MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 3
1.1. Khái quát du lịch sinh thái. 3
1.2. Những yêu cầu cơ bản để phát triển du lịch sinh thái 6
1.3. Tính tất yếu phát triển du lịch sinh thái tại Việt Nam 10
CHƯƠNG 2: THỰC TẾ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở VIỆT NAM 12
2.1 Điều kiện để phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam 12
2.2 Một số điểm du lịch sinh thái điển hình ở Việt Nam 14
2.3 Tiềm năng và thực trạng du lịch sinh thái của các khu bảo tồn thiên nhiên Việt nam. 19
2.3.1 Tiềm năng du lịch sinh thái của các khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam. 19
2.3.2 Thực trạng du lịch sinh thái của các khu bảo tồn thiên nhiên Việt nam. 23
2.3.3 Nguyên nhân của thực trạng. 25
2.4 Tiềm năng và thực trạng du lịch sinh thái biển - đảo của Việt Nam. 26
2.4.1 Tiềm năng du lịch sinh thái biển - đảo. 26
2.4.2 Thực trạng du lịch sinh thái biển - đảo ở Việt Nam. 31
2.4.3 Nguyên nhân của thực trạng 35
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở VIỆT NAM 36
3.1. Phát triển du lịch sinh thái cả về lượng và chất trên cơ sở phát triển bền vững. 36
3.2 Các chiến lược du lịch sinh thái quốc gia 42
PHẦN KẾT LUẬN 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO 47
MỤC LỤC 48
54 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 6882 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, bảo tồn nhằm góp phần tích cực, có hiệu quả vào sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước.
Tính ra trong cả nước từ miền xuôi đến miền ngược có đến hàng ngàn tục lễ đậm đà tính chất truyền thông xã hội - nhân văn biểu hiện rõ tình cảm quý giá đối với các nhân vật anh hùng, liệt sỹ có công. Nhưng nói chung đều ghi nhớ những đóng góp vô giá của các tiền nhân lịch sử và là những di sản văn hoá phi vật thể mà 54 dân tộc anh em VIệt Nam rất tự hào.
Các lễ hội đều thường diễn ra vào các tháng đầu năm âm lịch; có lễ hội kéo dài qua nhiều ngày. Nếu đúng dịp diễn ra lễ hội mà có các đoàn khách trong các tour du lịch thì quả là cơ hội hiếm có đối với họ. Các du khách có thể hoà nhịp cùng lễ hội, những giọng hát chân thành, êm dịu, cùng tham gia các diệu múa v.v... là chắc chắn khi về họ mãi nhớ những buổi hội ngộ lắng đọng đối với họ.
2.3 Tiềm năng và thực trạng du lịch sinh thái của các khu bảo tồn thiên nhiên Việt nam.
2.3.1 Tiềm năng du lịch sinh thái của các khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam.
Việt nam nằm trong vùng châu Á, nơi mà tổ chức du lịch thế giới và nhiều nhà chuyên môn du lịch có tên tuổi đã khẳng dịnh và dự báo rằng sẽ là nơi thu hút nhiều khách du lịch quốc tế nhất và cũng có nhiều người đủ điều kiện đi du lịch nhất (500 triệu người) ở thế kỷ 21.
Từ những, phân tích, đánh giá dự báo đó cho ta một kết luận nguồn khách du lịch sinh thái quốc tế gắn với thị trường du lịch Việt nam là khách quan và là một tiềm năng.
Hiện nay, số khách du lịch trong nước đã tăng lên tới 8,5 triệu lượt khách.Trong đó có bao nhiêu khách thuộc đối tượng du lịch sinh thái? Chưa có số liệu tin cậy bởi khái niệm du lịch sinh thái chưa được quan tâm dẫn đến trong thống kê du lịch chưa được thể hiện. Căn cứ vào số khách đến với các vùng thiên nhiên với động cơ hưởng thụ vào sản phẩm thiên nhiên như: các vườn quốc gia và bảo tồn thiên nhiên , vãn cảnh sông nước , hành trình xuyên Việt, thám không vùng vịnh hay đến các khu tự nhiên Hạ Long, Tam Cốc – Bích Động… thì tỷ lệ cũng không nhỏ có thể chiếm tới 30 – 40% tổng số khách hàng năm. Tuy nhiên với khái niệm đầy đủ về du lịch sinh thái vế thứ hai là ý thức, trách nhiêm với việc bảo tồn phát triển du lịch sinh thái thì chưa có những tư duy, giáo dục tốt về vấn đề này. Với tốc độ đô thị hoá như hiện nay chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao và cải thiện…Chắc chắn nhu cầu đi du lịch sinh thái sẽ tăng lên đáng kể, không còn giới hạn ở con số 4 – 5 triệu người/năm mà có thể lên đến hàng chục triệu người mỗi năm trong các năm tới đây.
Xét về tiềm năng du lịch sinh thái của nước ta với vị trí nằm tiếp giáp với biển Đông với chiều dài trên 3200km bờ biển có nhiều, vịnh đảo và những quần thể núi đá vôi, sông, hồ, thác nước, hang động, suối nước nóng, và 3/4 diện tích núi rừng với độ dốc cao …đã tạo cho Việt nam rất phong phú và đa dạng về khí hậu và địa hình địa mạo nên rất giàu về tiềm năng sinh thái cũng như sự đa dạng sinh thái .
Theo đánh giá của quốc tế, nước ta đứng thứ 16 về sự phong phú, tính đa dạng sinh học, đại diện cho vùng Đông nam Á về sự độc đáo và giàu có về thành phần loài. Mặc dù bị tổn thất về diện tích do nhiều nguyên nhân trong hai thập kỷ qua, nhưng hệ thực vật vẫn còn khá phong phú về chủng loại.
Tiềm năng và thế mạnh về sự đa dạng sinh thái của Việt nam hấp dẫn du lịch ở các đạc trưng sinh thái dưới đây:
- Các vùng núi đá vôi với nhiều dạng hang động như là một kho tàng cảnh quan thiên nhiên huyền bí mà trong đó Vịnh Hạ long – di sản thiên nhiên thế giới , động Phong Nha – Kẻ Bàng làm ví dụ .
- Nhiều đảo, vịnh và bãi tắm biển đẹp với các sinh thái dộng vật, thực vật biển phong phú và đa dạng.
- Hệ thống vườn bảo tồn thiên nhiên đa dạng và phong phú về hệ động thực vật rừng xen kẽ với nhiều dân tộc có người sinh sống có những bản sắc văn hoá hết sức đa dạng.
- Các vùng sinh thái nông nghiệp đặc trưng nền văn minh lúa nước nhiều sông lạch, miệt vườn.
Ở Việt nam hệ thống rừng đặc dụng được hiểu là hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên có diện tích 2.119.509 ha, bao gồm 11 vườn quốc gia , 64 khu dự trữ thiên nhiên , 32 khu di tích lịch sử, văn hoá, môi trường. Sau khi rà soát lại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã lập một danh mục 101 khu rừng đặc dụng đề nghị chính phủ phê duyệt và phân thành 4 loại : Vườn quốc gia (11 vườn), Khu dự trữ thiên nhiên (53 khu), Khu bảo tồn loài và sinh cảnh (16 khu) và Khu bảo vệ cảnh quan (21 khu). Theo danh sách này thì còn thiếu nhiều khu bảo tồn thiên nhiên vùng biển và vùng đất ngập nước. Tuy nhiên cho đến nay Chính Phủ vẫn chưa phê duyệt.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, các khu bảo tồn thiên nhiên Việt nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng rất thuân lợi cho việc phát triển du lịch sinh thái.
Các nhà sinh thái học thường nhắc đến sự phong phú về các kiểu hệ sinh thái và thực bì ở Việt nam. Theo thống kê, Việt nam có tới 26 kiểu thực bì tập trung thành 6 nhóm, trải từ rừng kín thường xanh, rừng rụng lá và bán rụng lá, rừng thường xanh hở, rừng thường xanh cây bụi đến các thảm cỏ. Ngoài ra Việt nam còn có 5 nhóm hệ sinh thái thuỷ vực, trải từ nước ngọt đứng, nước ngọt chảy, nước ngọt ngầm, nước lợ và nước mặn. Hệ sinh thái đất ngập nước cũng dang được các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu. Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Xuân Thuỷ, Vườn Quốc Gia Tràm chim ở đồng bằng sông Cửu Long là những địa điểm ngắm chim nước lí tưởng.
Không chỉ phong phú trên phương diện hệ sinh thái, thiên nhiên còn ban cho Việt nam sự đa dạng sinh học cao về các loài đặc hữu, có khoảng 1200 loài là loài đặc hữu trong tổng số 12000 loài thực vật ở Việt Nam(theo ước tính). Trong số 15.575 loài động vật có 172 loài đặc hữu trong số đó có 14 loài là thú. Đặc biệt sự kiện gây chú ý nhất trong giới bảo tồn thế giới là phát hiện 3 loài thú lớn ở Việt nam: Sao la(1992), Mang lớn(1994), Mang Trường Sơn (1997). Khoảng 58% số loài thực vật và 73% số loài động vật quý hiếm, đặc hữu của Việt nam tập trung trong các khu bảo tồn thiên nhiên. Tuy nhiên các loài thú lớn của Việt nam khó tiếp cận hơn các loài của Châu phi, và đôi khi sự tiếp cận là không thể chấp nhận được vì các loài vật này bản thân chúng đang có nguy cơ tuyệt chủng cần được bảo vệ và chúng sống trong các hệ sinh thái tương đối mong manh. Tình trạng này có thể được khắc phục nếu có quy hoạch thích hợp. Chẳng hạn như khoanh vùng bảo vệ, xây dựng chòi quan sát từ xa có thể xem được một số con tê giác còn sống sót tại vườn quốc gia Cát Tiên mà đầu tháng 5/1999 các nhà nghiên cứu đã chụp được những bức ảnh đầu tiên bằng máy ảnh tự động. Khi có các nguồn tài chính có thể xây dựng các khu nuôi thú bán hoang dã. Hiện tại ở Vườn quốc gia Cúc Phương đã xây dựng được một khu nuôi các loài linh trưởng rộng khoảng 2 ha. Du khách có thể tham quan và ngắm nhìn một số loài khỉ vượn vào lúc cho ăn. Vườn quốc gia Ba Vì cũng đang xây dựng khu nuôi thú và chim bán hoang dã ở khu vực có độ cao 400 mét so với mực nước biển.
Sự đặc hữu về động thực vật là một hấp dẫn đối với du lịch sinh thái mang tính chất nghiên cứu khoa học. Những nhà khoa học có thể đến đây để tìm hiểu những loài động thực vật chỉ có ở Việt nam.
Sự phong phú về hệ sinh thái ở Việt nam sở dĩ có được là nhờ sự đa dạng về địa hình của đất nước. Sự đa dạng về địa hình kết hợp với sự phong phú về hệ sinh thái đã cho ra đời những sản phẩm, địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Hấp dẫn nhất phải kể đến rừng mưa nhiệt đới Vườn quốc gia Cúc Phương, Cát Bà, Ba Bể, Bạch Mã và khu bảo tồn thiên nhiên Phong Nha – Kẻ Bàng, Hoàng Liên Sơn.
Nhiều vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên phân bố dọc theo 3260 km bờ biển với hệ động thực vật còn khá phong phú và nhiều bãi tắm lý tưởng như Trà Cổ, Bãi Cháy, Đồ Sơn, Xuân Thuỷ, Sầm Sơn, Lăng Sô, Bình Châu, Phước Bửu. Các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên vùng đảo và quần đảo cũng là địa điểm du lịch sinh thái nổi tiếng. Nơi đây ngoài hệ sinh thái trên cạn còn có hệ sinh thái trên biển với các rạn san hô có thành phần loài phong phú. Chúng ta có thể tổ chức du lịch lặn, xem hệ động thực vật biển phong phú trong các rạn san hô ở khu vực đảo Cát Bà, Côn Đảo, Phú Quốc và các đảo thuộc khu vực Nha Trang, Khánh Hoà.
Ba phần tư diện tích lãnh thổ của Việt nam là đồi núi với nhiều đỉnh núi cao có khí hậu mát mẻ rất thuận lợi cho du lịch nghỉ dưỡng mùa hè. Những địa điểm nổi tiếng như Sa Pa, Tam Đảo, Ba Vì, Bạch Mã, Bà Nà - Núi Chúa đã được người Pháp khai thác cách đây nửa thế kỷ và hiện còn lưu giữ nhiều tàn tích của các biệt thự cũ. Từ các trung tâm nghỉ dưỡng nay ta có thể thiết kế các đường mòn thiên nhiên với cự ly từ 2 –3 km để kết hợp du lịch sinh thái với các loại hình du lịch khác. Sông, suối, thác, ghềnh, hồ tự nhiên và nhân tạo trong các khu bảo tồn thiên nhiên ở các vùng núi rất thuận lợi cho việc phát triển loại hình du lịch mạo hiểm và du lịch thể thao dưới nước .
Cũng một nỗ lực nghiên cứu tiềm năng du lịch sinh thái của Việt nam, Nguyễn Quang Mỹ và nhiều nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rất nhiều hang động ở các vườn quuốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên vùng núi đá vôi trên phạm vi cả nước: Động Phong Nha, Chùa Hương,Tam Cốc, Bích Động, các hang động trong khu vực di sản thiên nhiên Hạ long là những điểm tham quan nổi tiếng trong và ngoài nước.
Theo sự phân tích của Ngô Đức Thịnh, từ đa dạng về tự nhiên dẫn đến sự đa dạng về văn hoá. Chính vì vậy mà mà người Việt nam không thuần nhất mà gồm 54 dân tộc khác nhau. Đáng chú ý hơn là các dân tộc thiểu số thường sống kề gần hoặc trong các khu bảo tồn thiên nhiên. Họ hiện vẫn đang lưu giữ được phong cách sống, bản sắc văn hoá riêng và tập tục độc đáo. Điều này khiến Việt nam càng trở nên hấp dẫn trên phương diện du lịch sinh thái. Hiện tại đời sống của những người dân ở đây có nhiều khó khăn thiếu thốn. Đây cũng là cơ hội để du lịch sinh thái thể hiện mình, đóng góp vào phát triển cộng đồng tại các điểm du lịch .
2.3.2 Thực trạng du lịch sinh thái của các khu bảo tồn thiên nhiên Việt nam.
Tuy có tiềm năng to lớn, nhưng du lịch sinh thái trong phạm vi cả nước nói chung và trong các khu bảo tồn nói riêng còn đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển. Các hoạt động đa số mang tính tự phát, chưa có sản phẩm và đối tượng phục vụ rõ ràng, chưa có sự đầu tư quảng bá, nghiên cứu thị trường và công nghệ phuc vụ cho du lịch sinh thái, chưa có sự quan tâm, quản lý chặt chẽ của các cấp các ngành do vậy mà thực tế là sự đa dạng sinh học đang bị de doạ.
Theo ước tính ở Việt nam có hơn 12000 loài cây, 275 loài động vật có vú, 800 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài động vật lưỡng cư, 2470 loài cá và hơn 5500 loài côn trùng, với ước tính hơn 10% đang mắc các bệnh đặc trưng ở các loài động vật có vú, chim và cá. Điều đáng buồn là hơn 28% thuộc động vật có vú, 10% loài chim và 21% loài động vật lưỡng cư và loài bò sát được liệt kê là đang ở tình trạng hết sức nguy hiểm. Một nguyên nhân to lớn là môi trường sống bị mất đi do nạn phá rừng.
Các dấu hiệu của việc khai thác các sản phẩm của rừng ngày một nhiều và không phải là không khó nhận ra ở Việt nam. Một ví dụ cho thấy việc buôn bán thịt thú rừng phát triển mạnh. Con chim, bán được 550.000 đ/kg, lợn rừng 40.000 đ/kg . Ở Đắc lắc, có một quán ăn đặc biệt với món thịt hổ. Những thú vật nhồi bông cũng có sẵn để bán ở các cửa hàng ở Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Một con hổ nhồi bông giá khoảng 15 triệu đồng, một con gấu trúc khoảng 10 triệu đồng, gấu mặt trời 8,5 triệu …Với những giá đó những người dân nghèo sẵn sàng tham dự cuộc buôn bán mà không cần biết hậu quả sẽ ra sao.
Trên đây là thực trạng đáng buồn của sinh thái Việt nam, vậy còn về lĩnh vực văn hoá thì sao ?
Tất cả mọi người ai cũng biết rằng giữa văn hoá và du lịch luôn có mối quan hệ biện chứng và trực tiếp . Mối quan hệ này càng thể hiện rõ hơn trong sự liên hệ bảo vệ và phát huy các di sản văn hoá và thiên nhiên – một bộ phận quan yếu của tài sản văn hoá và đồng thời là bộ phận quan yếu nhất trong tài nguyên du lịch.
Sự phát triển của du lịch tác động trực tiếp và dán tiếp đến việc trấn hưng và bảo tồn các di sản văn hoá. Doanh thu từ hoạt động du lịch được sử dụng cho việc tu bổ di tích, chỉnh lý các bảo tàng, đồng thời khôi phục và phát huy các di sản văn hoá phi vật thể, đặc biệt là các ngành thủ công mỹ nghệ, ca múa nhạc truyền thống phục vụ du lịch .
Một trong những ví dụ cụ thể là sự phát triển du lịch tại Huế trong những năm gần đây đã và đang làm sống lại những nghành nghề đã một thời bị lãng quên như may, thêu, đúc đồng, chạm khắc và đặc biệt là nghệ thuật ca Huế truyền thống, ca múa cung đình…
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực không thể phủ nhận của du lịch đối với đời sống kinh tế văn hoá, những hoạt động du lịch cũng đem lại những tác động tiêu cực đến công cuộc bảo tồn các di sản văn hoá nói riêng và nếp sống văn hoá nói chung .
Cụ thể như:
- Đối với các di sản vật thể, đặc biệt là các di sản có giá trị toàn cầu nổi bật thì sự bùng nổ số lượng khách thăm quan đã và đang trở thành mối nguy cơ đe doạ việc bảo vệ các di sản này. Sự có mặt quá đông du khách trong một thời điểm ở một di sản đã tạo nên những tác động cơ học, hoá học đã cùng với các yếu tố khí hệu nhiệt đới gây nên những sự huỷ hoại đối với các di sản và các động sản phụ thuộc như các vật dụng trang trí, vật dụng thờ tự …
- Sự phát triển các dịch vụ du lịch thiếu sự kiểm soát và sự bùng nổ số lượng du khách còn tác động mạnh mẽ đến cảnh quan văn hoá và môi trường sinh thái tại các khu du lịch như: khắc tên lên các vách đá, các bộ phận di tích, xả rác bừa bãi…
- Du lịch tạo nên sự tiếp xúc giữa các bộ phận dân cư xuất thân từ các nền văn hoá khác nhau, tín ngưỡng khác nhau. Do không được thông tin đầy đủ và thiếu những quy định chặt chẽ, cụ thể nên nhiều du khách đã ăn mặc, xử tuỳ tiện ở những nơi dược coi là trang nghiêm – đặc biệt là những di tích có ý nghĩa tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân sở tại, gây nên sự bất hoà thậm chí là sự xung đột về mặt tâm lý và tinh thần.
Trên đây là thực trạng chung của sinh thái và văn hoá Việt nam trong thời kì đầu phát triển du lịch sinh thái. Vậy thực trạng du lịch sinh thái trong các khu bảo tồn ra sao?
Trong số 11 vườn quốc gia thì Cúc Phương, Bạch Mã, Cát Tiên đã tổ chức hoạt động du lịch sinh thái khá hơn. Cụ thể 3 vườn này đã xây dựng được một số tuyến du lịch sinh thái, một số tuyến đường mòn thiên nhiên, một số hướng dẫn viên là kiểm lâm được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về du lịch sinh thái. Các vườn còn lại cũng tổ chức hoạt động thăm quan du lịch nhưng chưa có bài bản và định hướng rõ ràng .
Căn cứ vào các tiêu chí của du lịch sinh thái ta có thể nhận thấy rằng:
- Mặc dù đã có những tuyến du lịch mang tính chất du lịch sinh thái nhưng trên thực tế chỉ là du lịch thiên nhiên hay du lịch liên quan đến thiên nhiên.
- Hoạt động giáo dục, diễn giải môi trường – một yếu tố rất cơ bản để phân biệt du lịch sinh thái với các loại hình du lịch khác chưa được triển khai nhiều vẫn chưa quan tâm đúng mức và thiếu cán bộ am hiểu về lĩnh vực mới mẻ này. Cụ thể là trên các tuyến thăm quan, đường mòn thiên nhiên còn thiếu nhiều biển chỉ dẫn, chỉ báo. Một số vườn đã có một số tờ gấp và biển chỉ dẫn nhưng nội dung thông tin, thông tin quá nghèo nàn, sơ sài. Một số biển chỉ dẫn làm bằng sắt tây, giấy ép plastic nên dễ bị thiên nhiên phá huỷ. Hầu hết các hướng dẫn viên mới chỉ làm nhiệm vụ dẫn đường mà họ chưa có đủ kiến thức để thực hiện nhiệm vụ quan trọng, chủ yếu nhất của mình là giáo dục và diễn giải môi trường.
- Lợi ích từ hoạt động du lịch còn ít, chưa hỗ trợ được nhiều cho công tác bảo tồn và phát triển cộng đồng địa phương . Nhân dân địa phương chưa được thu hút nhiều vào hoạt dộng du lịch của vườn.
2.3.3 Nguyên nhân của thực trạng.
Nguyên nhân vì sao du lịch sinh thái tại các khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam chưa được phát triển tương xứng với tiềm năng của nó thì khá nhiều. Nhưng nhìn chung nó có một vài nguyên nhân chính.
Sự ít hiểu biết về khái niệm du lịch sinh thái là một hạn chế không nhỏ cho việc phát triển du lịch sinh thái. Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch khá mới mẻ cả về khái niệm, tổ chức hoạt động, quy hoạch, chính sách đầu tư khai thác. Vấn đề phổ cập kiến thức du lịch sinh thái chưa được các nghành liên quan quan tâm đúng mức. Hầu hết nhân dân Việt nam chưa có khái niệm về du lịch sinh thái.
Một nguyên nhân quan trọng nữa là do lực lượng quản lý tại các khu vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên thiếu cả về số lượng lẫn kiến thức chuyên môn về bảo tồn cũng như du lịch sinh thái. Mặc dù du lịch là một trong những chức năng, nhiệm vụ của vườn quốc gia. Nhưng thực tế các vườn mới chỉ chú trọng đến bảo vệ rừng mà chưa quan tâm tới việc quản lý rừng bền vững và phát triển du lịch sinh thái. Các khu bảo tồn thiên nhiên còn thiếu những phương tiện cung cấp các thông tin giáo dục, diễn giải môi trường và chưa có được những hướng dẫn viên du lịch sinh thái chuyên nghiệp, am hiểu đầy đủ, tường tận các tài nguyên du lịch của chính mình.
Các điểm du lịch sinh thái chưa được quy hoạch là một trở ngại lớn cho việc phát triển của nghành du lịch này tại Việt nam. Hầu hết các khu bảo tồn thiên nhiên chưa có phân vùng dành cho du lịch sinh thái. Không có các nguyên tắc chỉ đạo dựa vào đó các đối tượng biết mình đang tiến hành du lịch sinh thái hay một hình thức du lịch nào khác .
Sự thiếu tiếp thị quảng cáo cho du lịch sinh thái cũng là một nguyên nhân quan trọng kìm hãm sự phát triển của du lịch sinh thái ở Việt nam. Thiếu tiếp thị, quảng cáo, tuyên truyền dẫn đến thiếu nhu cầu trong thị trường. Điều này lại dẫn đến sự thiếu động lực thúc đẩy các cơ quan chức trách có thẩm quyền và các nhà đầu tư để họ quan tâm hơn đến việc ưu tiên đầu tư cho bảo tồn và du lịch sinh thái.
Một nguyên nhân không kém phần quan trọng là sự kém phát triển của cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch nói chung và du lịch sinh thái nói riêng. Tuy du lịch sinh thái và các khách du lịch sinh thái không chú trọng lắm tới sự hiện đại của cơ sở vật chất, nhưng cần có sự phục vụ tối thiểu để du khách không phải bận lòng mỗi khi cần đến chúng.
Nhìn chung nguyên nhân quan trọng nhất gây trở ngại cho việc phát triển du lịch sinh thái ở các vườn quốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên lại là thiếu sự phối hợp kếi hợp giữa các cơ quan, các nghành, các cấp trong việc xây dựng các chính sách phát triển và quy hoạch du lịch. Du lịch sinh thái là một ngành du lịch liên quan đến nhiều lĩnh vực, cần phải có sự kết hợp của nhiều ngành liên quan mới có thể phát triển đựơc.
2.4 Tiềm năng và thực trạng du lịch sinh thái biển - đảo của Việt Nam.
2.4.1 Tiềm năng du lịch sinh thái biển - đảo.
Dọc theo chiều dài hơn 3.231 km vùng biển ven bờ của Việt Nam đã thống kê được 2.779 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 1.295 (46,6%) đảo không tên; hơn 50 đảo có dân sinh sống thường xuyên, thống kê được tài nguyên sinh vật khoảng trên 10 đảo, như vậy còn 95,5% là đảo hoang.
Toàn bộ diện tích của đảo ven bờ là 1.636,7 km2, trong tổng số 2.779 đảo chỉ có 3 đảo có diện tích từ 100km2 trở lên là Cái Bầu, Cát Bà, Phú Quốc, 23 đảo có diện tichs từ 10km2 đến 99,9km2, diện tích của 1.295 đảo không tên ( đảo nhỏ và cực nhỏ) chỉ có 23km2.
Hệ thống đảo ở vùng biển ven bờ Việt Nam phân bố không đều. Khu vực tập trung nhiều đảo nhất là Vịnh Bắc Bộ ( cực Nam Trung Bộ, Đông và Tây Nam Bộ) chỉ chiếm 7% tổng số đảo. tuy nhiên tổng tích các đảo ở hai khu vực này lại gần giống nhau: 787,4km2 (48%) cho các đảo ở ven bờ Bắc Bộ và 679,3 km (41%) cho các đảo ở ven bờ Nam Bộ.
Căn cứ và đặc điểm phân bổ các hòn đảo, tồn tại ba HST đặc trưng:
+ Hệ sinh thái quần đảo với nhiều vũng, vịnh nhỏ xen kẽ nhau tạo thành cảnh quan và môi trường sinh thái rất đặc biệt và đa dạng. Đặc trưng nhất là hệ thống quần đảo phía tây bắc vịnh Bắc Bộ.
+ Hệ sinh thái ở một hoặc hai đảo độc lập, hoặc cách nhau tương đối xa. Tính chất sinh thái và khu hệ sinh vật trên đảo và vùng nước xung quanh các đảo của HST này tương đối thuần nhất, tính đa dạng sinh học không cao. Đại diện cho HST dạng này là các đảo Bạch Long Vĩ, Hòn Mát, Cồn Cỏ, Cù Lao Ré, Cù Lao Khoai, Hòn Tre...
+ Hệ sinh thái vùng quần đảo nhỏ, bao gồm một đảo lớn và một số đảo nhỏ xung quanh. Điển hình cho dạng này là Cát Bà, Cù Lao Chàm, Côn Đảo,Thổ Chu, Phú Quốc... Đặc trưng của các HST này là vừa mang tính chất của HST đảo độc lập ( khu hệ sinh vật tập trung chủ yếu trên và quanh đảo lớn), vừa mang tính chất của HST quần đảo ( có các vũng, vịnh và vùng cư trú nhỏ riêng rẽ giữa đảo lớn và các đảo nhỏ). Do đó tính đa dạng sinh học của HST này nghèo nàn hơn HST quần đảo phía tây bắc vịnh Bắc Bộ, nhưng phong phú hơn HST các đảo độc lập.
Các đảo và vùng nước quanh đảo là nơi bảo tồn, phát triển nguồn gen tự nhiên rất phong phú và lưu giữ những nguồn gen quý hiếm của khu hệ sinh vật Việt Nam. Bước đầu đã phát hiện được 8 loài quý hiếm và 1 loài đặc hữu trên cụm đảo Cát Bà ; 3 loài quý hiếm tren Cù Lao Chàm ; 4 loài quý hiếm và một loài đặc hữu trên cụm đảo Côn Đảo - Ba Cạnh ; bổ sung voà danh mục cá biển việt Nam 113 loài cá san hô mới được phát hiện tại các đảo ven bờ.
Vùng biển này quanh hệ thống đảo ven bờ Việt Nam là nơi dừng chân thuận lợi cho các loài động vật di cư từ Bắc xuống Nam và ngược lại. Đặc tính này làm cho khu hệ động vật trên đảo và dưới nước thêm phong phú, đa dạng. Trong số 43 loài chim biển đã phát hiện ở nước ta có 10 loài là chim di cư trú đông từ phương Bắc tới.
Theo cơ chế tuần hoàn tự nhiên, nước bốc hơi từ biển và nước trên bề mặt đảo cùng với quá trình quang hợp đã đảm bảo cho hệ thực vật phát triển, tạo ra các chất hữu cơ (cây, lá , hoa , quả) làm cho thức ăn cho nhiều loài động vật sống trên đảo. trong quá trình sinh trưởng, xác sinh vật và phân động vật thải ra trôi xuống biển là nguồn thức ăn hữu cơ cho nhiều loài động vật sống trong vùng biển quanh đảo, tạo nên vòng tuần hoàn sinh học là nhân tố đảm bảo cho khu hệ sinh vật ở đây tồn tại và phát triển.
HST đảo và vùng biển quanh các đảo ven bờ biển Việt Nam có đa dạng sinh học cao. Đến nay chưa có số liệu thống kê đầy đủ về nguồn gen trong HST biển - đảo quanh 2.779 hòn đảo, tuy nhiên kết quả nghiên cứu ở một số cụm đảo cho thấy : trên các đảo hiện có khoảng 997 loài thực vật thuộc 587 chi, 156 họ, 5 ngành, khoảng 63 loài thú thuộc 24 họ, 8 bộ, khoảng 194 loài chim thuộc 50 họ, 20 bộ, khoảng 73 loài bò sát thuộc 18 họ, 3 bộ, khoảng 15 loài lưỡng cư thuộc 4 họ, 1 bộ ; tương ứng với 28,3% loài thú, 23,7% số loài chim, 29,1% số loài bò sát và 18,8% số loài lưỡng cư đã thống kê trong toàn quốc.
Trong vùng biển Việt Nam hiện đã phát hiện được 537 loài thuộc 4 ngành thực vật phù du (phytoplankton) , động vật phù du ( Zooplankton) có 657 loài thuộc 7 ngành, động vật đáy có khoảng 6.000 loài cỡ lớn, cá biển có 2.038 loài thuộc 717 giống, 198 họ, 32 bộ, bò sát có 21 loài, động vật có vú sống dưới nước có 12 loài thuộc 10 giống, 4 họ thuộc 2 bộ cá Voi (Cetacea) và cá Cúi ( Sitenia).
Bước đầu đã xác đinh đa dạng sinh học ở một số cụm đảo và vùng biển phụ cận đặc trưng cho HST biển - đảo, gồm:
Cụm đảo ven bờ vịnh Bắc Bộ ( từ Quảng Ninh đến Thừa Thiên Huế): với khoảng 80% tổng số đảo ven bờ Việt Nam. Phát hiện trên các đảo 754 loài thực vật, 43 loài thú , 20 loài bò sát - lưỡng cư, 121 lài chim. Trong vùng nước quanh cụm đảo này có khoảng 181 loài thực vật phù du, 53 loài rong biển, 198 loài cá biển - trong đó có 42 loài cá san hô, 500 loài động vật đáy, 13 loài bò sát biển và 3 loài thú sống dưới nước.
Trong số các loài sinh vật đã phát hiện có 5 loài thú quý hiếm được đưa vào sách đỏ Việt Nam, trong số đó có 1 loài đặc hữu, 9 loài cá san hô mới, nhiều loài sinh vật là dược liệu và có giá trị kinh tế cao.
Cụm đảo ven bờ từ Đà Nẵng đến Khánh Hoà có các đảo quan trọng như Cù Lao Chàm, Cù Lao Ré, Hòn Tre 1, Hòn Mun... và hàng trăm đảo lớn nhỏ vói các vũng vịnh có cảnh quanh đẹp như vịnh Cam Ranh, vịnh Bến Gỏi, vũng Bình Cang... Trên các đảo ở cụm này bước đầu đã phát hiện được 199 loài thực vật, 12 loài thú, 7 loài bò sát. Tại vùng nước quanh các đảo có khoảng 218 loài thực vật phù du biển, 53 loài rong biển, 256 loài cá san hô và 630 loài động vật đáy.
Trong số loài sinh vật đã phát hiện ở đây có 3 loài thú quý hiếm, 18 loài động vật phù du và 89 loài cá san hô mới đối với Việt Nam.
Cụm đảo ven bờ Thuận Hải - Minh Hải có số lượng đảo không lớn nhưng nhiều đảo có ý nghĩa quan trọng như Phú Quý, Hòn Khoai, Côn Đảo. Bước đầu đã thống kê tài nguyên sinh vật trên các đảo trong cụm này, gồm hơn 400 loài thực vật, 29 loài thú, 46 loài bò sát - lưỡng cư, 62 loài chim ; trong vùng nước quanh các đảo có 158 loài cá san hô, 179 loài san hô và 547 loài động vật đáy.
Trong khu hệ sinh vật ở cụm đảo này có 4 loài thú quý hiếm và 1 loài đặc hữu, 25 loài cá san hô và 54 loài động vật đáy mới đối với Việt Nam.
Cụm đảo vùng biển ven bờ Tây Nam Bộ có số đảo không nhiều, phân bố thưa nhưng lại có những đảo lớn quan trọng như Phú Quốc, Thổ Chu... Trên các đảo đã phát hiện khoảng 200 lài thực vật, 28 loài thú, 76 loài bò sát - lưỡng cư, 67 loài chim. Cá san hô có khoảng 125 loài, trong đó có 20 loài mới đối với Việt Nam.
Quá trình nghiên cứu về các HST biển - đảo trong hệ thống các đảo trong hệ thống các đảo ven bờ cho thấy biển Việt Nam nằm trong vung nhiệt đưói gió mùa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiềm năng và thực trạng du lịch sinh thái ở Việt Nam.docx