MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ PHÂN PHỐI 2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2
CHƯƠNG2:THỰC TRẠNG QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI 11
KẾT LUẬN 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 21
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2061 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng quan hệ phân phối ở nước ta và những giải pháp hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khoẻ mạnh có khả năng lao động và đang lao động, được trả công theo lao động, những có vốn và tài sản đóng góp vào qúa trình sản xuất để được nhận lợi tức và lợi nhuận, thì trong xã hội còn có những người vì lẽ này hay lẽ khác, không thể tham gia vào lao động được trả công của xã hội. Đời sống số đông người này được gia đình đảm bảo. Mặt khác, ngay cả mức sống của cán bộ công nhân viên chức Nhà nước và những người làm việc trong tất cả các thành phần kinh tế cũng không chỉ dựa vào tiền công cá nhân. Bởi mức tiền công theo qui định của Nhà nước chưa đảm bảo được mức sống. Họ phải dựa một phần vào các quĩ phúc lợi công cộng của Nhà nước, của các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội khác.
Vì vậy mà ngoài việc phân phối theo lao động, theo tài sản và theo vốn thì trong xã hội còn tồn tại hình thức phân phối ngoài thù lao lao động, thông qua quĩ phúc lợi xã hội. Đây không phải là phân phối theo nhu cầu, cũng không phải là phân phối là phân phối theo lao động mà đây mới chỉ là phân phối của thời kỳ quá độ mà thôi. Đây là hình thức phân phối bổ sung cần thiết và quan trọng đối với nguyên tắc phân phối theo lao động. Nó thích hợp với việc thoả mãn những nhu cầu công cộng của xã hội. Nó có lợi trước hết cho những gia đình mà thù lao lao động tính theo đầu người tương đối thấp. Nó không những bảo đảm cho tất cả mọi thành viên trong xã hội đều có mức sống bình thường tối thiểu mà còn có tác dụng kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển toàn diện của mọi thành viên trong xã hội. Đây là hình thức phân phối của thời kỳ quá độ, nó góp phần thúc đẩy sự phát triển của một đất nước.
Cả ba hình thức phân phối trên đều là những hình thức phân phối cơ bản ở nước ta hiện nay trong đó phân phối theo lao động giữ vai trò chủ đạo.Phân phối ngoài thù lao lao động qua các quĩ phúc lợi xã hội ngày càng trở nên quan trọng trong quá trình phát triển xã hội. Đồng thời phân phối theo tài sản, vốn và những đóng góp khác ngày nay cũng trở thành một tất yếu, hợp qui luật.
1.4 / Kinh nghiệm một số nước về quan hệ phân phối
1.4.1/Thái lan
Thái lan vẫn được coi là ít có sự can thiệp của chính phủ vào đời sống kinh tếhơn cả . Thái lan đã thành công trong việc phát triển kinh tế .Tốc độ tăng trưởng nhanh , tỷ lệ sinh đẻ hạ từ 3,3 trong ba thập kỷ đầu xuống còn 2,2 hiện nay đã làm thu nhập đầu người tăng một cách ổn định . Tuy nhiên sự nghèo khổ ở đây vẫn thể hiện rõ nét , có sự bất công bằng lớn giữa nông thôn và thành thị , giữa các khu vực , chênh lệch về thu nhập ngày càng gia tăng .
Tuy nhiên Thái lan cung đạt được nhièu thành tựu trong việc cung cấp các dịch vụ cơ bản dưới nhiều hình thức phong phú như phúc lợi bằng tiền mặt , bằng hiện vật , phúc lợi trẻ em và thanh niên ,trợ giúp việc làm phúc lợi cho người có tuổi ……
Tóm lại các chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu ở các nước ASEAN
đã thất bại chủ yếu do phân phối thu nhập không đều.Chính vì việc phân phói không đều đã bó hẹp thị trường nội địa không chỉ do đông đảo quần chúng nghèo khổ mà còn do những ngưòi có thu nhập cao thường mua hàng ngoại , hoặc tiêu dùng những sản phẩm đơn lẻ.Qua đó đã chứng minh rằng ,giữa tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau .Tăng trưởng kinh tế không chỉ dẫn đến sự giàu có chung của đất nước , mà còn tạo điều kiện thuận lơi để giúpcácnhóm có thu nhập thực hiễn xoá đói giảm ngheo mặt khác không thể có tăng trưởng kinh tế kéo dài nếu không áp dụng các chinh sách phân phối thu nhập công bằng hơn
Thành công của các nước này thường đi kèm với sự gia tăng vững chắc của tiền lương thực tế năng xuất và sự tham gia vào các hoạt kinh tế của đại đa số dân chúng.Một bài học chung rút ra từ thực tế các nước ASEAN là thành công trong phát triển phụ thuộc vào sự can thiệp một cách có hiệu quả của nhà nước vào đời sống thực tế và lợi ích của đại bộ phận nhân dân.
1.4/Vai trò và định hướng của nhà nước trong việc thực hiện phân phối thu nhập
Trong thời kỳ quá độ lên chủnghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu ,Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nềnkinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa ,thì vẫn còn sự tồntại bất bình đẳng trong thu nhập . Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải tạo ra những tiền đề về mặt cơ sở hạ tầng,thể chế chính trị đồng thời cả những biện pháp nhằm thu hẹp và xoá bỏ những bất bình đẳng trong xã hội.
Một trong những mục tiêu đầu tiên Đảng và nhà nước ta đề ra là :Từng bước thực hiện công bằng xã hội trong phân phối thu nhập.Trước hoàn cảnh nền kinh tế nước ta có sự đan xen của nhiều hình thức sở hữu đó,vai trò của Đảng,Nhà nước càng được thể hiện một cách rõ nét.Nhà nước ta trong thời điểm hiện tại đã đưa ra một số phương hướng cho hành động trong thời gian tới :
+Phát triển ,hoàn thiện lực lượng sản xuất ngày một tốt hơn trong thời gian tới về mọi mặt .
+Hoàn thiện chính sách tiền lương,bình quân chống chủ nghĩa bình quân và thu nhập bất chính.Trong vấn đề này,vai trò của chính phủ là phải gắn vhặt tiền công,tiền lương với người lao động nhằm tường bước thực hiện hpân phối công bằng hợp lí.Nghiêm trị những kẻ có thu nhập bất chính,chúng ta phải từng bước tiền tệ hoá tiền lương,xoá bỏ những đặc quyền, đặc lợi trong phân phối
+Điều tiết thu nhập dân cư giữa các khu vực khác nhau.Trong hoàn cảnh kinh tế như hiện nay chúng ta phải thừa nhận sự chênh lệch thu nhập giữa các tổ chức với nhau.Tuy vậy vai trò của nhà nước là phải làm giảm đi phần nào sự chênh lệch đó.Điều tiết thu nhập là một yêu cầu khách quan ở bất kì chế độ nào nhằm duy trì và ổn định xã hội.Điều tiết thu nhập thông qua các hình thức như:thuế thu nhập,tự nguyện đóng góp vào các quỹ phú lợi xã hội
+ Khuyến khích làm giàu một cách hợp pháp.Mục tiêu hàng đầu của nước ta là dân giàu,nứơc mạnh,xã hội công bằng,dân chủ,văn minh.Chính phủ luôn khuyến khích mọi người dân,mọi tổ chức kinh tế làm giầu một cách hợp pháp.Ngoài ra chúng ta còn thực hiện các chính sách xoá đói,giảm nghèo,đền ơn đáp nghĩa đối với các gia đình chính sách.
1.3/ Kinh nghiệm một số nướcvề quan hệ phân phối
1.3.1/Kinh nghiệm về quan hệ phân phối ở liên xô
Kinh nghiệm từ sự vân dụng nguyên tắc phân phối của các nước trên thế giới đặc biệt là nguyên tắc phân phối của CNXH ở Liên Xô đáng để nước ta nghiên cứu và học hỏi. Trong lĩnh vực phân phối, chính quyền Xô Viết đã kiên quyết tiếp tục thay thế việc buôn bán bằng chế độ phân phối sản phẩm một cách có kế hoạch và có tổ chức trên qui mô toàn quốc. Mục đích là tổ chức toàn thể nhân dân vào các công xã sản xuất và tiêu dùng có khả năng phân phối các sản phẩm cần thiết một cách nhanh chóng nhất, có kế hoạch nhất và tiết kiệm nhất, bằng cách tập trung chặt chẽ bộ máy phân phối. Hợp tác xã là là một phương tiện quá độ để đạt tới mục đích đó. Đảng cộng sản Liên Xô đã buộc tất cả các đảng viên của mình phải làm việc trong các hợp tác xã, lãnh đạo các hợp tác xã đó theo tinh thần cộng sản. Bên cạnh đó chính quyền Xô Viết trung ương thực hiện việc phân phối công bằng lương thực trong xã hội, từng bước khôi phục công nghiệp và bảo đảm việc sản xuất và phân phối XHCN một cách đúng đắn, bảo đảm toàn bộ nền trật tự xã hội. Nhà nước đã thay đổi chế độ trưng thu là thuế lương thực, việc kiểm kê và giám sát được áp dụng khắp nơi một cách phổ biến tuyệt đối về số lượng lao động và phân phối sản phẩm. Đó thực chất là cuộc cải tạo XHCN, một khi giai cấp vô sản đã giành được và bảo đảm được nền thống trị chính trị. Nhà nước Xô Viết thành công trong việc phân phối công bằng còn do đã biết biến những công việc trên trở thành sự nghiệp của quần chúng nhân dân, Nhà nước cùng nhân dân phối hợp thực hiện
1.3.2/Kinh nghiệm một số nước của các nước Asean về
quan hệ phân phôi
Trong kho tàng kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước ASEAN thì vấn đề điều tiết thu nhập đang được các nhà kinh tế thế giới nói chung và Việt nam nói riêng lưu tâm nghiên cứu . Những thành công và cả những thất bại của họ lằnhững bài học quý giá đối với chúng ta ,đặc biệt là chuyển sang nền kinh tế thị trường hiện nay
Là một quốc gia giàu có , có thu nhập cao trong khu vực cũng như trên thế giới nên việc giảm bớt nghèo khổ,chênh lệch có những đặc điểm khác.Quốc đảo này có tỉ lệ thất nghiệp nhỏ và mức lương tối thiểu đã làm cho tỉ lệ nghèo từ 19%những năm 53-54 giảm xuống còn 0,3% vào những năm1982-1983.Một chiến lược quan trọng nhằm làm giảm nghèo khổ là đàu tư vào con người.Chi phí giáo dục tăng nhanh từ đầu những năm 80 trở đi,chủ yếu là tập trung cho các lĩnh vực kĩ thuật, đào tạo chuyên ngành.Mặt khác từ đầu năm 1979 các chính sách được áp dụng đéu khuyến khích công nhân có tay nghê cao. Chính sự can thiệp mạnh mẽ cuả nhà nước vào thị trường lao động và giáo dục có tác động tạo nên nguồn vốn nhân lực trong các hộ gia đình và các cá nhân.Nó giúp cho mọi cá nhân có cơ hội có được việc làm tốt hơn.
Trong những thập niên 60-70 sự phát triển kinh tế đi kèm theo sự gia tăng bất bình đẳng trong thu nhập.Những nhà tư sản người Hoa và quan chức hành chính người Mã lai là những người được hưởng phần lớn kết quả của quá trình tăng trưởng kinh tế này.Điều này đã gây ra một số vụ bạo loạn vào cuối những năm đó.Các chính sách kinh tế được đưa ra nhưng hiệu quả nó đem lại thì không được là bao.Ví dụ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân,chính phủ Mã lai đã tập trung nguồn lực nhằm tăng năng xuất lao động nhưng thực tế người dân Mã lai lại có rất ít tài nguyên kinh tế,đặc biệt là tài nguyên ruộng đất.Tại Mã lai chi phí từ ngân sách cho các dịch vụ xã hội tăng liên tục tư các năm 1970-1988(1970-1975:chi phí cho các dịch vụ xã hội chiếm 18% tổng ngân sách,giai đoạn 1976-1980 chiếm 24%,giai đoạn năm 1981-1985chiếm 35%và giai đoạn 1986-1988 chiếm 37%).Trong các dịch vụ này thì giáo dục được ưu tiên hàng đầu tiếp theo đó là các dịch vụ khác như:y tế ,nhà ở,các dịch vụ chung…
1.4.2/ Inđônêxia
ở Inđônêxia các vấn đề được quan tâmchủ yếu là giáo dục và tạo việc làm.Từ những năm 60 chính phủ ở đây đã tiến hành các chính sách nhằm tăng cường việc làm ở khu vực nông thôn với một phần kinh phí do nhà nước cấp,phần còn lại do các chương trình viện trợ.Nhờ chương trình này mà giai đoạn từ1976 đến 1987 số dân sống dưới mức nghèo khổ đã giảm từ 54.000.000 xuống còn 30.000.000.tỉ lệ nghèo khổ ở nông thôn giảm nhanh hơn so với ở thành thị.Tại quốc gia này các tổ chức phi chính phủ có đóng góp to lớn trong việc tiếp cận,giúp đỡ tầng lớp nghèo khổ dưới các hình thức như:tư vấn,giúp đỡ sản xuất, huấn luyện nghiên cứu …Hoạt động của các tổ chức này đã ghóp phần giảm bớt gành nặng cho chình phủ Indonexia do có một số nơi mà hệ thồng quản lí của chính phủ cũng không thể với tới được.Với tư cách là người trung gian họ chuyển những nguyện của người nghèo đến với chính phủ sở tại.
1.4.3/ Malayxia
ở Malayxia trong những thập niên 60 – 70 sự phát triển kinh tế kèm theo sự gia tăng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập những nhà tư sản người hoa và các quan chức hành chính, chính trị người Malay là những người được hưởng thụ phần lớn kết quả của sự tăng trưởng kinh tế nhanh của những năm 60 . Hậu quả là các quan hệ xã hội trở nên hét sức căng thẳngcác vụ bạo động lật đổ đã nổ ra vào cuối những năm đó. Khi những người được gọi là TURKS trẻ nên nắm chính quyền đã đưa ra chính sách kinh tế mới, tạo điều kiện về mặt kinh tế xã hội nhằm đạt được sự đoàn kết dân tộc trên cơ sở chính sách tái phân phối thu nhập công bằng hơnnhờ đó mà tỷ lệ người nghèo ở Malayxia đã giảm từ 49,3 % xuống còn 17,3 %. Tuy nhiên việc giảm tỷ lệ nghèo ở Malayxia chủ yếu là kết quả của mức tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm chứ không phải do thu nhập nhiều hơn. ở Malayxia chi phí từ ngân sách cho các hoạt động xã hội tăng liên tục từ 18 % trong suốt thời kỳ 1970 đến 37 % trong thời kỳ 1988. Trong các dịch vụ xã hội thì giáo dục được dành vị trí ưu tiên hàng đầu, tiếp theo là nhà ở, y tế và các dịch vụ chung. Nhờ nỗ nực của chính phủ và sự phát triển kinh tế chủa xã hội nói chung tỷ lệ học sinh sơ cấp tăng từ 88 % lên 96,4 %. Các chỉ số về y tế như tỷ lệ sinh tỷ lệ chết tuổi thọ trung bình đều có những tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên , việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của những người nghèo vẫn còn là vấn đề cần quan tâm.
1.4.4/ Philippin
Khi nghiên cứu tình trạng nghèo khổ ở Philippin các nhà kinh tế đã chỉ ra một số nguyên nhân sau:
+.Nguồn cung cấp lao động tăng nhanh dẫn tới thất nghiệp và lương thấp.
+.Mô hình đầu tư công nghiệp với cường độ vốn tăng nhanh đã làm giảm khả năng thu hút lao động
+.Sự thiếu hụt về việc làm đã dẫn đến tình trạng nguồn nhân lực nông thôn không chuyển được sang các nghành thứ yếu khác.
+.Sự phân phối đất đai khá chênh lệch.
+.Những sai lầm trong chiến lược công nghiệp hoá như:bảo hộ quá mức,tập trung quá nhiều nguồn lực vào trong thành phố...
Trên đây là một số vấn đề mà Philippin gặp trong việc phân phối .Thậm chí trong chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá Philippin cũng tập trung quá nhiều vào thành thị,chính sách phân phối có lợi cho người có thu nhập cao.Hệ thống thuế chủ yếu dựa vào thuế gián thu.Các gia đình có thu nhập cao chỉ phải đóng 12%,trong đó các gia đình có thu nhập thấp lại phải đóng tới 20%.Chương trình giảm nghèo khổ có mục đích chính là thực hiện một sự phân phối công bằng hơn trên cơ sở phân phối một cách hợp lí hơn.
1.4.5/ Singapore
Là một đất nước giầu có và có thu nhập cao sự tăng trưởng kinh tế cao và liên tục trong nhiều thập niên đã làm cho việc xoá bỏ nghèo khổ ở đây ít nan giải hơn tỷ lệ nghèo tuyệt dối giảm từ19 % xuống còn chỉ 13 %. Trong những năm gần đây, chính phủ Singapore đã có những cố gắng đáng khể để tăng kỹ năng và chất lượng của toàn bộ lực lượng lao động. Chi phí cho giáo dục tăng nhanh từ đầu năm 80 trở đi, chủ yếu là tập chung vào các lĩnh vực đào tạo chuyên ngành.
ở Singapơre có sự can thiệp của nhà nước về thị trường lao động và giáo dục có tác dụng tạo nên nguồn vốn nhân lực trong các hộ gia đình và cá nhân. Các biện pháp trên tuy không trực tiếp loại bỏ mức thu nhập thấp và những bất bình đẳng về của cải. Nhưng nó đã giúp cho mọi cá nhân có cơ hội công suất phản kháng được việc làm tốt với mức thu nhập xứng đáng.
1.5. Vai trò của chính phủ
Đứng trước xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới, bằng những gì đã thu nhập được qua kinh nghiệm của một số nước. Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương cụ thể nhằm hoàn thiện mô hình phân phối, tiến tới kiện toàn nền kinh tế, hoàn thiện công bằng dân chủ văn minh. Trước mục tiêu đó chúng ta cần giải quyết những vấn đề sau:
Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất bởi như một số nhà kinh tế nói: Phân phối về căn bản là phụ thuộc vào số lượng sản phẩm được phân phối. Một lực lượng sản xuất được đào tạo một cách bài bản có chuyên môn sẽ là tiền đề phát triển nền kinh tế.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương, chống chủ nghĩa bình quân thu nhập gây ra tình trạng bất hợp lý. Nhằm hoàn thành mục tiêu này chúng ta phải gắn tiền công, tiền lương với năng suất chất lượng và hiệu quả lao động. Nghiêm trị những kẻ có thu nhập bất chính, xoá bỏ những đặc quyền đặc lợi trong phân phối.
Thứ ba, điều tiết thu nhập dân cư hạn chế sự chênh lệch về mức thu nhập.
Điều tiết thu nhập là một yêu cầu khách quan trong nền kinh tế thị trường nói chung và của nước ta nói riêng nhằm hạn chế sự chênh lệch quá đáng về thu nhập để không dẫn tới sự phân hoá xã hội, hình thành hai cực đối lập. Công cụ điều tiết thu nhập có thể là hình thức tự nguyện đóng góp của cá nhân có thu nhập cao vào quỹ phúc lợi xã hội từ thiện…
Những điều đó nhằm trợ giúp thường xuyên cho những người có thu nhập thấp, trợ giúp những người thất nghiệp, những người tham gia bảo hiểm khi gặp rủi ro, bổ sung thu nhập mang tính bình quân trong các tổ chức doanh nghiệp vào các dịp lễ tết…
Thứ tư, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo, mục tiêu đầu tiên của chúng ta là khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề phát triển sản xuất, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Phân bố lại dân cư trên địa bàn cả nước mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Tạo điều kiện cho mọi người tự tạo tự kiếm việc làm.
chương 2
thực trạng quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay và một số giải pháp nhằm hoàn thiện quanhệ phân phối ở nước ta trong thời gian tới
2.1 Thực trạng quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay
Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung , quan liêu ,bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần , đa hình thức sở hữu đang nảy sinh những quan điểm mới về quan hệ phân phối. Để đánh giá được thực trạng phân phối ở nước ta hiện nay thì ta xem xét 3 nguyên tắc phân phối cơ bản :phân phoi theo lao động , phân phối theo tài sản vốn hay những đóng góp khác ,phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội .Tương ứng với nguyên tắc phân phối theo lao động co hình thức tiềnlương và tiền thưởng . Trong đó, chính sách tiền lương và tiền công lao động là đặc biệt quan trọng vì nó thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước trong sự hình thành và phân phối thu nhập trong điều kiện của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
2.1.1 /Thực trạng về chính sách tiền lương
Cùng với quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường là quá trình chúng ta dần thừa nhận sức lao động là hàng hoá. Một khi sức lao động trở thành hàng hoá, thì người có sức lao động hoàn toàn có quyền tự do bán sức lao động của mình theo những hợp đồng lao động nhất định và khi đó các chủ doanh nghiệp sử dụng sức lao động phải trả công cho họ theo đúng những cam kết trong hợp đồng đã ký. Sau quá trình làm cho các chủ doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế quốc doanh, người lao động nhận được một khoản thu nhập gắn với kết quả lao động của họ. Về nguyên tắc khoản thu nhập đó phải tương xứng với số lượng và chất lượng lao động mà mỗi người đã cống hiến. Số thu nhập theo lao động đó gọi là tiền lương. Hay nói cách khác tiền lương chính là hình thức thu nhập theo lao động.
Với tư cách là một phạm trù kinh tế, tiền lương là sự biểu hiện của bộ phận cơ bánp cần thiết được tạo ra trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế quốc doanh để đi vào tiêu dùng cá nhân của người lao động, tương ứng với số lượng và chất lượng lao động mà họ đã hao phí trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Về cơ cấu tiền lương bao gồm hai phần: phần tiền lương cơ bản và phần tiền lương bổ sung (tiền thưởng). Trong đó phần tiền lương cơ bản phụ thuộc vào thang lương, bậc lương của mỗi người, phần tiền thưởng phụ thuộc vào kết quả hoạt động của đơn vị. Việc xác định hợp lý và chính xác bậc lương, ngạch lương theo từng ngành và theo từng khu vực có tính đến trình độ chuyên môn và điều kiện lao động có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Điều đó thúc đẩy những người lao động quan tâm hơn nữa tới việc hoàn thành các công việc được giao. Khi đó họ hoàn toàn phấn khởi vì đã hiểu ra rằng trước hết, họ làm việc cho chính mình và tiếp đến là làm việc cho xã hội.
Việc cải cách tiền lương diễn raliên tục bắt đầu từ khi ban hành nghị định 235/HDBT tháng 9 năm 1985 đến đầu năm 1993, Nhà nước đã phải điều chỉnh tiền lương 21 lần.Về cơ chế của chính sách tiền lương .Nhà nước trực tiếp định mức lao động ,định mức tiền lương duyệt quỹ lương ,bảng lương bậc ,bậc lương cụ thể chocác đơn vị sản suất kinh doanh phải thực hiện .Chuyển sangmột cơ chế mới ,trong đó tiền lương đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh chỉ còn là thông số để tính toán ,Nhà nước khống chế lương tối thiểu, khống chế thu nhập tối đa .
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nứơc ,có lĩnh vực chuyển nhanh như xác định tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, có lĩnh vực chưa chuyển lập như cơ chế kiểm soát và điều tiết tiền lương ,thu nhập của nhà nước khi các đơn vị kinh tế chuyển sang kinh doanh ,vv…
Chính sách tiền lương theo Nghị định 235/HĐBT chỉ giữ được thời gian ngắn ,sau đó tiền lương thực tế bắt đầu giảm mạnh và giảm liên tục .Trên thực tế diễn ra tình hình tốc độ tăng lương danh nghĩa chậm hơn tốc độ tăng giá .
Trước tình hình biến động của giá làm cho tiền lương thực tế ,đời sống của dân cư nói chung ngày càng sa sút ,đã gây ra sự phản ứng của các đối tượng trong xã hội.Cụ thể là :
* ở bộ máy nhà nước các cấp:mặc dù nhà nước trung ương đã có biện pháp che chắn kiểm soát liên tục ,nhưng một số địa phưong tựđịnh lại mức lương tối thiểu vidụ, Long an nâng lên hai lần ….không theo chính sách chung .
* ở các đơn vị sản xúât –kinh doanh :dựa vào quyền tự chủ kinh doanh và những sơ hở của cơ chế quản lý đang trong bứơc giao thời , đều tìn mọi cách tăng thu nhập cho mình .Nhìn xí nghiệp làm ăn thua lỗ nhưng thu nhập của họ vẫn cao
* ở các đơn vị hành chính sự nghiệp :phải thực hiện theo nghị định 235/HĐBT.Nhưng lại được nhà nứơc cho phép mở ra các hoạt động dịch vụ đời sống đủ loại để tăng thu nhập .Toàn bộ những thực tế này đã tạo nên sự chênh lệch về thu nhập rất lớn ,mà phần lớn không phải sự chênh lệch đó là do tài năng lao động của họtạo ra .
* ở ngoài xã hội trong khi mức lương tối thiểu do nhà nước quy định là 22.500đ/tháng ,thì ngoài xã hội tiền công lao động trả cho người lao động binh thường là từ 3000-5000đ/công .Trong khi nhà nước quy định lương tối đa bằng 3,5 lần lương tối thiểu ,thì ngoài xã hội đang thực hiện băng 7-8 lần . Đặc biệt ở khu vực này tiền công đã được tiền tệ hoá hoàn toàn và đã tính đén quan hệ cung cầu về lao động . Nhưng đến Tháng 4-1993 nước ta thực hiện cải cách chính sách tiền lương, ban hành nghị định 25/CP và 26/CP về chế độ tiền lương cho công nhân viên chức khu vực khu vực hành chính sự nghiệp và sản xuất kinh doanh. Từ đó đến nay mặc dù các thang bảng lương và cơ chế quản ly chưa thay đổi, nhưng mức lương tối thiểu cũng thường xuyên thay đổi từ 1/4/1993 là 120.000 đ; 1/10/1997 là 144.000 đ; 1/1/2000 là 180.000đ đến 1/1/2001 là 210.000 đ; đến 1/1/2003 là 290.000 đ. Qua thời gian áp dụng chính sách lương mới vào cuộc sống thì việc phân phối đã công bằng hơn, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả công tác.
Qua những số liệu ở trên cho ta thấy thực trạng về vấn đề tiền lương ở nước ta trong thời gian qua chưa phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đang hoạt động trong một thị trường thống nhất .Tiền lương đó chưa thực sự là thước đo giá trị –lao động ,chưa đảm bảo tái sản xuất giản đơn và mở rộng sức lao động không ngừng ,chưa trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của ngưòi lao động làm công ăn lương
Tiền lương vừa mang tính chấ bình quân ,vừa mang tính chất bao cấp .Mặc dù từ giữa cuối năm 1993 chúng ta đang triển khai thí điểm chinh sách tiền lương mới nhưng trong đó vẫn còn chứa đựng nhiều ván đề bất hợp lí.
Thứ nhất, Tính đến tháng 12/1999, tổng các đối tượng là 6.2 triệu người chiếm 8% dân số, trong đó 66.9% thuộc 2 nhóm cuối- hưu trí và các chính sách xã hội. Trên thế giới không một quốc gia nào có tỷ lệ như vậy. Số cán bộ công chức đang làm việc thực tế chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ: khối quản lý hành chính Nhà nước chiếm 3.4% tổng số, khối sự nghiệp chiếm 18.4% tổng số, cán bộ cấp phường xã chiếm 6.2% tổng số.
Hai là mức tiền lương tối thiểu là quá thấp cho đến trước 1/1/2003. Đối với đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước (mức lương được xây dựng trên mức lương tối thiểu) thì tiền lương chỉ chiếm từ 20-30% thu nhập dẫn đến hiện tượng tiền lương chỉ còn là danh nghĩa và chủ yếu dùng làm căn cứ đóng bảo hiểm. Người lao động không quan tâm đến công việc chính của mình, dành nhiều thời gian, sức lực và trí tuệ làm các công việc khác để tăng thu nhập. Trong khi đối với lao động tại các doanh nghiệp, khi thu nhập chủ yếu là từ tiền lương, thì mức lương tối thiểu đã là 210.000(VND) đến 360.000(VND) đối với doanh nghiệp Nhà nước, 410.000(VND) đến 620.000(VND) đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy là mức lương tối thiểu (thực chất là mức lương cơ bản) cho đội ngũ công chức là không còn phù hợp nữa.
Ba là mặc dù lương tối thiểu và tối đa đã chênh lệch hơn 10 lần, tưởng chừng khắc phục được tình trạng bình quân trong phân phối, nhưng do sự chi tiết đến thái quá làm cho tiền lương rơi vào tình trạng bình quân chủ nghĩa. Khoảng cách giữa các bậc lương quá ngắn, thấp nhất là 0.09 và cao nhất là 0.43. bên cạnh đó lại có quá nhiều ngạch lương gây nên sự phức tạp không cần thiết. Đơn cử khu vực hành chính sự nghiệp hiện có 21 bảng lương và 196 thang lương tương ứng với 196 ngạch công chức. Hiện tượng không bao giờ đạt đến hệ số lương cao nhất là phổ biến. Cơ chế quản lý tiền lương hiện nay còn bộc lộ hàng loạt những yếu điểm quan trọng. Trước hết tiền lương chưa gắn với trách nhiệm và kết quả lao động. Chúng ta vẫn chủ yếu trả lương theo thâm niên, theo bậc chứ chưa trả lương theo chức vụ và gắn liền với nó là trách nhiệm, kết quả lao động hầu như không có tác động gì đến mức lương của người lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp.
Mô hình quản lý hành chính yếu kém dẫn đến việc các khoản chi là rất lãng phí, các nguồn thu thì không được công khai. Phần lớn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KC185.doc