơn.
Nếu hàng hóa được cung cấp tư nhân, người tiêu dùng sẽ trả một khoảng tiền là MC khi tiêu dùng hàng hóa thì sản lượng hàng hóa tiêu dùng sẽ là QE (tương ứng với MU=MC).Đây là sản lượng tiêu dùng hiệu quả.
Nếu hàng hóa được chính phủ cung cấp công cộng thì sản lượng tiêu dùng lập tức tăng lên là QA.Lúc này lợi ích do tiêu dùng hàng hóa mang lại nhỏ hơn chi phí sản xuất ra hàng hóa làm xuất hiện tổn thất do tiêu dùng quá mức :
E
A
(D)
LE
QE
QA
P
Q
MC
0
LE = dt(EAQA)
LE = dt(EAQA) = 1/2 MC.(QA – QE) =1/2 MC.rQ
ηd = - rQ/rP * P/Q (hệ số co dãn của cầu)
=> ׀rQ׀ =rP/P .Q. ηd (mà rP = P)
=> ׀rQ׀ =Q. ηd
=> LE = 1/2 MC .Q. ηd
Trong trường hợp chi phí biên cố định MC = AC
LE =1/2.TC. ηd
ηd → 0 thì LE → 0.Việc cung cấp công cộng hàng hóa gây ra tổn thất nhỏ.Ví dụ :nước uống, lương thực, sách báo….
ηd → ∞ thì LE → ∞:Việc cung cấp công cộng gây ra tổn thất lớn.Ví dụ: Thời trang, vàng bạc, đá quý…
b.Các biện pháp định suất hàng hóa cá nhân được cung cấp công cộng
Bất kỳ một hàng hóa cá nhân nào được cung cấp công cộng đếu gây ra tổn thất kinh tế do việc tiêu dùng quá mức.Hệ thống biện pháp nhằm làm giảm sự tiêu dùng hàng hóa được gọi là hệ thống định suất.
b.1 Định suất đồng đều
Phương pháp này đưa ra một tiêu chuẩn định lượng nhất định đối với việc cung cấp hàng hóa cho người tiêu dùng và các tiêu chuẩn này là như nhau đối với tất cả mọi người mặc cho nhu cầu từng cá nhân đối với hàng hóa đó là khác nhau.
E*
QEB
Q*
QEA
EB
EA
DA
DB
A
B
Q
P
Tổn thất do tiêu dùng quá mức
Tổn thất do tiêu dùng quá ít
0
MC
Như vậy khi định suất đồng đều, chúng ta phải chấp nhận một điều bất lợi là sẽ không cho phép phù hợp với sự đa dạng trong nhu cầu và mong muốn các cá nhân như là trong thị trường tư nhân.
Khi có sự đa dạng về nhu cầu giữa các cá nhân phương pháp dịnh suất đồng đều sẽ đưa ra tiêu chuẩn định lượng thường ở mức trung bình.
Ý định trả tiền thêm của cá nhân này lớn hơn chi phí để sản suất tăng thêm về loại hàng hóa đó,nhưng vẫn không thể tiêu dùng thêm.Trong khi ý định trả tiền tăng thêm của cá nhân khác thấp hơn chi phí để sản xuất ra hàng hóa đó và vẫn cứ tiêu dùng tăng thêm mà vẫn không trả tiền cho sản lượng hàng hóa được tiêu thụ tăng lên.
Như vậy ,ở đây chính phủ cần phải đưa ra một tiêu chuẩn định lượng nào đó mà có thể dẫn đến tổng tổn thất là nhỏ nhất.Tiêu chuẩn định lượng đó thường được lấy trung bình giữa các lượng cầu của cá nhân trong xã hội.
b.2 Xếp hàng
Xếp hàng cũng là một phương pháp được chính phủ áp dụng trong định suất sử dụng hàng hóa cá nhân.Thay vì trả tiền cho các hàng hóa và dịch vụ được cung cấp, chính phủ buộc họ phải trả giá bằng thời gian chờ đợi.Những người có nhu cầu cấp bách hơn sẽ sãn sàn bỏ ra một thời gian chờ đợi lâu hơn.Như vậy xếp hàng tỏ ra có hiệu quả trong trường hợp này.
Ví dụ như: xếp hàng được hưởng trọ cấp thất nghiệp, xếp hàng chờ phương tiện đi lại nơi công cộng……..
Tuy nhiên, xếp hàng cũng không phải là một phương án hoàn hảo để thực hiện định suất sử dụng hàng hóa.Bởi vì xếp đòi hỏi chi phí một lượng thời gian mà không phải bất cứ ai có nhu cầu cấp bách về hàng hóa cũng có thể có được.
II. Nhiêu Lộc -Thị Nghè - Con kênh đen
1.Thực trạng
Thuyền bè di chuyển khó khăn trên dòng kênh
Ngoài các trục sông chính, thành phố (TP) Hồ Chí Minh còn có mạng lưới kênh rạch chằng chịt với trên 100 tuyến sông rạch với chiều dài gần 700km. Hệ thống sông Sài Gòn có các rạch Láng Thé, Bàu Nông, rạch Tra, Bến Cát, An Hạ, Tham Lương, Cầu Bông, Nhiêu Lộc - Thị Nghè, Bến Nghé, Lò Gốm, kênh Tẻ, kênh Đôi, Tàu Hủ. Ở phía nam TP, thuộc địa bàn Nhà Bè, Cần Giờ, mật độ kênh rạch dày đặc. Phía Củ Chi, Bình Chánh có các kênh cấp 3-4 của kênh Đông, kênh Tham Lương, kênh An Hạ, kênh Thái Mỹ, kênh Xáng … giúp cho việc tưới tiêu được thuận tiện. Riêng trong khu vực nội thành TP.Hồ Chí Minh hệ thống kênh rạch có tổng chiều dài khoảng 76 Km với 5 lưu vực chính bao gồm hệ thống các kênh: Nhiêu Lộc - Thị Nghè, Tân Hóa - Lò Gốm, Tàu Hủ - Kênh Đôi, kênh Tẻ - Bến Nghé, Tham Luơng - Bến Cát - Vàm Thuật. Các hệ thống kênh rạch này chảy qua nhiều khu vực và cung cấp nuớc tạo thành hệ thống giao thông thủy rất thuận lợi và cảnh quan thoáng đãng, thuận tiện cho giao thông đường thủy ở nội ô TP Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, hệ thống kênh rạch đang ngày dần “chết”, hiện nay có hàng chục ngàn hộ dân đang sinh sống ở nhiều khu dân cư được xây cất ngay bên cạnh các dòng kênh rạch như các khu dân cư dọc kênh Tân Hóa-Lò Gốm, các khu dân cư dọc kênh Đôi - kênh Tẻ (Quận 4, Quận 8)... Bên cạnh đó còn có nhiều bến đậu ghe thuyền, chợ trên sông buôn bán hàng hóa từ các tỉnh miền Tây lên, được hình thành ngay trên các kênh rạch như bến Bình Đông (kênh Đôi), bến Trần Xuân Sọan trên kênh Tẻ (Quận 4)... Từ họat động của các khu dân cư và các bến ghe thuyền ven kênh rạch đã trực tiếp thải rác sinh họat, rác buôn bán, thậm chí xác súc vật ... xuống các kênh rạch, đã gây ô nhiễm nhiều kênh rạch, thậm chí nhiều kênh rạch đã bị rác thải lấp đầy đến mức ghe thuyền không thể di chuyển trên các dòng kênh. Bên cạnh đó, nhiều cửa cống cũng bị tắc nghẽn vì rác hoặc gây ngập lụt khi mưa làm nuớc đen từ các kênh tràn vào các khu dân cư ven kênh rạch gây mùi hôi thối làm người dân không chịu nổi.
Trong tiến trình chỉnh trang đô thị, đô thị hóa ngoại thành, đã có một số lượng rất lớn các hộ dân sinh sống dọc 2 bên các con kênh, rạch bị giải tỏa. Đúng ra, số lượng rác thải đổ xuống đây phải giảm. Nhưng thực tế thì ngược lại.
Nước dòng kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè từ lâu đã chuyển thành màu đen
Theo thống kê, có 60 - 70% chiều dài các tuyến kênh rạch trong TP bị ô nhiễm nặng vì hằng ngày phải gánh chịu khoảng 40 tấn rác và 70.000 m3 nước thải. Theo Sở Tài nguyên - Môi trường, rác trên các tuyến kênh rạch trong TP chủ yếu là do các hộ dân và các ghe, thuyền buôn bán thải xuống. Theo quan sát của chúng tôi, rác tập trung nhiều ở những nơi có ghe, thuyền buôn bán như kênh Đôi (bến Bình Đông), kênh Tẻ... Người sống trên ghe, thuyền đã đành, ngay cả những hộ dân sống trên bờ, mặc dù đã có dịch vụ thu gom rác nhưng họ vẫn có thói quen thải xuống dòng kênh.
Nhiêu Lộc - Thị Nghè là dòng kênh quan trọng của TPHCM, là một trong ba tuyến sông nước tự nhiên cổ nhất (cùng với sông Sài Gòn và kênh Bến Nghé), ăn sâu vào lòng thành phố với nhiều chi lưu và đi qua nhiều quận: 1, 3, 10, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Tân Bình. Toàn tuyến kênh chính có chiều dài 9.470m, với lưu vực rộng 3.320 ha. Ảnh hưởng đến cuộc sống của 1,2 triệu người sống dọc dòng kênh. Trước sự ô nhiễm trầm trọng của dòng kênh, từ năm 2003 TPHCM đã bắt tay vào thực hiện dự án vệ sinh con kênh.
Tại kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè, ở thời điểm hai đợt nước lớn và nước ròng, nồng độ DO (ôxy hòa tan) đều tăng lên từ 0,4 đến 1,23 mg/lít nhưng vẫn không đạt tiêu chuẩn cho phép nước mặt loại B (DO ³ 2 mg/lít); nồng độ DO tại kênh Tham Lương- Vàm Thuật cũng không đạt tiêu chuẩn cho phép của nước mặt loại B. Đáng lo hơn, kết quả đo DO tại kênh Tân Hóa- Lò Gốm, kênh Tàu Hũ - Bến Nghé, kênh Đôi - Tẻ đều có nồng độ DO = 0 mg/lít (không có sinh vật nào có thể sống được). Chi cục BVMT TP cho biết “mức độ ô nhiễm ở các con kênh này ngày càng nặng và không có dấu hiệu được cải thiện”. Các chỉ số khác như nhu cầu ôxy sinh hóa (BOD), nhu cầu ôxy hóa học (COD) và ô nhiễm vi sinh (coliform) đều vượt xa tiêu chuẩn cho phép từ 1 đến 11 lần.
2. Nguyên nhân
Vì đâu những con kênh xanh xanh khi xưa nay đã đổi màu, đổi chất? Có lẽ ai cũng biết là do nước thải chưa qua xử lý từ những tiểu “Vedan” là các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp và cả nhà dân dọc hai bên kênh tha hồ xả thải trực tiếp xuống các con kênh một cách ngang nhiên, công khai bao nhiêu năm nay. Chính những tiểu “Vedan” đã tạo nên những sông “Thị Vải” chảy ngang dọc trong một đô thị thuộc loại bậc nhất của cả nước
Có nhà xây dựng trên đất ven kênh, nhưng đa số đều dựng cọc cơi nới, lấn chiếm ra lòng kênh và đương nhiên, toàn bộ rác, nước thải sinh hoạt hàng ngày của hàng trăm ngàn hộ dân sống hai bên kênh đều được thải trực tiếp xuống các con kênh.
Ngoài ra, trong nội thành còn khá nhiều cơ sở sản xuất, bệnh viện chưa có hệ thống xử lý nước thải và chất thải rắn. Theo số liệu mới nhất, toàn thành phố mới chỉ có 48 trong tổng số 139 bệnh viện - trung tâm y tế dự phòng có hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn, còn hàng trăm doanh nghiệp, cơ sở sản xuất gây ô nhiễm chưa di dời và chưa có hệ thống xử lý môi trường, tất cả vẫn đang hoạt động hàng ngày và công khai thải hàng ngàn mét khối nước ô nhiễm ra kênh rạch. Từ khi thành phố có chủ trương di dời các cơ sở ô nhiễm ở nội thành ra các khu công nghiệp tập trung và vùng phụ cận, nhiều cơ sở sản xuất gây ô nhiễm dạt ra ngoại thành để tiếp tục hoạt động. Rõ ràng chẳng khác nào di chuyển ô nhiễm từ nơi này đi nơi khác, nhưng trớ trêu hơn là các cơ sở gây ô nhiễm lại di dời lên đầu nguồn các sông chảy về thành phố như sông Sài Gòn.
Kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè là nơi hứng chịu tất cả chất thải con người xả ra từ các loại nước: sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, hoạt động y tế, giao thông vận tải, bãi rác... Đây là hệ quả tất yếu của quá trình đô thị hóa và gia tăng dân số quá nhanh trong khi cơ sở hạ tầng còn yếu kém, chưa hoàn thiện, cộng thêm ý thức tự giác bảo vệ môi trường của người dân chưa cao, cũng như cơ chế, chính sách quản lý môi trường nước của thành phố còn lỏng lẻo. Làm sao không đen đúa và hôi thối khi hằng ngày phải tiếp nhận toàn bộ nước thải sinh hoạt của gần mười triệu dân xả ra mà không qua bất cứ một trạm xử lý nước thải nào? Làm sao các dòng sông không bị ô nhiễm khi đây chính là đích đến của các dòng kênh "đen" và nơi hòa tan nước thải công nghiệp từ hàng nghìn cơ sở sản xuất chưa được xử lý đến nơi đến chốn?
3. Thất bại của thị trường
a. Về phía nhà nước:
●Cung cấp:
Trong những năm gần đây trước những tác động xấu về môi trường mà con kênh Nhiêu Lộc mang đến, chính quyền TP đã có những động thái, nỗ lực tích cực nhằm chỉnh trang hướng đến mục tiêu xây dựng mở rộng kênh Nhiêu Lộc xanh sạch, trong lành. Tuy nhiên, những cố gắng đó đã không đem đến kết quả như mong muốn, con kênh vẫn tiếp tục bị ô nhiễm nặng nề hơn, trong khi các giải pháp tỏ ra không hiệu quả. Nguyên nhân dẫn đến sự thất bại này do chưa có sự phối hợp đồng bộ, triệt để giữa các cơ quan chức năng. Ngoài ra, lối sống và phong tục xã hội của người dân, đặc biệt là những người dân sống dọc hai bên bờ kênh. Đa phần là những người dân nghèo, thu nhập thấp, trình độ nhận thức chưa cao. Dẫn đến khó khăn trong việc di giời, giải phóng mặt bằng, đây là điều kiện tiên quyết để hướng đến xây dựng con kênh trong lành. Bằng chứng của sự thất bại này thể hiện qua dự án cải tạo kênh Nhiêu Lộc đã được khởi trình vào năm 2003 đến nay công trình chưa có tiến triển ngoài việc thiết lập những hàng rào, lô cốt hai bên bờ kênh .
● Quản lý:
Đứng về góc độ của nhà quản lý, do việc quy định trách nhiệm kiểm tra xử lý chưa rõ ràng dẫn đến việc xử lý gặp nhiều vướng mắc. Bản thân lực lượng chức năng chỉ dừng lại ở việc kiểm tra các doanh nghiệp vi phạm, lập biên bản, sau đó đề xuất thanh tra môi trường của Sở Tài nguyên - Môi trường xử lý.
Một khó khăn nữa trong quá trình xử lý các đơn vị gây ô nhiễm là quy trình kiểm tra. Tất cả các cuộc kiểm tra doanh nghiệp đều phải lên lịch, thông báo cho doanh nghiệp, chính vì vậy doanh nghiệp có thể đối phó với đoàn kiểm tra.
Ngoài lý do về một số bất cập trong các quy định của pháp luật, có chăng tình trạng không ít bộ phận chức năng thiếu trách nhiệm hoặc đùn đẩy trách nhiệm, có hay không sự làm ngơ, bao che và đã có cơ quan, cá nhân nào bị xử lý vì thiếu trách nhiệm để môi trường bị tàn phá?
Còn với chính quyền địa phương họ đều cho rằng dự án này thuộc thẩm quyền của TP nên địa phương chưa được phân cấp quản lí hay xử phạt gì khi nhà thầu vi phạm. Tuy nhiên, không thể dửng dưng trước nỗi khổ của người dân và muốn cho dòng kênh được xanh- sạch - đẹp - an toàn, chính quyền từ phường đến quận đều phát động những chiến dịch tình nguyện làm sạch dòng kênh, ven kênh. Các nơi đều tuyên truyền vận động nhân dân ý thức hơn trong việc giữ gìn vệ sinh, không xả rác ra hai bờ kênh, dòng kênh nhưng lực bất tòng tâm.
b. Về phía người dân:
Vấn đề ô nhiễm từ rác thải sinh hoạt đang là vấn đề làm đau đầu các nhà chức năng. TP HCM là trung tâm đô thị lớn nhất cả nước, mỗi năm có hàng ngàn người vào nhập cư sinh sống, đa phần là những người dân nghèo họ có xu hướng dạt ra hai bên bờ kênh xây nhà ở tạm, thói quen xả thải tự do góp phần gia tăng mức độ ô nhiễm, đây là thực tế khó khăn đòi hỏi sự chung tay góp sức của các ban ngành địa phương
4. Giải pháp
4.1. Tổ chức lại hệ thống thu gom rác thải, xây dựng một trạm trung chuyển rác nhỏ. Hiện nay, rác thải từ các hộ gia đình đổ ra kênh nhiều quá mức và đó cũng là một trong những nguyên nhân chính gây nên ô nhiễm, vì vậy cần có hệ thống xử lý rác hợp lý với điều kiện của TP.
4.2. Xây dựng hệ thống cấp thoát nước hợp lý, giảm thiểu một cách tối đa sự xả thải nước sinh hoạt của người dân ra hai bên bờ kênh, tất cả các nước thải nên đưa đến các nhà máy xử lý nước thải tạo nên một chu trình khép kín giữa cung cấp, sử dụng, và xử lý nước.Hệ thống thoát nước tốt không chỉ đảm bảo cho sự lưu chuyển của nước sinh hoạt từ các hộ dân, doanh nghiệp đến nhà máy xử lý mà còn có thể giảm được áp lực quá tải nguồn nước của kênh Nhiêu Lộc đặc biệt là vào mùa mưa, đảm bảo được môi sinh, cảnh quan của con kênh nói riêng và của cả TP nói chung.
Biểu đồ thể hiện hoạt động thu gom rác
4.3. Đối với nhà nước phải có chính sách quản lý khoa học, cụ thể hợp lý, đảm bảo tính thống nhất, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng chuyên ngành trong việc cùng tham gia quản lý môi trường của con kênh.Có sự phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các địa phương mà con kênh đi qua, tránh sự đùn đẩy, đỗ lỗi trách nhiệm cho nhau khi có sự cố. Tứ trước đến nay các địa phương hay trong trình trạng thờ ơ, khi TP nhắc nhở thì làm việc cho có lệ thường bỏ mặc các chủ đầu tư tự bơi với dự án của mình, không có một sự quản lý chặt chẽ đảm bảo cho công trình đi đúng tiến độ.
Kênh Nhiêu Lộc thuộc loại hàng hóa công thuần túy đặc biệt, việc định suất sử dụng là hết sức khó khăn, chính quyền địa phương cần có động thái mạnh mẽ hơn không chỉ dừng lại khung từ hạn chế mà có thể là nghiêm cấm việc xả thải trực tiếp vào con kênh, trước tiên là đối với các doanh nghiệp ở hai bên bờ kênh phải có hệ thống xử lý chất thải riêng đúng tiêu chu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hàng hóa công - thực trang xử lý kênh nhiêu lộc - phân tích đánh giá.doc