MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG CHÍNH 3
I.cở sở lý luận và thực tiễn của cách mạng KH- CN ở nước ta hiện nay .
1.Sự cần thiết phải phát triển KH- CN
2.Nội dung KH-CN và hướng tác động của KH- CN ở Việt Nam 6
a. Nội dung KH-CN
b. Hướng tác động của KH-CN
3.Vai trò của khoa học công nghệ 8
a.Với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn và phát triển nông thôn .
b.Mối quan hệ giữa KH- CN với sản xuất vật chất
c.Khoa học – công nghệ đã nhanh chóng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp ở nước ta
4. Các nguồn lực để phát triển KH- CN 15
a. Chăm lo phát triển nguồn nhân lực KH- CN
b. Bảo đảm nguồn vốn cho sự phát triển KH- CN
II Thực trạng KH- CN Việt Nam. 18
1.Thành công
2.Hạn chế 21
3.Nguyên nhân 26
III Một số giải pháp . 29
C. KẾT LUẬN. 33
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2101 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng Khoa học - Công nghệ Việt Nam và một số giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g quá trình thực hiện CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn, nhưng phát triển công nghiệp, chế biến như thế nào lại là vấn đề bức xúc đang đòi hỏi nghiên cứu và làm rõ
- Gần đây, Nhà nước tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp, nông thôn. Hiện có rất nhiều vấn đề về kỹ thuật để bảo đảm hiệu quả vốn đầu tư của nhà nước chưa được giải quyết tốt. Do đó, nông nghiệp, nông thôn đang rất cần có sự tác động của lực lượng KH- CN
Tình hình trên khẳng định vai trò của KH- CN trong quá trình thực hiện CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay và đó cũng chính là những yêu cầu bức xúc đặt ra đối với các nhà khoa học vì sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, để huy động được các lực lượng KH- CN phục vụ nông nghiệp, nông thôn, chú ý các vấn đề về tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành và các chính sách tác động, trong đó cốt lõi là giải quyết hợp lý lợi ích cho người làm nghiên cứu, triển khai các thành tựu của KH-CNb.Mối quan hệ giữa KH- CN với sản xuất vật chất
Khoa học có nguồn gốc, bản chất, chức năng sứ mạng từ đời sống thực tiễn của xã hội, con người. Nó không phải là bản thân công cụ lao động và sức lao động, nhưng cũng không nằm ngoài thành tố quan trọng nhất là lực lượng sản xuất. Nó không thay thế, nhưng nó có thể làm thay đổi mạnh mẽ, nhanh chóng tính năng hiệu lực của công cụ lao động, sức lao động và do đó, phương thức con người tác động đến giới tự nhiên theo chiều hướng ngày càng tăng cường sức mạnh, vai trò và tự do của con người trước thiên nhiên. Tuy nhiên, với tính cách là sản phẩm, giá trị đã được sáng tạo ra, đã có sẵn, thì khoa học không còn là kết quả, mà lại đóng vai trò như một trong những nguyên nhân, động lực bên trong, trực tiếp thúc đẩy mạnh nhất sự phát triển lực lượng sản xuất
Trong điều kiện “ thông tin hoá “, “toàn cầu hoá” của đời sống xã hội và kinh tế thế giới ngày nay, nhiều thành tựu của cuộc cách mạng KH- CN có thể được chuyển giao tiếp nhận tương đối nhanh chóng, dễ dàng, tạo ra cơ hội khách quan thuận lợi cho sự phát triển đột biến, nhảy vọt và bứt phá về kinh tế ở những dân tộc, quốc gia, hay khu vực nhất định trong những thời điểm, thời kỳ hay giai đoạn nhất định. Nhưng để tranh thủ tân dụng và phát huy được hết tiềm năng của cơ hội bên ngoài này thì điều kiện tất yếu và tối thiểu là ở bên trong phải chuẩn bị xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và bồi dưỡng nhân tố con người lao động ở một nức độ tương ứng, thích đáng. Kinh nghiệm thế giới về việc giải quyết mối quan hệ “ con người- tư kiệu sản xuất- khoa học” một cách cân đối, hài hoà để tạo ra hiệu quả tổng hợp tối đa và tối ưu về kỹ thuật là khá toàn diện và phong phú
Việc xây dựng rõ vị trí tương quan vai trò và ảnh hưởng của KH- CN trong hệ thống các thành tố lực lượng sản xuất như trên đã đồng thời làm sáng tỏ giới hạn tác động của nó về mặt xã hội. Sự phát triển của khoa học không trực tiếp dẫn tới sự thay đổi quan hệ sản xuất và chế độ sở hữu. Trái lại, vai trò “ cách mạng hoá “ của khoa học đối với việc thúc đẩy sự tăng trưởng của lực lượng sản xuất lại bị chế ước bởi một quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng xã hội nhất định. Nói cách khác, tiềm năng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển của khoa học là vô tận, nhưng mức độ, giới hạn hiện thực hoá tiềm năng này lại phụ thuộc “ khuôn khổ “ của quan hệ sản xuất thống trị
Tuy nhiên, sự phát triển như vũ bão của cách mạng KH- CN hiện đại đang diễn ra từng ngày, từng giờ ở khắp mọi nơi trên thế giới đã có tác dụng cụ thể. Sức tiến công vũ bão của phong trào giải phong dân tộc, giai cấp tư sản đã chủ động ra sức đẩy mạnh cuộc cách mạng KH- KT, sử dụng các thành quả của nó để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế một cách thành công
Tuy không lạc quan đến mức vội vã và ngộ nhận mà cho rằng, cuộc cách mạng KH- CN hiện đại sẽ tự động và trực tiếp đưa ngay đến một xã hội thực sự là “ hậu TBCN “, nhưng chúng ta vẫn có thể ghi nhận những thành tựu lớn lao của cuộc cách mạng này và có đủ cơ sở để tin tưởng rằng, những thành tựu ấy trong hôm qua, hôm nay và ngày mai đều góp phần thiết thực thúc đẩy CNTB đi nhanh hơn tới điểm kết thúc không thể tránh khỏi.
c.Khoa học – công nghệ đã nhanh chóng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp ở nước ta
Việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là dự đoán thiên tài của C.Mác. Dựa trên cơ sở phân tích rõ vai trò của khoa học trong sự phát triển của công nghiêp, ông đã kết luận : Việc biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp là một quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Ngày nay dự đoán ấy đang trở thành hiện thực trong nhiều nước công nghiệp phát triển
Khoa học là một hệ thống tri thức được tích luỹ trong quá trình lịch sử và được thực tiễn kiểm nghiệm, phản ánh những quy kuật khách quan của thế giới bên ngoài cũng như hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có năng lực cải tạo thế giới
Như vậy, khoa học là” văn hoá biết”, còn sản xuất, kỹ thuật, công nghệ là “ văn hóa làm “. Từ “biết” đến “ làm “ có một khoảng nhất định nhưng không hề có bức tường nào ngăn cản tuyệt đối cả. Khoảng cách ấy có thể bị rút ngắn và được rút ngắn đến đâu là tuỳ thuộc ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của kỹ thuật, công nghệ và khoa học
Khoa học là kết quả nghiên cứu của quá trình hoạt động thực tiễn, nhưng đến lượt mình nó lại có vai trò to lớn tác động mạnh mẽ trở lại hoạt động sản xuất. Do đó con người hoàn toàn có khả năng biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Trong thực tế, sự phát triển của khoa học đã giúp con người tăng cường sức mạnh trong quá trình chinh phục tự nhiên, sử dụng có hiệu quả những sức mạnh của nó. Nếu không có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, làm sao con người có thể tạo ta năng lượng hạt nhân, phóng tàu vũ trụ lên thám hiểm các hành tinh, hay sản xuất ra máy tính điện tử và người máy công nghiệp thay thế nhiều hoạt động phức tạp của mình.
Khi còn ở trình độ thấp, khoa học tác động tới kỹ thuật và sản xuất còn rất yếu, nhưng đã phát triển đến trình độ cao như ngày nay thì nó tác động mạnh mẽ và trực tiếp tới sản xuất. Kỹ thuật và công nghệ là kết quả sự vận dụng những hiểu biết, tri thức khoa học của con người để sáng tạo, cải biến các công cụ, phương tiện phục vụ cho hoạt động sản xuất và các hoạt động khác của xã hội. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì dứt khoát phải gắn liền với kỹ thuật và công nghệ. Song như thế chưa đủ. Khoa học còn phải được người lai động tiếp thu vận dụng để nâng cao kỹ năng, kỹ xảo lao động, phát triển tư duy kinh tế nhanh nhạy, trau dồi đạo đức, lối sống, v..v, mới có thể trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và mạnh mẽ. Người lao động là chủ thể sử dụng các phương tiện kỹ thuật. Do đó họ không thể sử dụng được các phương tiện hiện đại để lao động tốt nếu có trình độ học vấn thấp và không được đào tạo, hay đào tạo kém.
Có thể nói, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp vì mấy lẽ sau:
1. Nền sản xuất hiện nay đang phát triển mạnh mẽ, ngày càng có tính chất quốc tế cao, biến động mau lẹ, phức tạp đang đặt ra nhiều vần đề, mà thiếu khoa học thì không thể giải quyết và phát triển nhanh chóng được. Đồng thời bản thân nền khoa học hiện đại cũng đã phát tiển đến mức có đủ điều kiện để có thể giải quyết được những vấn đề của sản xuất.
2.Ngày nay các máy móc kỹ thuật, công nghệ ngày càng hiện đại, tinh vi và có hàm lượng trí tuệ cao, thị trường mở rộng, phong phú, phức tạp và đầu biến động, hợp tác giao lưu nhưng cạnh tranh giữa các quốc gia cũng gay gắt. Muốn sản xuất đạt chất lượng và hiệu quả cao, người lao dộng không thể chỉ dừng lại ở những kinh nghiệm cảm tính, mà còn rất cần có nhiều tri thức khoa học, kỹ thuật và kinh tế. Mặt khác, khoa học phải được con người vận dụng vào hoạt đông thực tiễn sản xuất, hình thành nên những thao tác công nghệ, kỹ năng,… hợp thành năng lực sáng tạo mới trở thành một lực lượng vật chất.
3. Kỹ thuật công nghệ hiện đại phải có khoa học định hướng, dẫn đường và làm cơ sở lý thuyết mới có thể phát triển nhanh. Đồng thời các lý thuyết khoa học phải được vật chất hóa thành các phương tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại mới tác động trực tiếp tới lực lượng sản xuất.
4.Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật- công nghệ hiện đại, thời gian để một lý thuyết khoa học đi vào thực tế sản xuất, trực tiếp tạo tra sản phẩm hàng hoá đang ngày càng được rút ngắn
4. Các nguồn lực để phát triển KH- CN
a. Chăm lo phát triển nguồn nhân lực KH- CN
Nhân tố con người
Nhân tố con người, đã và đang là điều kiện quyết định trong sự nghiệp phát triển KH- CN của nước ta. Thành công của chúng ta là ở chỗ đã tạo ta một lực lượng cán bộ KH- CN ban đầu tương đối đông đảo. Mặt khác, chính lĩnh vực này cũng là nơi đang đặt ta những vấn đề bức thiết, mà việc giải quyết chúng, về thực chất, sẽ quyết định tính hiện thực của những bước tiếp theo
Đối với KH- CN vấn đề không chỉ là những nhà khoa học, các kỹ sư, kỹ thuật viên với nghề nghiệp chính thức của họ là làm công tác KH- CN, mà trước hết phải nói đến cả phong trào quần chúng nhân dân đang tham dự vào hoạt đông công nghệ trong sản xuất xã hội. Bất cứ hoạt động gì trong thực tiễn đời sống và sản xuất đều có quan hệ tới KH- CN.
Yếu tố quan trọng hàng đầu cho tiến bộ khoa và công nghệ là phải tạo ra một mội trường xã hội thuận lợi cho khoa học và công nghệ phát triển. ở một mức độ đáng kể, môi trường đó được tạo nên bởi nhận thức của con người ở mọi tầng lớp xã hội về vai trò của khoa học và công nghệ
Thấy được ý nghĩa của môi trường khoa học và công nghệ dân chúng là để từ đó cần chú trọng các biện pháp tác động về mọi mặt : giáo dục, đào tạo, tuyên truyền, phổ biến, kích thích kinh tế và các biện pháp khác
Đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học
Đào tạo là khâu đầu tiên của một chu trình hình thành và sử dụng nguồn nhân lực quốc gia về mặt khoa học và công nghệ. Nói đến đào tạo đối với nguồn nhân lực này trước hết phải kể đến toàn bộ hệ thống giáp dục các cấp, từ phổ thông cơ sở, phổ thông trung học, giáo dục chuyên nghiệp đến đại học và trên đại học.
Tuy nhiên, so với yêu cầu chuẩn bị cán bộ khoa học và công nghệ để đẩy mạnh công nghệ hoá trong giai đoạn sắp tới thì đội ngũ cán bộ ấy vẫn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Không thể vì một số khó khăn trước mắt mà hạn chế qui mô và tốc độ đào tạo. Con người luôn luôn là vốn quý nhất và đào tạo nhân lực lao động khoa học là vấn đề chiến lược trọng yếu mà bất cứ nước nào muốn phát triển thành công cũng đều phải hết sức quan tâm
Hệ thống giáo dục phổ thông, khâu đầu của đào tạo khoa học và công nghệ của chúng ta hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn. Và hệ thống giáo dục đại học và chuyên nghiệp còn nhỏ bé, chưa cân đối với các bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Về cơ bản, cách giáo dục của ta còn nặng về trang bị kiến thức, nặng về lý thuyết, nhẹ về bồi dưỡng kỹ năng thực hành, ít chú trọng phương pháp tự đào tạo trong hoạt động thực tiễn. Đó cũng là nhược điểm phổ biến của hệ thống giáo dục của nhiển nước xã hội chủ nghĩa mà một bộ phận quan trọng cán bộ khoa học và công nghệ của chúng ta đã được đào tạo qua .
Chúng ta không thể vừa lòng với tình trạng sử dụng cán bộ khoa học và công nghệ không bình thường như hiện nay và càng không thể định con đường phát triển của ngành đào tạo đại học,mà không tính đến bước phát mạnh mẽ của nước ta sau này. Dù có những khó khăn tạm thời ngày hôm nay, chúng ta vẫn phải ra sức mở rộng quy mô và tốc độ đào tạo nhân lực nhân lực khoa học và công nghệ cho những thập kỷ sắp tới. Đào tạo con người, như kinh nghiệm cho thấy không bao giờ là thừa đối với một nước đang phát triển như nước ta.
Vấn đề sử dụng cán bộ khoa học- công nghệ
Nếu người cán bộ được sử dụng tốt, trong quá trình làm việc sẽ diễn ra sự hiện đại hóa,đổi mới kiến thức do đào tạo trước đó, sẽ không có sự hao mòn vô hình và cán bộ khoa học, công nghệ đó sẽ trưởng thành, phát triển với đà tiến bộ chung.
Bức tranh sẽ hoàn toàn ngược lại khi nhân viên được đào tạo ra không được sử dụng kiến thức nghề nghiệp của mình một cách thoả đáng. Khối lượng kiến thức ban đầu sẽ không có cơ hội trau dồi và hiện đại hoá, không được bổ xung những nhân tố mới, giá trị sử dụng ngày càng kém đi. Nó sẽ bị sói mòn với tốc độ cực kỳ nhanh chóng.
Từ đây phải thường xuyên đánh giá lại năng lực đã có, không thể coi năng lượng khoa học- công nghệ là bất biến.Sử dụng là tiền đề và điều kiện tiên quyết cho phát triển nhân lực khoa học- công nghệ. Tiềm lực cán bộ chỉ có thể phát triển trong điều kiện được phát huy năng lực của mình một cách thoả đáng.
Không ít trường hợp sự đánh gía tiềm lực khoa học- công nghệ của đất nước ta hiện nay tỏ ra lạc quan, khi chỉ nhìn vào số lượng cơ cấu, trình độ đào tạo ban đầu của đội ngũ cán bộ. Chúng ta hầu như đã có đủ tất cả các ngành nghề với số lượng khá đông cho một nền kinh tế như nước ta. Song nhiều lĩnh vực chúng ta không thể huy động được lực lượng cần thiết, mặc dù, trên danh nghĩa, chuyên ngành nào đó đã có một đội ngũ cán bộ được đào tạo không nhỏ. Như vậy, năng lực thực tế kém xa năng lực trên danh nghĩa.
Như vậy nếu đào tạo không đi đôi với sử dụng và phát huy trình độ đã có thì không làm tăng thêm tiềm lực khoa học- công nghệ của đất nước, trái lại còn có thể giảm sút so với tích tụ ban đầu của nguồn nhân lực.
b. Bảo đảm nguồn vốn cho sự phát triển KH- CN
Bên cạnh nhân lực thì vốn là điều kiện quan trọng cho phát triển khoa học- công nghệ. Muốn cho sự nhiệp công nghiệp hoá, hiện đai hoá được tiến hành với tốc độ nhanh cần phải có cơ chế, chính sách và biện pháp huy động được nguồn vốn nhiều nhất, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả nhất.
Vấn đề huy động vốn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế nước ta. Song song với việc huy động các nguồn vốn, vấn đề sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn cũng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Yêu cầu bảo toàn vốn được thể hiện trước hết trong công tác tổ chức tài chính, có nghĩa là phải lựa chọn các phương án tối ưu trong tạo nguồn tài chính. Sự cần thiết của chế độ bảo toàn và phát triển vốn trước hết xuất phát từ yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới, phải hoạch toán kinh tế kinh doanh, xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phải đảm bảo tính hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, để quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và dản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao, để nền kinh tế phát triển bền vững, tất yếu phải bảo toàn và phát triển vốn, phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
II Thực trạng KH- CN Việt Nam
1.Thành công
KH- CN đã tập trung vào sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Đã áp dụng các công nghệ và phương pháp nghiên cứu tiên tiến : viễn thám, địa vật lý… vào công tác điều tra, thăm dò tài nguyên thiên nhiên. Nhiều kết quả nghiên cứu môi trường được đánh giá cao : nghiên cứu chính sánh và biện pháp bảo vệ sự đa dạng sinh học, cân bằng sinh thái và xử lý ô nhiễm nước, không khí ở các khu công nghiệp tập trung, các thành phố lớn… các biện pháp trồng rừng, chống suy thái đất, cải tạo đất…
KH- CN đã chú ý phát triển các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ cao. Nhiều thành tựu toán học, cơ học, vất lý của ta… được đánh giá cả ở nước ngoài. Công nghệ thông tin đã phát triển và mở rộng ứng dụng trong hệ thống ngân hàng, quản lý hành chính, sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, công nghệ chế tạo vật hiệu mới, công nghệ sinh học, tự động hoá… đã từng bước được quan tâm. Trong nông nghiệp. Nhờ áp dụng những tiến bộ KH- CN về giống cây trồng, quy trình kỹ thuật thâm canh và chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, chúng ta đã tuyển chọn, lai tạo hàng chục giống lúa mới, phù hợp các vùng sinh thái khác nhau, tạo mức tăng trưởng quan trọng. Nghiên cứu và tạo nhiều loại giống gia súc, gia cầm, có giá trị kinh tế cao, thúc đẩy chăn nuôi phát triển. Hơn 10 năm qua, năng suất lúa bình quân đã tăng hơn 2 lần. Tổng sản lượng lương thực 1998 đạt hơn 31 triệu tấn. Nhiều loại phân vi sinh, thuốc trừ sâu vi sinh, chất kích thích tăng trưởng thực vật … đã được sử dụng vào sản xuất, bảo vệ, phát triển các loại cây lương thực. Cơ cấu cây trồng đã được thay đổi cơ bản. Trước năm 1989, từ chỗ còn thiếu lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đéng thứ 3 thế giới, sau Thái Lan, Mỹ.
Về thuỷ sản, nhờ áp dụng kỹ thuật mới, nhiều năm nay, nuôi ba ba, sinh sản đã thành nghề giàu có ở nông thôn. Đặc biệt, kỹ thuật nuôi tôm đã được ứng dụng khắp nơi, tạo công ăn việc làm cho 350.000 ngư dân ven biển góp phần cải thiện và tăng kim ngạch xuất khẩu của ngành thuỷ sản, năm 1993 đạt 368 triệu USD, 1994 : 551,2 triệu, 1996 : 670 triệu, 1997 : 750 triệu và 2000 : 1000 triệu, tăng kơn 10 lần so với 1980. Việc nuôi trồng hải sản đã có sự đầu tư khoa học thích đáng trong việc tận dụng mặt nước ao, hồ, nước biển, nước lợ, kết hợp sản xuất nông nghiệp với nuôi tôm cá, phát triển nuôi trồng với giữ gìn môi trường, môi sinh, nuôi xen ghép, quảng canh, chọn giống tốt… toàn ngành hiện có 59 cơ sở đủ tiêu chuẩn sản xuất hàng xuất khẩu
Trong công nghiệp, hàng loạt kỹ thuật tiên tiến được áp dụng, tạo nhiều sản phẩm chất lượng cao : hàng may mặc, thuốc lá, đồ nhựa, cao su, đồ điện máy, điện tử… nhất là trong chế tạo máy móc, thiết bị phụ tùng và đổi mới công nghệ, kinh doanh sản xuất ô tô, xe máy, nhằm giải quyết nguyên vật kiệu, thiết bị thay thế. Trong công nghiệp đầu khí… đội ngũ cán bộ khoa học trong nước, đã có khả năng tiếp thu và làm chủ công nghệ mới. CN chế biến nông- lâm- hải sản cũng được đẩy mạnh một bước
Trong lĩnh vực năng lượng, nhiều công trình, nghiên cứu KH- CN đã tập trung vào công tác quy hoạch, sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng. Đổi mới CN xây dựng các nhà máy thuỷ điện, nhiệt điện, nghiên cứu các phương pháp giảm tổn thất năng lượng trong truyền tải điện và đổi mới CN. Hệ thống năng lượng đã phát triển nhanh chóng : 80% địa bàn xã ở khu vực nông thôn, hơn 50% hộ gia đình đã có điện sử dụng.
Trong giao thông vận tải, KH- CN đã góp phần quan trọng vào việc nâng cấp và phát triển mạng lưới, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường sông… đã xây dựng một số công trình quan trọng bằng việc áp dụng các CN mới : đóng tàu biển trọng tải 3.000 tấn, công trình hạ tầng cất cánh sân bay Tân Sơn Nhất, thắng thầu nhiều công trình giao thông ở Lào, Campuchia… với việc áp dụng CN mới trong gia cố nền móng và thi công mặt đường.
Trong viễn thông, đã xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại bằng việc áp dụng kỹ thuật số, thông tin vệ tinh, cáp sợi quang… đủ mạnh để hoà nhập mạng thông tin quốc tế và khu vực. Viễn thông nước ta hiện được xếp vào một trong những nước có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Bên cạnh mạng lưới hữu tuyến điện phát triển rộng khắp với các loại hình dịch vụ đa dạng, các hệ thống thông tin di động, máy sóng ngắn, cực ngắn, cũng phát triển mạnh, được các tổ chức kinh tế, cơ quan trong và ngoài nước sử dụng. Thị trường tin học nước ta những năm qua, có tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm khoảng 40-50%. Hiện các cơ quan Đảng, chính phủ đang sử dụng hàng vạn chiếc máy vi tính, trong đó lưu giữ nhiều thông tin, số liệu bí mật quan trọng. Liên quan đến kinh tế, quốc phòng và an ninh quốc gia. Trên đà ấy, việc sử dụng máy vi tính ở nước ta bắt đầu chuyển từ giai đoạn sử dụng riêng lẻ, sang hình thức sử dụng mạng cục bộ và mạng diện rộng
Trong y tế, hàng loạt các thành tựu chăm sóc sức khoẻ ban đầu, miễn dịch học, cắt giảm, tỷ lệ mắc các chứng bệnh nguy hiểm : lao, phong, sốt rét, ho gà, bại liệt, sởi… Kết hợp y học truyển thống với y học hiện đại, sản xuất nhiều mặt hàng thuốc mới. Nâng cao trình độ trong phòng và chuẩn đoán bệnh, ngăn ngừa bệnh truyền nhiễm : viêm gan, viêm não Nhật Bản…
Đến nay nước ta đã có đội ngũ cán bộ KH- CN hơn 800.000 người trình độ đại hoc, 8.775 phó tiến sĩ- tiến sĩ, gần 3.000 giáo sư- phó giáo sư, hơn 45.000 cán bộ nghiên cứu triển khai thuộc hơn 300 viện nghiên cứu- trung tâm và hơn 20.000 nhà khoa học vừa nghiên cứu, vừa giảng dạy trong 105 trường đại học, cao đẳng, hơn 80 cơ sở đào tạo sau đại học. Đây thực sự là một vốn quý cho sự nghiệp CNH, HĐH, được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau .
2.Hạn chế
a.Đầu tư cho khoa học công nghệ còn ở mức thấp
Việt Nam chưa có chính sách khoa học dông nghệ nhất quán thể hiện bằng hệ thống pháp luật như các quốc gia khác. Thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều cố gắng tạo nguồn tài chính để đầu tư cho khoa học và công nghệ nhưng chưa thể đáp ứng được nhu cầu phát triển. Theo số liệu thống kê từ năm 1965 đến nay, mức đầu tư tài chính từ ngân sách nhà nước dành cho hoạt đông nghiên cứu và triển khai chiếm từ 0,2% đến 0,82% thu nhập quốc dân. Trong 10 năm đổi mới, nước ta đạt được những thành tựu kinh tế đáng mừng, tổng kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ được nâng lên dần, nhưng do giá cả hàng hóa tăng cho nên giá trị thực tế của vốn đầu tư không tăng. Theo số liệu của Bộ KH- CN và môi trường thì đầu tư tài chính cho kha học công nghệ chưa vượt quá 1% ngân sách tiêu dùng hằng năm. Chi phí bình quân hằng năm cho một cán bộ khoa học công nghệ từ ngân sách nhà nước khoảng 1.000 USD, rất thấp so với mức bình quân của thế giới hiện là 55.324 USD và kếm các nước trong khu vực châu á . Mức đầu tư thấp nhưng lại phân tán và không ít trường hợp sử dụng lãng phí. Tuy Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, nghị quyết sáng suốt, nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ và coi trọng nó không kém gì các quốc gia khác trên thế giới, nhưng mức đầu tư cho khoa học vẫn rất thấp. Có 2 khả năng lý giải tình hình trên. Thứ nhất, nếu huy động gấp đôi vốn cho nghiên cứu khoa học và công nghệ thì việc nghiên cứu khoa học có mang lại hiệu quả thiết thực hay không trong khi trình độ quản lý khoa học hiện tại còn yếu kém. Thứ hai, ngân sách nhà nước trong nhiều năm thâm hụt, phải bảo đảm chi cho nhiều ngành cũng quan trọng, do đó mức đầu tư kinh phí cho khoa học nhiều khi lại phụ thuộc vào quan điểm của người lãnh đạo và các cơ quan quản lý của Nhà nước. Rốt cục quy định trong các văn bản và chỉ thị của Đảng dành 2% ngân sách hằng năm cho hoạt động khoa học và công nghệ vẫn không thực hiện được.
Với mức đầu tư như vậy nên chỗ làm việc chật chội, thiết bị lạc hậu, phòng thí nghiệm và cụng cụ thí nghiệm thiếu… cơ quan khoa học và công nghệ chỉ có thể hoạt động cầm chừng, chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt mà không thể tạo ra được thành quả khoa học có tầm chiến lược. Nếu không có các chính sách điều chỉnh, các cơ quan nghiên cứu khoa học chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng tồi tệ hơn, đội ngũ cán bộ nghiên cứu có thể bị chia xẻ và giã từ những công việc chuyên môn mà lâu nay họ tâm huyết.
b.Lực lượng cán bộ nòng cốt thiếu và già yếu
Kết quả điều tra 233 cơ quan khoa học công nghệ chủ yếu thuộc trung ương cho thấy : trong số 22.313 cán bộ công nhân viên thì số người có trình độ trên đại học là 2.509 người, cao đẳng và đại học 11.447 người và dưới cao đẳng là 8.357
Trong số các cán bộ có trình độ tiến sĩ và phó tiến sĩ chỉ có 15,1% là nữ, cũng trong số các cán bộ có trình độ học vấn cao này chỉ có 19,9% giữ các chức vụ lãnh đạo.
So với yêu cầu phát triển thì nhiều ngành còn thiếu lực lượng lao động có trình độ khoa học- kỹ thuật. Trước tình hình mở cửa nhiều công ty có vốn đầu tư nước ngoài, công ty tư nhân đã thu hút số lượng đáng kể lao động có trình độ chuyên môn cao từ các cơ quan khoa học công nghệ của nhà nước. ở tất cả các đối tượng lao động, số trường hợp ra đi nhiều hơn số trường hợp đến, đặc biệt với số cán bộ khoa học có học vị cao, số ra đi vượt hẳn số đến.
Tuổi trung bình của cán bộ khoa học có học vị, học hàm khá cao. Bình quân chung là 57,2 tuổi trong đó giáo sư là 59,5 tuổi và phó giáp sư là 56,4 tuổi. Số cán bộ cán học vị, học hàm cao ở tuổi 50 chỉ chiếm 12% trong khi đó tuổi từ 56 trở lên là 65,7%, riêng giáo sư chiếm tới 77,4% và phó giáo sư chiếm 62%. Khi phân chia theo lứa tuổi các cán bộ khoa học công nghệ có học hàm thì phần đông giáo sư có tuổi trên 60 và phó giáo sư có tuổi từ 56 đến 60. Khi một bộ phận lớn các cán bộ khoa học chủ chốt đang về già và sẽ không có khả năng làm việc thì đội ngũ cán bộ trẻ thay thế lại chưa được chuẩn bị bồi dưỡng đào tạo. Hẫng hụt đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đầu ngành sẽ diễn ra trong tương lai rất gần.
c.Sự phân bố lực lượng lao động khoa học không hợp lý
Có thể nói sự phân bố lực lượng lao động mất cân đối giữa các ngành, các khu vực giữa các vùng, giữa các thành phần kinh tế đã gây ra hậu quả xấu cho quá trình phát triển, càng làm sâu sắc thêm sự chênh lệch và phát triển giữa các vùng, các ngành.
Một điều mà nhiều người nhìn thấy rất rõ là trong nhiều năm, đặc biệt sau khi chuyển sang kinh tế thị trường thì các ngành khoa học cơ bản bị xem nhẹ và dường như đang bị bỏ rơi. Đó là một cách nhìn rất thiển cận và hậu quả của nó sau một số năm thấm dần sẽ gây tác hại nghiêm trọng. Khoa học công nghệ là một hệ thống, cũng như một nền kinh tế nếu không có hạ tầng cơ sở tốt thì không thể phát triển được. Trong khoa học nếu chỉ coi trọng những ngành ứng dụng có lãi nhanh mà coi nhẹ khoa học cơ bản rút cục sẽ đưa khoa học đến chỗ bế tắc và không có đủ năng lực tiếp thu làm chủ các lĩnh vực khoa học công nghệ mới.
d. Nhữn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CNXH (97).doc