Tiểu luận Thực trạng pháp luật quản lý thuế ở nước ta hiện nay – những vấn đề cần hoàn thiện

MỤC LỤC:

 

- A. PHẦN MỞ BÀI.1

- B. PHẦN THÂN BÀI.1

- I. Khái niệm về pháp luật quản lý thuế.1

- II. Thực trạng pháp luật quản lý thuế hiện nay ở Việt Nam.2

- 1.Thực trạng pháp luật quản lý thuế.2

- 1.1. Nội dung cơ bản của Luật quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành luật.2

- 1.2. Những vướng mắc còn tồn tại trong pháp luật quản lý thuế.7

- 2. Thực trạng thi hành pháp luật quản lý thuế.10

- 2.1. Hiệu quả đạt được trong công tác thi hành pháp luật thuế nói chung và pháp luật quản lý thuế nói riêng.10

- 2.2. Những vướng mắc còn tồn tại trong công tác thi hành pháp luật thuế nói chung và pháp luật quản lý thuế nói riêng.11

- 3. Nguyên nhân của thực trạng.12

- 3.1. Nguyên nhân khách quan.12

- 3.2 Nguyên nhân chủ quan.12

- III. Những vấn đề cần hoàn thiện trong pháp luật quản lý thuế ở nước ta.13

- 1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế.13

- 1.1. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản luật thuế nói chung và các văn bản luật quản lý thuế nói riêng.13

- 1.2. Nhà nước cần quy định và phát triển mạnh hệ thống thanh toán qua ngân hàng.13

- 1.3. Nhà nước cần có biện pháp quản lý hóa đơn chứng từ hiệu quả.14

- 1.4. Chuyển đổi về cơ cấu tổ chức và áp dụng phương pháp “ phân đoạn thị trường” đối tượng nộp thuế và quản lý theo mức độ tuân thủ.14

- 2. Giải pháp đảm bảo cho quá trình thực thi pháp luật quản lý thuế nói riêng và pháp luật thuế nói chung.15

- 2.1 Nâng cao vai trò của cán bộ quản lý thuế.15

- 2.2. Nâng cao sự tuân thủ tự nguyện của đối tượng nộp thuế.15

- 2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế.15

- 2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, máy móc, trang thiết bị, công nghệ hiện đại phục vụ cho công tác quản lý thuế.16

- C. PHẦN KẾT LUẬN.16

 

 

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10596 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng pháp luật quản lý thuế ở nước ta hiện nay – những vấn đề cần hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p hành các Luật thuế. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm vận động nhân dân nghiêm chỉnh thi hành pháp luật thuế, giám sát việc thi hành pháp luật thuế của người nộp thuế và cơ quan quản lý thuế, phê pháp các hành vi vi phạm pháp luật thuế. Cơ quan thông tin, báo chí có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật thuế và phản ánh, phê phán các hành vi vi phạm pháp luật thuế. Các cơ quan quản lý nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ quản lý ngành có trách nhiệm cung cấp thông tin liên quan đến người nộp thuế cho cơ quan quản lý thuế hoặc phối hợp với cơ quan quản lý thuế thực hiện cưỡng chế thuế, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật thuế. Hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn do Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thành lập theo đề nghị của Chi cục trưởng Chi cục thuế. Hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn có nhiệm vụ tư vấn cho cơ quan thuế về mức thuế của các hộ, gia đình, cá nhân kinh doanh trên địa bản. Thứ ba: Cải cách thủ tục hành chính thuế được quy định đơn giản, rõ ràng, minh bạch, nhằm nâng cao trách nhiệm, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người nộp thuế, tạo điều kiện cho người nộp thuế chấp hành tốt pháp luật thuế. a. Quy định rõ, công khai, minh bạch các loại giấy tờ của từng loại hồ sơ thuế: hồ sơ khai thuế, hồ sơ miễn giảm thuế, hồ sơ hoàn thuế....để người nộp thuế tự xác định được trách nhiệm của mình. Đồng thời ban hành hệ thống mẫu biểu áp dụng chung cho người nộp thuế và cơ quan thuế. Trong đó có hướng dẫn cụ thể cách khai các chỉ tiêu trong mẫu biểu để người nộp thuế dễ thực hiện. b. Thống nhất thời hạn nộp hồ sơ khai thuế phù hợp với từng loại thuế khai theo tháng, theo năm, theo từng lần phát sinh để người nộp thuế dễ thực hiện. Sửa đổi một số thời hạn, phương thức khai thuế của một số loại thuế cho phù hợp với thực tế hơn. c. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của người nộp thuế tỏng quá trình tuân thủ pháp luật thuế. Khi phát hiện hồ sơ khai thuế có sai sót, người nộp thuế được khai bổ sung khai thuế và không bị phạt vi phạm hành chính về các lỗi sai sót này. d. Bổ sung hình thức khai thuế điện tử: Chương trình tiếp nhận hồ sơ khai thuế điện tử sẽ tự động kiểm tra, soát xét tính đầy đủ của thông tin khai trong hồ sơ thuế. Người nộp thuế cũng sẽ biết ngay được các lỗi kê khai để hoàn chỉnh, bổ sung hồ sơ kịp thời theo quy định, tránh được các lỗi sai sót không cần thiết. e. Thời hạn nộp thuế được quy định gắn với thời hạn khai thuế vừa bảo đảm phù hợp với tính chất của từng loại thuế, vừa tạo thuận lợi cho người nộp thuế dễ nhớ, dễ thực hiện và không phải làm các thủ tục hành chính thuế rải rác nhiều ngày trong tháng, giảm phiền hà cho người nộp thuế. Ví dụ: Ngày 20 hàng tháng là ngày cuối của thời hạn nộp thuế của loại khai thuế theo tháng ( thuế GTGT tháng, thuế thu nhập cá nhân, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tài nguyên,...) f. Đối với số tiền thuế nộp thừa hoặc số tiền thuế thuộc diện được hoàn, người nộp thuế được quyền lực chọn hoặc yêu cầu cơ quan thuế làm thủ tục hoàn trả ngay, hoặc để thanh toán cho số thuế phải nộp của lần nộp thuế tiếp theo. Thứ tư: Các quy định của Luật quản lý thuế phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nước: a. Luật quản lý thuế mở rộng các hình thức giao dịch làm thủ tục về thuế như khai thuế điện tử, nộp tiền thuế theo hình thức chuyển khoản.....tạo điều kiện cho người nộp thuế có thể hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước mọi lúc, mọi nơi, không bị bó hẹn trong giới hạn giờ làm việc hành chính. b. Về kiểm tra, thanh tra thuế dựa trên cơ sở phân tích thông tin về người nộp thuế để lựa chọn đối tuowgj kiểm tra thuế, thanh tra thuế. c. Luật quy định khung pháp lý cho hoạt động của tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế.... Tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế phải là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ có điều kiện, được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp, có ngành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế. Tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế được thay mặt người nộp thuế thực hiện một trong các thủ tục: Khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, lập hồ sơ đề nghị số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm, số tiền thuế được hoàn theo quy định của luật này và pháp luật khác có liên quan. Tổ chức này chịu trách nhiệm với người nộp thuế theo nội dung thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ theo pháp luật dân sự. Tuy nhiên, trong quá trình cung cấp dịch vụ, tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế chịu trách nhiệm về việc làm sai của mình với người nộp thuế theo quy định của Pháp luật dân sự; người nộp thuế vẫn phải chịu trách nhiệm với Nhà nước về nghĩa vụ thuế của người nộp thuế. Quy định này thể hiện sự cam kết của Việt Nam trong việc mở cửa thị trường kinh doanh dịch vụ khi vào WTO, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở kinh doanh, người nộp thuế thực hiện tốt nghĩa vụ thuế. d. Luật quản lý thuế quy định về trách nhiệm của cơ quan thuế với người nộp thuế. Nếu cơ quan thuế làm chậm các thủ tục, dẫn đến thiệt hại cho người nộp thuế thì phải đền bù thiệt hại cho người nộp thuế. Luật quản lý thuế quy định và đặt ra yêu cầu hiện đại hóa toàn diện công tác quản lý thuế, cả về phương pháp quản lý, thủ tục hành chính, bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ và cả công nghệ quản lý. 1.2. Những vướng mắc còn tồn tại trong pháp luật quản lý thuế: Bên cạnh những kết quả đã đạt được, pháp luật quản lý thuế ở nước ta còn tồn tại một số hạn chế như sau: Thứ nhất, về nguyên tắc thiết kế của Luật quản lý thuế, những người thiết kế đã sử dụng kết hợp đan xen nhiều nguyên tắc hưng chủ yếu theo nguyên tắc trình tự thời gian, trong khi đó bộ máy quản lý thuế được thiết kế theo mô hình chức năng. Cơ cấu gồm các bộ phận, mỗi bộ phận thực hiện một chức năng quản lý thuế cơ bản đối với hầu hết các loại thuế và đối với tất cả các đối tượng nộp thuế theo thẩm quyền được phân công. Thực tế cho thấy, việc tổ chức bộ máy ngành thhuees theo chức năng dẫn đến bất kỳ bộ phận nào cũng có thể yêu cầu doanh nghiệp trực tiếp làm việc, giải trình khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế của mình. Song khi cần hướng dẫn để được giải quyết các nghiệp vụ cụ thể phát sinh, doanh nghiệp không biết liên hệ đến bộ phận nào và thuộc thẩm quyền trách nhiệm của ai. Vì vậy, doanh nghiệp gặp những khó khăn nhất định trong quá trình thực thi pháp luật thuế theo luật. Thứ hai, Luật quản lý thuế hiện nay không chỉ quy định những vấn đề chung về tổ chức thực hiện các luật thuế mà còn quy định cả những nội dung tổ chức thực hiện riêng của từng luật thuế, và điều đáng nói là số lượng của các điều luật quy định các nội dung quản lý đặc thù chiếm tỷ lệ khá nhiều, đặc biệt là các quy định quản lý về thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Vì vậy, giả sử rằng, khi các luật về chính sách thuế được tiếp tục ban hành và đó là xu thế tất yêú, đương nhiên kéo theo sự thay đổi, bổ sung của Luật quản lý thuế và theo đó, vô hình trung, đã phá vỡ tính ổn định của Luật quản lý thuế. Có lẽ giải pháp tốt nhất, các vấn đề quản lý có tính chất đặc thù của từng sắc thuế nên quy định trong các luật về chính sách thuế. Điều này sẽ có hiệu ứng tốt hơn trong việc đảm bảo thực hiện các chinh sách thuế của các chủ thể có nghĩa vụ thuế. Thứ ba, Luật quản lý thuế vẫn còn đảm nhiệm sứ mệnh “ giải quyết tình thế” cho các luật về chính sách thuế. Chẳng hạn tại Điều 65, Luật quản lý thuế quy định các trường hợp được xóa nợ tiền thuế, tiền phạt “1. Doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các khoản thanh toán theo quy định của pháp luật phá sản mà không còn tài sản để nộp tiền thuế, tiền phạt; 2. Cá nhâ được pháp luật coi là đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự mà không có tài sản để nộp tiền thuế, tiền phạt còn nợ” thuộc phạm vi điều chỉnh của luật về chính sách thuế. Thứ tư, Luật quản lý thuế còn có các nội dung “lấn sân” phạm vi điều chỉnh của luật về chính sách thuế. Chẳng hạn khoản 3, khoản 4 Điều 42 của Luật quản lý thuế quy định thời hạn nộp thuế xuất khẩu nhập khẩu: “a) Đối với hàng hóa xuất khẩu là ba mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan; b) Đối với hàng hóa nhập khẩu là hàng tiêu dùng phải nộp xong thuế trước khi nhận hàng; trường hợp có bảo lãnh về số tiền thuế phải nộp thì thời hạn nộp thuế không quá ba mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải qua; c) Đối với hàng hóa nhập khẩu là vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu là hai trăm bảy lăm ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan; trường hợp đặc biệt thì thời hạn nộp thuế có thể dài hơn hai trăm bảy lăm ngày phủ hợp với chu kỳ sản xuất, dự trữ vật tư, nguyên liệu của doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ; d) Đối với hàng hóa kinh doanh theo phương thức tạm nhập, tái xuất hoặc tạm xuất, tái nhập là mười lăm ngày, kể từ ngày hết thời hạn tạm nhập, tái xuất hoặc tạm xuất, tái nhập; đ) Đối với hàng hóa khác là ba mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan; 4. Để được áp dụng thời hạn nộp thuế theo quy định tại các điểm c, d, và đ khoản 3 Điều này, người nộp thuế phải đáp ứng một trong hai điều kiện sau đây: a) Có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong thời gian ít nhất là ba trăm sáu lăm ngày tính đến ngày đăng ký tờ khai hải quan mà không có hành vi gian lận thương mại, trốn thuế, không nợ tiền thuế quá hạn, tiền phạt, chấp hành tốt chế độ báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật; b) Được tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Trường hợp không đáp ứng một trong hai điều kiệ trên thì người nộp thuế phải nộp thuế trước khi nhận hàng” Thứ năm, thiếu các quy định về nguyên tắc tổ chức hoạt động và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý thuế và nguyên tắc xử lý mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý thuế, ddwacj biệt trong xu thế quản lý thuế hiện đại. Chẳng hạn, hiện nay tổ chức của Hải quan Việt Nam có 33 Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, và trong xu thế hiện đại hóa, Hải quan sẽ tổ chức theo mô hình Hải quan Vùng trong khi đó tổ chức của cơ quan thuế gồm 64 Cục thuế tỉnh, thành phố đặc khu trực thuộc trung ương và cấp tương đương, tức được tổ chức theo đơn vị hành chính quốc gia. Vậy sẽ xử lý mối quan hệ giữa các Cục hải quan với các Cục thuế ở góc độ quản lý thuế như thế nanof trong việc quản lý các đối tượng nộp thuế, đặc biệt là vấn đề cung cấp thông tin và xử lý thông tin - một nội dung hết sức quan trọng khi áp dụng các phương pháp và nguyên tắc quản lý thuế hiện đại. Thứ sáu, kỹ thuật lập pháp, lập quy trong Luật quản lý thuế chưa đảm bảo tính nhất quán, có điều luật quy định ở dạng nguyên tắc, có điều luật quy định quá chi tiết, cụ thể mà đáng lẽ ra những nội dung đó thuộc phạm vi điều chỉnh của các văn bản dưới luật; mặt khác còn khá nhiều quy định trong Luật quản lý thuế được chuyển dịch mang tính chất cơ học từ các luật thuế, Luật hải quan,vì vậy ít nhiều không tránh khỏi tính chất khiên cưỡng Chẳng hạn, điểm a, điểm b, điểm c, khoản 4 Điều 32, Luật quản lý thuế quy định về thời nộp hồ sơ khai thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu: “4. Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thì thời hạn nộp hồ sơ khai thuế là thời hạn nộp tờ khai hải quan: a) Đối với hàng hóa nhập khẩu thì hồ sơ khai thuế được nộp trước ngày hàng hóa đến cửa khẩu hoặc trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày hàng hóa đến cửa khẩu. Tờ khai hải quan có giá trị làm thủ tục về thuế trong thời hạ mười lăm ngày, kể từ ngày đăng ký; b) Đối với hàng hóa xuất khẩu thì hồ sơ khai thuế được nộp chậm nhất là tám giờ trước khi phương tiện vận tải xuất cảnh. Tờ khai hải quan có giá trị làm thủ tục về thuế trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày đăng ký; c) Đối với hành lý mang theo của người nhập cảnh, xuất cảnh, thuộc diện chịu thuế xuất nhập khẩu, nhập khẩu, tờ khai hải quan được nộp ngay khi phương tiện vận tải đến cửa khẩu nhập hoặc trước khi tổ chức vận tải chấm dứt việc làm thủ tục nhận hành khách lên phương tiện vận tải xuất cảnh. Hành lý gửi trước hoặc sau chuyến đi của người nhập cảnh được thực hiện theo quy định tại điểm a khoản này” Trong trường hợp này, quy định “ tờ khai hải quan có giá trị làm thủ tục về thuế trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày đăng ký” không chỉ rõ làm thủ tục về thuế là thủ tục đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế hay giải quyết toán thuế ? Thứ bảy, Luật quản lý thuế chưa xác định rõ cơ chế bảo đảm thực hiện, vì vậy phần nào đã hạn chế tính khả thi của các quy định trong Luật quản lý thuế và chính điều này chưa thực sự khuyến khích tính tuân thủ pháp luật của chủ thể có nghĩa vụ thuế. Chẳng hạn, tại Điều 53, Luật quản lý thuế quy định trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trong trường hợp xuất cảnh “ Người Việt Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài trước khi xuất cảnh từ Việt Nam phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế. Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh có trách nhiệm dừng việc xuất cảnh của cá nhân trong trường hợp chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế theo thông báo của cơ quan quản lý thuế”. Thứ tám, một số quy định của pháp luật quản lý thuế còn thiếu sót, hạn chế, gây khó khăn cho quá trình thực hiện, như là: Trong việc khai báo thuế, Luật quản lý thuế đã quy định về khai bổ sung, nhưng các văn bản hướng dẫn chưa quy định rõ phạm vi khai bổ sung nên gây khó khăn cho quá trình thực hiện đối với các trường hợp được miễn kiểm tra sau đó doanh nghiệp tới khai bổ sung. Bởi trên thực tế doanh nghiệp khai bổ sung sau 60 ngày kể từ ngày đăng ký tờ khai nên cơ quan hải quan chưa cho khai bổ sung. Về nộp thuế, Luật quản lý thuế quy định nhiều thời hạn nộp thuế khác nhau theo các tiêu chí khác nhau tủy theo mục đích nhập khẩu hàng hóa. Quy định này tuy một mặt đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế trong điều kiện các doanh nghiệp còn thiếu vốn nhưng quá phức tạp, cơ quan hải quan phải phân bố nguồn lực lớn cho công tác đôn đốc, cưỡng chế thu nợ thuế, nợ phạt.... Chưa có quy định cụ thể thời hạn nộp thuế hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng miễn, xét miến thuế. Ví dụ: Hàng nhập khẩu phục vụ an ninh, quốc phòng, nghiên cứu khoa học, giáo dục đào tạo. Hoặc chưa quy định cụ thể thời hạn nộp thuế của hàng không có hợp đồng mua bán, hàng cư dân biên giới, khai bổ sung. Cơ chế chính sách về ân hạn, gia hạn và trình tự thủ tục cưỡng chế thuế quy định tại Luật quản lý thuế và các văn bản liên quan hiện nay không khả thi, còn bất cập. Ngoài ra, một số quy định trong Luật quản lý thuế chưa đảm bảo tính tương thích với các luật thủ tục khác trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, dân sự, thương mại, hình sự..... 2. Thực trạng thi hành pháp luật quản lý thuế: 2.1. Hiệu quả đạt được trong công tác thi hành pháp luật thuế nói chung và pháp luật quản lý thuế nói riêng: Luật quản lý thuế được triển khai đồng bộ và thống nhất về các mặt: từ ban hành chính sách, cơ chế, tổ chức bộ máy quản lý thuế tới hướng dẫn thi hành từ cơ sở. Nguyên nhân đạt được kết quả này là do: Một là: Sự chỉ đạo của Chính phủ, phối hợp chặt chẽ của các ngành, các địa phương trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật và tuyên truyển, tổ chức triển khai thực hiện luật. Hai là: Bộ tài chính đã chỉ đạo các cơ quan chức năng của Bộ như Tổng cục thuế, Tổng cục hải quan phối hợp cùng các Vụ đã chuẩn bị tốt và có biện pháp, giải pháp cụ thể trong việc triển khai thực hiện. a) Kết quả từ phía cơ quan quản lý thuế: Công tác quản lý thuế đã hình thành một tổ chức thống nhất trong cả nước và từng bước được củng cố, tăng cường cả về tổ chức bộ máy quản lý thuế và quy trình nghiệp vụ quản lý. Công tác chỉ đạo điều hành phối hợp thực hiện nhiệm vụ chung của lãnh đạo Tổng cục thuế, các Cục thuế các Phòng, Chi cục thuế có tính trọng tâm, trọng điểm, tập trung chủ yếu vào 4 chức năng chính là tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế. Công tác tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế được đặt lên hàng đầu. Trong nỗ lực nâng cao hiệu quả hỗ trợ người nộp thuế, cơ quan thuế các cấp đã biên soạn tài liệu, kịp thời cung cấp thông tin, xây dựng các tài liệu hướng dẫn thực hiện luật quản lý thuế. b) Kết quả từ phía người nộp thuế: Thứ nhất, ý thức tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế ngày càng được nâng cao, vai trò của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác quản lý thuế từng bước được tăng cường. Nhiều tổ chức, cá nhân hoàn thành tốt nghĩa vụ nộp thuế đã được cơ quan Nhà nước tôn vinh. Ý thức chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế như: đăng ký, kê khai thuế được chủ động hơn, tờ khai thuế nộp kịp thời và nội dung ghi trong tờ khai cũng cụ thể rõ ràng hơn, nhờ vậy tỉ lệ tờ khai chưa nộp, quá hạn và lỗi giảm dần. Thứ hai, đánh giá theo chức năng quản lý thuế đã thực hiện đạt được kết quả tốt: Một là: Việc thực hiện lập và gửi tờ khai thuế hàng kỳ của doanh nghiệp và người nộp thuế đã tốt hơn. Số lỗi, sai sót trong kê khai thống nhất cho doanh nghiệp. Việc cung ứng chương trình kê khai thuế vừa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong kê khai kiểm tra giảm sai sót, đối với ngành thuế công tác kiểm tra, nhập dữ liệu trên tờ khai cũng nhanh hơn nhiều so với nhập từng chỉ tiêu và không bị nhầm, sót. - Hai là: Công tác quản lý và giải quyết hoàn thuế được kịp thời hơn, đúng hơn do phân loại rõ các đối tượng, trường hợp kiểm tra trước hoàn sau và trường hợp hoàn trước kiểm tra sau. Hồ sơ và hệ thống thông tin để kiểm tra hoàn thuế đầy đủ và rõ ràng hơn. Cơ quan thuế cập nhập nắm và phân tích được chi tiết số thuế hoàn, cơ cấu hoàn cho đầu tư, xuất khẩu và các trường hợp khác. - Ba là: Công tác quản lý nợ đọng thuế. Trên cơ sở những điều chỉnh của Luật quản lý, ngành thuế đã xây dựng bộ máy quản lý nợ từ trung ương đến địa phương đã phân tích được nguyên nhân nợ và tình trạng nợ trong toàn ngành, phân tích được cơ cấu, loại nợ từ đó triển khai các biệ pháp đồng bộ để xử lý dứt điểm nợ cũ, giảm thiểu nợ mới, áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thu hồi nợ. - Bốn là: Kết quả kiểm tra, thanh tra ngăn chặn, phát hiện kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật thuế, truy thu ngân sách nhà nước số thuế ẩn lậu hàng trăm tỷ đồng. Công tác kiểm tra, thanh tra được thực hiện đúng quy chế, quy trình đã góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế của doanh nghiệp cũng như ý thức trách nhiệm của cán bộ thuế trong thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra. Thứ ba, đánh giá về kết quả thu ngân sách nhà nước, có thể nói đây là một chỉ tiêu, một thước đo cơ bản, quan trọng để đánh giá về chính sách thuế, công tác quản lý thuế và ý thức tuân thủ pháp luật của người nộp thuế. Thứ tư, về cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa công tác quản lý thuế và hải quan. Đây vừa là mục tiêu, vừa là đòi hỏi khách quan của công tác quản lý thuế và hải qua trong giai đoạn hiện nay. 2.2. Những vướng mắc còn tồn tại trong công tác thi hành pháp luật thuế nói chung và pháp luật quản lý thuế nói riêng: Bên cạnh những kết quả khả quan như trên, công tác quản lý thuế còn tồn tại một số hạn chế như sau: a) Hạn chế trong cong tác của cơ quan thuế, cán bộ thuế. Thứ nhất, một bộ phận cán bộ thuế, đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở chưa được đào tạo lại hoặc chưa nắm bắt kịp về kiến thức quản lý thuế mới nên bỡ ngỡ trong quá trình thực hiện. Cách nghĩ, cách làm của một số công chức, viên chức chưa theo kịp tiến độ mới, nên hiệu quả của công việc đạt được chưa như mong muốn. Thứ hai, theo quy định của luật quản lý thuế, chỉ có các chức danh, chuyên viên chính, kiểm soát viên chính của cơ quan quản lý thuế mới được thực hiện thanh tra thuế. Tuy nhiên hiện nay các địa phương, số lượng chuyên viên chính, kiểm soát vieenn chính còn ít nên chưa đủ lực lượng để tổ chức các đoàn thanh tra thuế. Thứ ba, thực hiện quản lý thuế theo mô hình chức năng là phù hợp với xu hướng phát triển, trong đó kết quả chất lượng quản lý là kết quả của hệ thống, hoạt động của khâu trước phục vụ công việc tiếp theo của khâu sau. Không chỉ thế, các quy trình, quy chế này phải thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện trong quá trình phối hợp thực hiện công việc cụ thể ở mỗi chức năng mới, từ đó chuẩn hóa các quy trình theo hướng ứng dụng triệt để công nghệ thông tin. Nhưng hiện nay, cơ chế để nối kết các chức năng còn nhiều bất cập, thậm chí không ăn khớp. Công việc này triển khai còn chậm so với tiến độ triển khai Luật quản lý thuế, gây khó khăn không nhỏ cho công tác khai thác, phân tích, sử dụng thông tin phục vụ quản lý thuế. Thứ tư, Hiện nay việc thực hiện cải cách hành chính thuế ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn do cơ sở hạ tầng còn thấp, thiếu đồng bộ. Mô hình thuế hiện tại mới tự động hóa một số khâu tính thuế và chưa thống nhất qui trình xử lý thông tin các loại thuế. b) Hạn chế xuất phát từ phía người nộp thuế: Thứ nhất, đối với người nộp thuế, đặc biệt là các hộ kinh doanh do kiến thức hạn chế, lại phân tán rộng trên địa bản khác nhau nên việc tiếp cận theo phương thức quản lý thuế mới bước đầu còn nhiều khó khăn. Thứ hai, các doanh nghiệp trong cơ chế tự do kinh doanh nhưng chưa được chuẩn bị tốt về mặt kỉ cương pháp luật trong việc thực hiện các chính sách của nhà nước và pháp luật, chưa chấp hành đúng những quy định của pháp luật về chế độ quản lý sử dụng hóa đơn chứng từ, hạch toán sổ sách kế toán, việc thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến...... Thứ ba, Tình trạng vi phạm pháp luật về thuế ( trốn thuế, gian lận thuế, thành lập doanh nghiệp để buôn bán hóa đơn, bỏ trốn khỏi địa điểm kinh doanh, sử dụng hóa đơn giả...), ngày càng nghiêm trọng, phức tạp, xuất hiện ở hầu hết các địa phương với mức độ khác nhau, nghiêm trọng nhất là lập doanh nghiệp chỉ để....mua bán hóa đơn bất hợp pháp. 3. Nguyên nhân của thực trạng: 3.1. Nguyên nhân khách quan: Thứ nhất, Pháp luật quản lý thuế ở nước ta mới được đưa vào thực tiễn áp dụng cách đây không lâu, quá trình kiểm tra thử nghiệm còn ngắn. Hơn nữa kinh nghiệm lập pháp trong lĩnh vực thuế nói chung và lĩnh vực quản lý thuế còn nhiều hạn chế. Thứ hai, nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng là nền kinh tế thị trường có sự định hướng của Nhà nước – một mô hình kinh tế mà trước đây chưa có tiền lệ, đòi hỏi chúng ta phải tự tìm tòi sáng tạo. Tình hình kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn, cung một lúc Nhà nước phải tập trung đối phó và giải quyết nhiều vấn đề, vừa phát triển kinh tế vừa thu hút đầu tư lại vừa phải giải quyết những tồn tại của xã hội. Thứ ba, pháp luật thuế nói chung và pháp luật quản lý thuế nói riêng hình thành và phát triển, bị chi phối rất lớn bởi yếu tố khách quan từ bên ngoài. Trong cơ chế thị trường ở nước ta, pháp luật thuế nằm trong giai đoạn hình thành, liên tục được sửa đổi, bổ sung đề phù hợp với sự phát triển của kinh tế. Cùng với nó, các điều kiện về cơ sở vật chất và trình độ đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế. Vì thế, pháp luật quản lý thuế không có một điểm tựa, chuẩn mực để hình thành và phát triển. Thứ tư, nền kinh tế đất nước còn non trẻ, đang trong quá trình xây dựng, cơ chế, chính sách ban hành còn thiếu tính ổn định, tính chiến lược lâu dài. Quan điểm chỉ đạo chung ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực là vừa làm vừa rút kinh nghiệm, sau đó sẽ hoàn thiện. Vì thế, nhiều khi chính sách ban hành ra là nhằm giải quyết một số nhiệm vụ trước mắt, sau khi giải quyết xong thì chính sách đó lại trở nên lạc hậu, không còn phủ hợp nữa. 3.2. Nguyên nhân chủ quan: Thứ nhất, do còn hạn chế trong nhậ thức, do ít hiểu biết về kinh tế thị trường và do chủ quan, nóng vội, chưa có cái nhìn toàn diện, khách quan và có chiến lược trong hoạch định chính sách, xây dựng và ban hành pháp luật thuế. Pháp luật quản lý thuế mới được ban hành, còn nhiều thiếu sót, hạn chế, một số quy định chưa thay đổi theo những chính sách thuế mới được ban hành. Thứ hai, do chúng ta đặt lên vai chính sách thuế quá nhiều mục tiêu làm cho pháp luật thuế càng phức tạp và thường xuyên phải thay đổi để đảm bảo được các mục tiêu phải gánh vác. Thứ ba, do kỹ thuật và trình độ lập pháp của nước ta còn yếu, nên luật quản lý thuế cần nhiều văn bản quy định chi tiết thi hành và hướng dẫn thực hiện. Bên cạnh đó, việc giải thích, hướng dẫn tại các văn bản dưới luật, mặc dù đã tham khảo ý kiến của các đối tượng thực hiện nhưng thực tiễn hoạt động sản xuất, kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi rất phong phú và đa dạng, luôn phát sinh những yêu cầu mới là chính sách không theo kịp. III. Những vấn đề cần hoàn thiện trong pháp luật quản lý thuế ở nước ta: 1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế: 1.1. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản luật thuế nói chung và các văn bản luật quản lý thuế nói riêng: Tiếp tục cải cách, hoàn thiện các sắc luật về thuế theo hướng: Một là: Hệ thống thuế phải bao quát hết các nguồn thu và tăng thu, xác định, lựa chọn đúng mục thiêu chưa thuế là kích thích điều tiết kinh tế, tăng thu cho ngân sách nhà nước và đảm bảo chính sách thuế bình đẳng đối với các thành phần kinh tế và các tâng lớp dân cư. Hai là: Chính sách thuế phải được đơn giản hóa cả về mặt thuế suất thủ tục thu nộp, đồng thời phải đảm bảo tác dụng tích cực trong phân phối, điều tiết thu nhập hợp lý, tạo ra cân bằng xã hội. Ba là: Bảo đảm chính sách thuế trong một thời gian dài, tạo điều kiện mở rộng khả năng kiểm soát người nộp thuế, người thu thuế và cơ quan quản lý thuế. Bốn là: Th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng pháp luật quản lý thuế ở nước ta hiện nay, và những vấn đề cần hoàn thiện.doc
Tài liệu liên quan