MỤC LỤC
A.Đặt vấn đề 1
B. Nội dung 2
I. Sự cần thiết phải xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 2
1. Kinh tế thị trường 2
1.1 Khái niệm 2
1.2 Đặc trưng của kinh tế thị trường 3
2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 3
2.1 Khái niệm 3
2.2 Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 3
2.3 Tính tất yếu khách quan phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 6
II. Thực trạng quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 9
1. Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN 9
2. Những thành tựu đã đạt được trong những năm qua 13
3. Một số hạn chế còn tồn tại cần khắc phục 15
III. Giải pháp xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong những năm tới 16
1. Quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam 16
2. Một số giải pháp cụ thể 18
2.1 Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần 18
2.2 Mở rộng và nâng cao kinh tế đối ngoại 18
2.3 Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng Bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh 20
C. KẾT LUẬN 21
D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1894 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lượng sản xuất còn ở trình độ thấp kém và không đồng đều, nên tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất thích ứng với nó là nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần kinh tế.
Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt nam cho phép chúng ta khai thác, xây dựng, phát huy mọi nguồn lực trong nước, tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài (vốn, công nghệ quản lý…) góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng tạo ra khối lượng sản phẩm đa dạng, dồi dào, phong phú làm nâng cao đời sống nhân dân. Đây là điều kiện để chúng ta thực hiện thắng lợi con đường tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa.
Nhưng nền kinh tế nhiều thành phần cũng tạo ra những hạn chế: cạnh tranh không lành mạnh, tạo ra sự phân hóa xã hội, dễ đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa... Vì vậy, trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo.
1.2.3.Thực hiện nhiều hình thức phân phối theo thu nhập trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu.
Do nền kinh tế Việt nam dựa trên sự đa dạng hóa quan hệ sử hữu về tư liệu sản xuất nên chúng ta phải thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập khác nhau gồm: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn, tài sản, phân phối ngoài thù lao thông qua quỹ phúc lợi xã hội và tập thể… trong đó phân phối theo lao động là hình thức phân phối được thực hiện chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất.
Phân phối theo lao động thể hiện tính ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩa nên lấy phân phối theo lao động là chủ yếu.
1.2.4.Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Là nền kinh tế thị trường thì tất yếu vận động theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường có rất nhiều mặt tích cực đặc biệt là kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa phong phú, đa dạng, dồi dào với chất lượng tốt, giá thành hạ, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
Bên cạnh đó, cơ chế thị trường cũng sinh ra nhiều khuyết tật như ô nhiễm môi trường, độc quyền, khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát, và tạo ra sự bất công bằng trong xã hội.
Những hạn chế này không phải là bản chất của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng (nghĩa là cơ chế thị trường dễ bị chệch hướng xã hội chủ nghĩa). Do vậy, trong nền kinh tế thị trường Việt nam, Nhà nước phải điều tiết nền kinh tế thị trường thông qua các công cụ: pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác… để khác phục những khuyết tật của kinh tế thị trường làm cho nền kinh tế phát triển đúng hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.5. Là nền kinh tế mở, hội nhập.
Việt Nam đã thực hiện nhất quán chính sách đa phương hoá, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại. Từ năm 1990, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Hoa Kỳ, với các tổ chức IMF, WB, gia nhập ASEAN và thực hiện các cam kết với AFTA; là thành viên của APEC; ký kết Hiệp Định Thương mại với Hoa Kỳ; hiện Việt nam đang là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, và vừa qua đã là thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc.
2.3 Tính tất yếu khách quan phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và ở Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là "cái phổ biến", còn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là "cái đặc thù" của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, cũng không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, bởi vì như trên đã nói, Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tuy có nhưng chưa đầy đủ các yếu tố của chủ nghĩa xã hội.
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trò tích cực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, cải tiến kỹ thuật - công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải, góp phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột và phân hóa giàu nghèo, ít quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình phát triển trên cơ sở quán triệt lý luận Mác - Lê-nin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
- Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế - kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào ? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng, muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt một thời gian dài, Việt Nam, cũng như nhiều nước khác, đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết, mô hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm; và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ và công sức của toàn Đảng, toàn dân trong nhiều năm.
Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), khóa VI, phát triển thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi "chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội".
Đến Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng khẳng định: "Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đưa ra một kết luận mới rất quan trọng: "Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng". Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm "kinh tế thị trường". Phải đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) mới chính thức đưa ra khái niệm "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
II. Thực trạng quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
1. Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Đại hội VI năm 1986, Đảng ta khẳng định chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, mở cửa theo định hướng XHCN.Chính phủ đã áp dụng các biện pháp ổn định tài chính và tiền tệ để chống lạm phát; áp dụng cơ chế thị trường trong lĩnh vực giá cả, tỷ giá, lãi suất, xoá bỏ cơ chế nhà nước định giá; xác lập cơ chế giá cả do thị trường định (hiện giá cả hàng hóa và dịch vụ hầu hết do thị trường định, chỉ còn một số giá như điện, nước, bưu chính, viễn thông, vận tải, hàng không... do các tổng công ty ấn định); thực hiện tự do hóa thương mại; bãi bỏ chế độ Nhà nước độc quyền phân phối hàng hóa và dịch vụ, cho phép mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được kinh doanh thương mại...
Thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, từ năm 1986 đặc biệt là từ sau 1989, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh, thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật, đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế Nhà nước sẽ giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Đổi mới hệ thống tài chính, ngân hàng: Hệ thống ngân hàng Việt Nam từ sau đổi mới đã có những thay đổi quan trọng - hình thành một hệ thống ngân hàng thương mại gồm 6 ngân hàng quốc doanh, 51 ngân hàng cổ phần, 23 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh; các ngân hàng quốc doanh đã ngày càng chuyển sang hoạt động kinh doanh tiền tệ...
Đổi mới chính sách phát triển nông nghiệp, từ những năm 1980, hình thức khoán hộ đã được áp dụng, sau đó chính sách giao đất, giao rừng cho nông dân kinh doanh lâu dài được phổ biến.
Đại hội VII (1991) và Đại hội VIII (1996) ghi nhận cơ chế thị trường.Thực hiện hội nhập khu vực và quốc tế, Việt Nam đã thực hiện nhất quán chính sách đa phương hoá, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại. Từ năm 1990, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Hoa Kỳ, với các tổ chức IMF, WB, gia nhập ASEAN và thực hiện các cam kết với AFTA; là thành viên của APEC; ký kết Hiệp Định Thương mại với Hoa Kỳ; hiện đang đàm phán tích cực để gia nhập WTO...
Hình thành hệ thống luật pháp thích hợp với kinh tế thị trường, ban hành nhiều luật mới như : Bộ luật hình sự, Luật đầu tư nước ngoài, Luật đầu tư trong nước, Luật thương mại, Luật ngân hàng và tín dụng, Luật doanh nghiệp, các Luật về thuế, Luật phá sản... của Chính phủ và các bộ các ngành.
Đào tạo cán bộ phục vụ cho công cuộc đổi mới, thực hiện chính sách đào tạo kịp thời phục vụ cho sự phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Hàng loạt lớp đào tạo ngắn hạn, dài hạn về kinh tế thị trường đã được mở...Hàng ngàn cán bộ được cử đi học nước ngoài đào tạo về kinh tế thị trường và ngoại ngữ...
Những kết quả đạt được: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) trong thời kỳ 1991-2000 tăng bình quân hàng năm là 7,4%, theo đó tổng giá trị GDP đạt gấp đôi năm 1990.
Nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá và đưa mức lương thực bình quân đầu người từ 294,9 kg năm 1990 lên 470kg năm 2003. Từ nước nhập khẩu gạo hàng năm đã trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới. Giá trị sản lượng công nghiệp tăng bình quân trong 10 năm qua khoảng 12,8-13%/ năm, từ 2001-2003 giá trị sản lượng công nghiệp tăng bình quân năm là 14,6%. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 10 năm qua tăng bình quân hàng năm 18,2%, tăng gấp 5,3 lần so với năm 1990. Tốc độ tăng trưởng giá trị nhập khẩu bình quân hàng năm là 17,5%.
Đại hội IX (2001), khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cơ cấu kinh tế đã có những chuyển biến tích cực. Từ năm 1990-2003 tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp trong GDP giảm từ 38,7% xuống còn 21,7%, công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,6% lên 40,5%; dịch vụ từ 35,7% lên 40,5% (theo giá so sánh). Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tính đến quý IV năm 2003 đã có 4204 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đăng ký là 40,5 tỷ USD, vốn thực hiện là 24,1 tỷ USD. Mức sống của dân cư thành thị và nông thôn đã được cải thiện: GDP theo đầu người trong 10 năm qua tăng 1,8 lần, thu nhập bình quân mỗi người/tháng tăng 3,2 lần. Trong 10 năm qua, số học sinh đi học ở các cấp học khác nhau từ tiểu học đến đại học tăng khoảng 2,3-4,3 lần; chỉ số HDI năm 2004 là 112/177 quốc gia xếp hạng.
Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước, bình quân trong 5 năm (2001 - 2005) là 7,5% và phát triển tương đối toàn diện. Văn hoá và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, nhất là trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy. Công tác xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực.
Đạt được những thành tựu trên là nhờ đường lối đúng đắn của Đảng; sự quản lý thống nhất theo pháp luật của Nhà nước, sự điều hành năng động của Chính phủ và sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Đó còn là do tác động tích cực của những cơ chế, chính sách đã ban hành; do kết quả đầu tư trong nhiều năm qua đã làm cho năng lực sản xuất của nhiều ngành và toàn bộ nền kinh tế tăng khá.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, còn nhiều khuyết điểm và yếu kém :
Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ chế, chính sách về văn hoá - xã hội chậm đổi mới; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn một số khâu chậm đổi mới. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu.
Có những khuyết điểm đó là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, chủ yếu là những nguyên nhân chủ quan như: Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới; một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chậm làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo, điều hành. Sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt, nhất là trong ba lĩnh vực: xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực; đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém về phẩm chất, năng lực và tinh thần trách nhiệm, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ trình độ, năng lực hoàn thành nhiệm vụ.
2. Những thành tựu đã đạt được trong những năm qua
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) trong thời kỳ 1991-2006 tăng bình quân hàng năm là 7,4%, theo đó tổng giá trị GDP đạt gấp đôi năm 1991. Nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá và đưa mức lương thực bình quân đầu người từ 294,9 kg năm 1991 lên 470kg năm 2006. Từ nước nhập khẩu gạo hàng năm, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới.
Giá trị sản lượng công nghiệp tăng bình quân trong 10 năm qua khoảng 12,8-13%/ năm, từ 2001-2006 giá trị sản lượng công nghiệp tăng bình quân năm là 14,6%. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 10 năm qua tăng bình quân hàng năm 18,2%, tăng gấp 5,3 lần so với năm 1990. Tốc độ tăng trưởng giá trị nhập khẩu bình quân hàng năm là 17,5%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tính đến quý II năm 2007 đã có 4204 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đăng ký là 40,5 tỷ USD, vốn thực hiện là 24,1 tỷ USD.
Cơ cấu kinh tế đã có những chuyển biến tích cực. Từ năm 1990-2007 tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp trong GDP giảm từ 38,7% xuống còn 21,7%, công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,6% lên 40,5%; dịch vụ từ 35,7% lên 40,5% (theo giá so sánh).
Mức sống của dân cư thành thị và nông thôn đã được cải thiện: GDP theo đầu người trong 10 năm qua tăng 1,8 lần, thu nhập bình quân mỗi người/tháng tăng 3,2 lần. Trong 10 năm qua, số học sinh đi học ở các cấp học khác nhau từ tiểu học đến đại học tăng khoảng 2,3-4,3 lần; chỉ số HDI năm 2006 là 112/177 quốc gia xếp hạng.
Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước, bình quân trong 5 năm (2001 - 2005) là 7,5% và phát triển tương đối toàn diện. Văn hoá và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, nhất là trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy. Công tác xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực.
Đạt được những thành tựu trên là nhờ đường lối đúng đắn của Đảng; sự quản lý thống nhất theo pháp luật của Nhà nước, sự điều hành năng động của Chính phủ và sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Đó còn là do tác động tích cực của những cơ chế, chính sách đã ban hành; do kết quả đầu tư trong nhiều năm qua đã làm cho năng lực sản xuất của nhiều ngành và toàn bộ nền kinh tế tăng khá rõ.
3. Một số hạn chế còn tồn tại cần khắc phục
Bên cạnh những kết quả đạt được, nền kinh tế nước ta còn những mặt tồn tại nhất định:
- Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm.
- Nền kinh tế thị trường ở nước ta mới hình thành và còn ở trình độ sơ khai do:
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém (nền sản xuất nhỏ, phân tán, lạc hậu), lao động kỹ thuật chủ yếu là lao động thủ công, công nghệ thiết bị lạc hậu
+ Kết cấu hạ tầng yếu kém, lạc hậu.
+ Khả năng cạnh tranh của hàng hóa còn nhiều hạn chế (sản xuất nhỏ là chủ yếu, công cụ lạc hậu, chất lượng thấp, chủng loại nghèo nàn, giá thành cao)
+ Phân công lao động xã hội phát triển chưa cao (lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn…)
- Hệ thống thị trường mới hình thành, chưa phát triển và chưa đồng bộ:
+ Dung lượng thị trường thấp, thị trường nghèo nàn
+ Thị trường “đầu vào”, thị trường “đầu ra” đặc biệt là các thị trường có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế thị trường như: thị trường hàng hóa sức lao động, thị trường khoa học công nghệ, thị trường tài chính, thị trường bất động sản và thị trường các sản phẩm trí tuệ mới hình thành và ở trình độ manh nha.
- Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế nước ta gặp nhiều bất lợi do sức cạnh tranh của nền kinh tế và của hàng hóa nước ta kém. Bên cạnh đó, việc mới bước vào sân chơi quốc tế thì chưa biết hết luật chơi, đội ngũ thu thập thông tin quốc tế còn yếu kém.
- Quản lý Nhà nước về kinh tế xã hội còn non yếu (năng lực quản lý Nhà nước còn thấp, trình độ quản lý yếu, luật pháp chưa đồng bộ, thực hiện luật pháp chưa nghiêm minh…)
III. Giải pháp xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong những năm tới
1. Quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam
Mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5 năm 2006 - 2010 là : Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5 năm 2006 - 2010, "sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển" là mục tiêu trực tiếp của Đại hội X. Như đa biết, Đại hội IX của VN đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 nhằm "đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển". Nay Việt nam nêu lên chữ sớm là thể hiện quyết tâm phấn đấu đạt mục tiêu chiến lược ấy trước năm 2010. Đây là điều mong ước thiết tha và là đòi hỏi bức xúc của toàn Đảng, toàn dân ta. Nêu "sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển" là thể hiện sự nhìn nhận nghiêm túc, khách quan về tình hình đất nước hiện nay, đồng thời cổ vũ nhân dân ta vươn lên với tinh thần tự tôn dân tộc và quyết tâm cao để đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển không chỉ ở mức thu nhập thấp mà còn ở những lĩnh vực khác như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đời sống văn hoá tinh thần, chỉ số phát triển con người...
Việc thực hiện thắng lợi mục tiêu này, sẽ đánh dấu một bước phát triển mới trên con đường đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Với quyết tâm cao, đề ra những chỉ tiêu định hướng về phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu trong 5 năm 2006 - 2010, trong đó, quan trọng nhất là : đến năm 2010, tổng sản phẩm trong nước (GDP) gấp 2,1 lần so với năm 2000; mức tăng GDP bình quân đạt 7,5 - 8%/năm, phấn đấu đạt trên 8%/năm. Cơ cấu ngành trong GDP : khu vực nông nghiệp khoảng 15 - 16%; công nghiệp và xây dựng 43 - 44%; dịch vụ 40 - 41%. Tạo việc làm cho 8 triệu lao động, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị dưới 5%. Tỉ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) giảm xuống còn 10 - 11%...
2. Một số giải pháp cụ thể
2.1 Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
Trên cơ sở hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự hình thành, phát triển của các thị trường hàng hóa và dịch vụ, tài chính (vốn và tiền tệ), bất động sản, sức lao động, khoa học và công nghệ..., Nhà nước tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi để phát huy các nguồn lực cho phát triển theo cơ chế thị trường, các chủ thể hoạt động kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công khai và minh bạch, có trật tự, kỷ cương, các giao dịch thị trường diễn ra phù hợp với các nguyên tắc của kinh tế thị trường; hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội quan trọng; bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật; tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế, sử dụng một số biện pháp để hỗ trợ thị trường trong nước khi cần thiết, không trái với các cam kết khi hội nhập. Nhà nước thực hiện sự ưu đãi hoặc hỗ trợ phát triển không phân biệt hình thức sở hữu, đối với một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm, đối với một số mục tiêu (như xuất khẩu, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, khắc phục những rủi ro), một số địa bàn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không phân biệt thành phần kinh tế và phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta.
2.2 Mở rộng và nâng cao kinh tế đối ngoại
Để thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời g
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KTCT-69.docx