MỤC LỤC
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT NHẬP KHẨU
1.1. Khái niệm và vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của xuất nhập khẩu
1.1.2. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu
1.2. Các yếu tố tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu
1.2.1. Yếu tố tác động tới xuất khẩu
1.2.2. Yếu tố tác động đến nhập khẩu
Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM NĂM 2009
2.1. Đánh giá chung về tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009
2.2. Mười điểm đáng chú ý về tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009
2.3. Thực trạng tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009
2.3.1. Giá trị và tốc độ tăng trưởng của xuất nhập khẩu năm 2009
2.3.2. Các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu của nước ta
2.4. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng giảm xuất khẩu và tăng nhập siêu của Việt Nam
2.4.1. Nguyên nhân làm giảm tỷ lệ xuất khẩu của Việt Nam năm 2009
2.4.2. Nguyên nhân làm cho nhập siêu năm 2009 tăng cao
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢI QUYẾT TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM NĂM 2009
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12712 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009, những giải pháp mà Chính phủ đã thực hiện để cải thiện tình hình xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăm 2009
Năm 2009, xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư trục tiếp nước ngoài (FDI) đạt 24,18 tỷ USD, chiếm 42,3% kim ngạch xuất khẩu của cả nước và nhập khẩu là 26,07 tỷ USD, giảm 6,5% so với năm 2008.
2.2. Mười điểm đáng chú ý về tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009
Xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009 đã có một năm “hụt hơi” và kém rất xa so với kim ngạch đạt được trong năm 2008. Khi kinh tế thế giới đi vào giai đoạn trì trệ, những giải pháp chính sách chỉ có thể thúc đẩy xuất khẩu Việt Nam tăng về mặt lượng. Nỗ lực từ phía chính phủ đang bị “hãm phanh” bởi các hàng rào kỹ thuật có xu hướng gia tăng trên thế giới, thay thế những bức tường chính sách được “đập bỏ” vì cam kết mở cửa và hội nhập. Theo đó là mười điểm đáng chú ý về tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009 đó là:
1.Chính phủ buộc phải điều chỉnh chỉ tiêu xuất khẩu
Sau kết quả tăng trưởng xuất khẩu xấp xỉ 30% trong năm 2008, cuối năm ngoái, chính phủ trình lên quốc hội một kế hoạch kinh tế đầy tham vọng, với kim ngạch xuất khẩu năm 2009 dự kiến đạt khoảng76,7 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2008. Cẩn trọng trước diễn biến kinh tế thế giới có chiều hướng đi xuống, gần 88% đại biểu quốc hội đã bỏ phiếu tán thành nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2009, trong đó tốc độ tăng trưởng xuất khẩu được điều chỉnh xuống còn 13%.
Tháng 1/2009, kim ngạch xuất khẩu xụt giảm mạnh, chỉ còn hơn 3,7 tỷ USD (năm 2008, kim ngạch xuất khẩu bình quân một tháng đạt gần 5,25 tỷ USD).
Dù hai tháng kế tiếp, xuất khẩu có phục hồi, nhưng tiếp đến là giai đoạn trầm lắng hơn với kim ngạch tháng 4 và 5/2009 chưa đầy 4,5 tỷ USD mỗi tháng. Trong các cuộc họp của Bộ Công Thương với các hiệp hội trong thời gian này, hầu hết các ngành hàng xuất khẩu chủ lực đều kiến nghị điều chỉnh giảm chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu, tiêu biểu là dệt may, gỗ, thuỷ sản…
Cuối tháng 5/2009, chính phủ buộc trình Quốc hội điều chỉnh kim ngạch xuất khẩu theo hướng giảm mạnh, từ mức 13% xuống còn 3%. Mục tiêu xuất khẩu được điều chỉnh xuống 34,6 tỷ USD kim ngạch.
Trong khoảng 4 tháng kế tiếp, liên tục xuất hiện các điều chỉnh trong ước tính kim ngạch xuất khẩu của Bộ Công Thương.
Cuối tháng 7/2009, Bộ Công Thương ước tính kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 61 tỷ USD, giảm 3% so với con số thực hiện năm 2008.
Trong 8 tháng đầu năm 2009, Việt Nam là nhà xuất khẩu hàng hóa tới Myanmar đứng thứ 14 sau các nước và vùng lãnh thổ: Singapore, Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Indonesia, Pháp, Australia, Hoa Kỳ, Đức, Đài Loan, Việt Nam.
Hàng hóa
8 tháng đầu năm 2009
Thép các loại
2.518.287
Nguyên phụ liệu may mặc
2.258.344
Thuốc chữa bệnh và thiết bị y tế
1.430.723
Ô tô
1.200.000
Nguyên phụ liệu các ngành công nghiệp khác
1.085.526
Xăm lốp các loại
867.890
Thiết bị điện và điện tử
804.042
Hoá chất
455.260
Phụ tùng máy móc
350.224
Nguyên phụ liệu sản xuất giày dép
345.666
Vật liệu xây dựng
318.513
Dụng cụ nhà bếp
316.989
Chất dẻo nguyên liệu
226.579
Nguyên liệu cho ngành công nghiệp thực phẩm
205.790
Nguyên liệu sản xuất xà phòng
173.583
Tái xuất sản phẩm chế tác đá quý
140.661
Mỹ phẩm
104.587
Máy tính điện tử và linh kiện
72.445
Tổng kim ngạch xuất khẩu
Theo số liệu của Cục Hải quan Myanmar
13.764.300
Theo số liệu của Tổng Cục Hải quan Việt Nam
14.000.000
Bảng 1:Kim ngạch xuất nhập khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam tới Myanma 8 tháng đầu năm 2009 được thể hiện qua bảng số liệu sau: (đơn vị tính: USD)
Trong nửa cuối tháng 9/2009, Bộ Công Thương tiếp tục đưa ra các dự báo mà con số được điều chỉnh xuống 59 tỷ USD (giảm khoảng 6,5%), tiếp đó là 56,7 tỷ USD (giảm khoảng 9,5%).
2. Lần đầu tiên sau 20 năm, xuất khẩu giảm so với trước
Kết thúc năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu ước tính đạt 56,584 tỷ USD, giảm 9,7% so với thực hiện năm 2008. So sánh với số liệu tương ứng từ năm 1986 trở lại đây, năm 2009 là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu giảm so với năm trước đó.Đóng góp vào việc giảm kim ngạch xuất khẩu trong năm 2009, dầu thô chiếm 69,7%. Tiếp đến giày dép chiếm khoảng 12,6%, cao su chiếm xấp xỉ 6,8%, cà phê 6,7%, gỗ và sản phẩm gỗ 4,7%, thuỷ sản 4,4%...
Về nhập khẩu, kim ngạch cả năm 2009 ước đạt 68,83 tỷ USD và giảm 14,7% so với năm 2008. Năm nay là năm thứ hai, sau năm 1998, kim ngạch nhập khẩu giảm so năm trước đó, nhưng mức độ giảm mạnh hơn.
Và theo như thống kê, trong 8 tháng đầu năm 2009, Việt Nam là nhà nhập khẩu hàng hoá từ Myanmar đứng thứ 13 sau các nước và vùng lãnh thổ: Thái Lan, Ấn Độ, Singapore, Hongkong, Trung Quốc, Bờ biển Ngà, Nhật Bản, Malaysia, Bangladesh, Nam Phi, Hàn Quốc, Đức, Việt Nam.
Hàng hóa
8 tháng đầu năm 2009
Gỗ tròn các loại
20.595.209
Mủ cao su Rss5
2.859.300
Đậu xanh
1.510.925
Cá khô
1.505.271
Cá biển đông lạnh
877.069
Đồng nguyên liệu
849.887
Tôm hùm
849.049
Cua biển
570.234
Dây thép
529.003
Đậu đen
360.431
Đậu tương,
181.500
Tổng kim ngạch nhập khẩu
Theo số liệu của Cục Hải quan Myanmar
32.411.273
Theo số liệu của Tổng Cục Hải quan Việt Nam
35.000.000
Bảng 2: Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chính của Việt Nam từ Myanmar trong 8 tháng đầu năm 2009 được thể hiện qua bảng số liệu sau: (đơn vị tính:USD)
Trong các nguyên nhân giảm kim ngạch xuất khẩu, xăng dầu chiếm 40%, sắt thép chiếm khoảng 13,2%, máy móc thiết bị dụng cụ và phương tiện chiếm 6,1%, nguyên phụ liệu dệt may, giày dép chiếm 3,5%... Với diễn biến này, độ mở nền kinh tế, theo cách hiểu là tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, đã giảm mạnh trong năm 2009, từ mức 143,4 tỷ USD của năm 2008 xuống chỉ còn trên 125,4 tỷ USD, giảm tới 12,6%.
3. Nhập siêu được kiềm chế
Diễn biến nhập siêu cũng chứng kiến nhiều bất thường trong năm 2009. Quý 1/2009, Việt Nam xuất siêu xấp xỉ 1,5 tỷ USD với cả 3 tháng đầu năm đều có xuất siêu, tuy nhiên xu thế này không duy trì được lâu. Trong 9 tháng còn lại của năm, nhập siêu gia tăng dần sức ép.
Quý 2/2009, nhập siêu đạt xấp xỉ 3,6 tỷ USD, xoá sạch thành tích xuất siêu của quý 1/2009. Tính cho đến giữa năm, Việt Nam đã nhập siêu gần 2,1 tỷ USD.
Sang quý 3/2009, nhập siêu của Việt Nam đột ngột tăng mạnh. Con số ghi nhận trong 3 tháng này đã đạt trên 4,67 tỷ USD. Quý 4/2009, nhập siêu vẫn duy trì ở mức cao, đạt khoảng 4,8 tỷ USD, trong đó riêng nhập siêu tháng 11/2009 đã vượt 2 tỷ USD.
So với con số nhập siêu trên 18 tỷ của năm 2008, năm nay chenh lệch thương mại quốc tế đã được kiềm chế chỉ còn khoảng 2/3, đạt gần 12,25 tỷ USD.
4. Giá hàng hoá xuất nhập khẩu giảm mạnh
Đa số các mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng về lượng. Nhưng giá của hầu hết các hàng hoá đều theo chiều hướng giảm mạnh. Trong năm vừa qua, cá biệt có mặt hàng giá bình quân cả năm giảm tới 40%.
Về phía xuất khẩu, giá dầu thô xuất bán bình quân cả năm chỉ đạt khoảng 46,3 tỷ USD, giảm tới 38,5% so với năm 2008 (giá xuất khẩu bình quân của năm 2008 đạt trên 75,3 USD). Tiếp đến giá cao su xuất khẩu đã giảm khoảng 32%, cà phê 27%, gạo 25%, than đá 26%, hạt tiêu 24%, hạt điều 13%... Đối với hàng dệt may, mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn hơn trong năm 2009, giá bình quân xuất khẩu trong năm 2009 đã giảm từ 10- 15% so với năm 2008 (theo ước tính của Hiệp hội Dệt may Việt Nam).
Giá hàng hoá nhập khẩu cũng giảm mạnh trong năm 2009. Bình quân, giá xăng dầu nhập khẩu đã giảm 42%, lúa mỳ giảm 40%, phân bón 35%, sắt thép 32%, chất dẻo 24%, sợi dệt 15%...
Do xuất khẩu tăng mạnh về lượng, những tính toán sơ bộ của Tổng cục Thống kê cho biết, chênh lệch xuất nhập khẩu năm nay vẫn đóng góp đáng kể vào tăng trưởng GDP, khoảng 30%. Nếu như tăng trưởng năm 2009 đạt 5,3% như tính toán của Tổng cục Thống kê thì đóng góp của xuất khẩu ròng năm 2009 vào khoảng 1,6% điểm.
5.Hàng nông nghiệp “thăng hoa”
Theo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm, thuỷ sản năm 2009 ước đạt khoảng 15,3 tỷ USD, trong đó nông sản đạt trên 8 tỷ USD, thuỷ sản trên 4 tỷ USD, lâm sản trên 2 tỷ USD…Với kết quả này, kim ngạch xuất khẩu ngành nông nghiệp năm 2009 đã vượt dự kiến hồi đầu năm (12 tỷ USD) và chỉ tiêu thủ tướng chính phủ giao (14 tỷ USD). Trong 2 tháng cuối năm, việc giá nhiều mặt hàng nông sản như gạo, cao su, hạt tiêu…tăng trở lại đã góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này.
Nhìn nhận những nhân tố đóng góp tích cực vào kết quả xuất khẩu năm 2009 thì trong 8 mặt hàng tác động kìm hãm sự suy giảm của kim ngạch xuất khẩu năm 2009 thì nhóm nông lâm,thuỷ sản chiếm một nửa. Đứng đầu là sắn và các sản phẩm sắn. Nhóm hàng này đạt tăng trưởng 52,8% về giá trị trong năm 2009 và đóng góp 3,2% vào việc kìm hãm giảm kim ngạch xuất khẩu. Tiếp đến là hạt tiêu tăng trưởng 14,3% và đóng góp 0,8%, chè 21,3% và 0,5%, cuối cùng là rau quả 6,1% và 0,4%.
6. “Ẩn số” xuất, nhập vàng
Năm 2009 cũng chứng kiến một nhân tố gây đột biến lớn tới kim ngạch xuất nhập khẩu, đó là vàng vật chất. Theo Tổng cục Thống kê, tái xuất vàng quý 1/2009 khoảng 2,287 tỷ USD. Đây cũng là động lực chính khiến Việt Nam xuất siêu trong giai đoạn này. Tính chung cả năm, xuất khẩu nhóm đá qúy, kim loại quý và sản phẩm đã đạt trên 2,7 tỷ USD kim ngạch. Nhân tố này đóng góp tới 32,4% tổng các cản lực đối với suy giảm kim ngạch xuất khẩu.
Cũng liên quan đến diễn biến khá bất thường này, nhiều ý kiến đã chỉ trích Tổng cục Thống kê về việc đưa vàng vào kim ngạch xuất khẩu chung cả nước, cho rằng động thái này nhằm để làm đẹp con số, và vàng không phải là hàng hoá thông thường. Trong một diễn biến ngược chiều, đến cuối năm 2009, trước việc giá vàng trong nước đã lên quá cao, có độ chênh lệch lớn so với mặt bằng giá thế giới, ngân hàng nhà nước ra quyết định cho phép nhập khẩu một số lượng lớn vàng vật chất.
Theo số liệu của cơ quan thống kê, riêng tháng 11/2009, kim ngạch nhập khẩu vàng đã trên 337 tỷ USD. Nếu tính giá vàng ở mức 1100- 1200 USD/oz (1 Troy oz =31,1 gam), lượng vàng nhập khẩu vào Việt Nam trong tháng 11/2009 tương đương khoảng 9 – 10 tấn.
7. Điều chỉnh tỷ giá
Từ biên độ +/-3% được công bố cuối năm 2008, sang đến tháng 3/2009, biên độ tỷ giá VND/USD được điều chỉnh lên +/-5% với tỷ giá bình quân liên ngân hàng sau lần điều chỉnh cuối cùng ở mức 17.034 VND/USD. Cũng trong thời gian này, trên thị trường tự do giá USD liên tục tăng cao. Chỉ số giá USD bình quân năm 2009 đã tăng 9,17% so với năm trước đó, gây sức ép rất lớn lên chính sách tỷ giá của ngân hàng Nhà nước. Trên thực tế, giá mua và bán được các ngân hàng thương mại công bố liên tục kịch trần, nhiều thời điểm các ngân hàng niêm yết giá mua bằng với giá bán.
Trong các giao dịch mua ngoại tệ với ngân hàng, nhiều doanh nghiệp luôn phải chấp nhận tính thêm vào giá USD chính thức một vài loại chi phí khác. Phần chênh lệch này được các doanh nghiệp gọi đùa là “chi phí không biết đưa vào đâu”.
Cục thống kê Lao Động Hoa Kỳ công bố hôm 16/12 cho biết, lạm phát khu vực thành thị trong vòng một năm qua, tính đến tháng 11/2009 đã tăng 1,8%. Trong khi đó lạm phát tại Việt Nam trong 12 tháng qua đã trên 6,5%. Trước những sức ép kể trên, ngày 25/11, ngân hàng nhà nước Việt Nam đã công bố mức tỷ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng áp dụng cho ngày 26/11/2009 là 17.961 và biên độ được thu hẹp về còn +/-3%.
9. Kiện chống phá giá tăng
Theo hội đồng trọng tài quốc tế Việt Nam, tính đến hết tháng 7/2009, Việt Nam bị kiện chống phá giá 39 vụ, tỷ lệ thua kiện gần 70% đứng thứ 7 trong 100 nước bị kiện nhiều nhất thế giới. Tuy nhiên, đó chưa phải là con số cuối cùng. Trong năm nay, nhiều vụ kiện chống bán phá giá mới lại tiếp tục, đáng chú ý có các vụ như sau:
Ngày 27/2, Canada chính thức khởi xướng vụ điều tra chống bán phá giá đối với giầy và đế giầy cao su không thấm nước Việt Nam.
Ngày 31/3, hai công ty nhựa Hoa Kỳ đã gửi đơn kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với túi nhựa PE Việt Nam.
Ngày 25/7, Cục điều tra trợ cấp và bán phá giá Thổ Nhĩ Kỳ ra quyết định số 2009/26 về việc khởi xướng điều tra chống lẩn tránh thuế đối với sản phẩm máy điều hoà có xuất xứ từ Việt Nam, Indonesia, Philippin, Pakistan và Ai Cập.
Ngày 8/9, Bộ thương mại Hoa Kỳ (DOC) điều chỉnh mức thuế chống bán phá giá đối với cả ba đơn vị bắt buộc Minh Phu Corp (từ 1,66% xuống 0,43%), Phuong Nam (từ 5,6% xuống 0,21%), và Caminex (từ 19,8% xuống mức 0,08%).
Ngày 22/12, Liên minh châu Âu (EU) đã bỏ phiếu chính thức thông qua đề xuất của uỷ ban châu Âu (EC) kéo dài thêm 15 tháng thời hạn áp thuế chống bán phá giá đối với giày mũ da nhập khẩu của Việt Nam. Mức thuế mà EC áp đặt với giày dép nhập khẩu từ Việt Nam là 10%.
10. Thi nhau dựng rào cản kỹ thuật
Khủng hoảng kinh tế khiến các rào cản thương mại được dựng lên ngày càng nhiều. Các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang phải đầu tư, chi phí cả nhân lực và vốn, thiết bị để đáp ứng các yêu cầu mới.
Liên quan đến thị trường Hoa Kỳ, Đạo luật Lacey sửa đổi, đạo luật Nông nghiệp Mỹ 2008 (Farm Bill 2008), đạo luật cải tiến an toàn sản phẩm tiêu dùng đều yêu cầu cung cấp chứng nhận xuất xứ sản phẩm, kiểm tra hoá chất, an toàn cháy…Những thay đổi này sẽ tác động trực tiếp đến xuất khẩu nông sản, hải sản, đồ gỗ, dệt may, hàng tiêu dùng…
Đạo luật FLEGT của EU quy định tất cả các chuyến hàng gỗ xuất khẩu vào thị trường EU chỉ được cơ quan thẩm quyền cấp phép sau khi kiểm tra nguồn gốc xuất xứ. Quy định IUU (cũng của EU) bắt buộc mỗi lô hàng thuỷ sản xuất khẩu sang EU phải tuân thủ quy định về khai thác hợp pháp, phải có cam kết của nhà máy chế biến về nguồn gốc sản phẩm.
Hàn Quốc cũng thắt chặt kiểm tra các sản phẩm nhập khẩu theo hình thức OEM (Original Equipment Manufacturing). Các doanh nghiệp Hàn Quốc nhập khẩu sản phẩm từ các công ty gia công ơ nước ngoài cần phải kiểm tra cơ sở sản xuất ít nhất một lần trong một năm.
2.3. Thực trạng tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009
2.3.1. Giá trị và tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009
Mức nhập siêu năm 2009 của Việt Nam thấp hơn nhiều con số của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra. Nhập siêu năm 2009 ước tính lên tới 12,246 tỷ USD, báo cáo tình hình xuất nhập khẩu của tổng cục thống kê công bố cho biết như vậy.
Nhập siêu năm 2009 bằng khoảng 21,6% tổng kim ngạch xuất khẩu
Con số của tổng cục thống kê cho biết thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra.
Tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm 2009 ước tính đạt 56,584 tỷ USD, giảm 9,7 % so với thực hiện năm 2008. Bên phía nhập khẩu, các con số tương ứng là 68,83 tỷ USD và giảm 14,7% so với thực hiện. Như vậy, nhập siêu năm 2009 bằng khoảng 21,6% tổng kim ngạch xuất khẩu ( năm 2008 khoảng 28,5%) . Do sự sụt giảm kim ngạch cả xuất khẩu và nhập khẩu, quy mô giao dịch thương mại quốc tế của Việt Nam năm 2009 đã giảm nhiều. Tổng xuất khẩu cả năm ước tính chỉ còn trên 125,4 tỷ USD, giảm 12,6% so với năm 2008 (143,4 tỷ USD). Số liệu cho thấy, hoạt động xuất khẩu có chiều hướng tăng trong 3 tháng đầu năm với lượng kim ngạch lớn đem về từ tái xuất vàng (2.287 tỷ USD), tuy nhiên sau đó, xuất khẩu lại sụt giảm khoảng 20% trong tháng 4, để rồi tăng dần đến cuối năm, đan xen bằng những tháng giảm kim ngạch. Về phía nhập khẩu, kim ngạch tăng liên tục 7 tháng đầu năm, sau đó giảm khoảng 8% trong tháng 8, tiếp tục tăng trong 3 tháng sau đó, trước khi điều chỉnh nhẹ trong tháng cuối cùng của năm.
Đáng chú ý, trong trong 3 tháng cuối năm cán cân thương mại đã có sự đổi chiều ngoạn mục. Trong khi xuất khẩu thực hiện tháng 11 chỉ đạt mức 4,686 tỷ USD, giảm tới 10% từ 5,206 tỷ USD của tháng trước đó, nhập khẩu lại tăng nhẹ và đạt mức kỷ lục 6,767 tỷ USD trong tháng 11 năm 2009.
Biểu đồ 2: Biểu đồ xuất, nhập khẩu và chênh lệch xuất khẩu so với nhập khẩu qua các tháng năm 2009 - Nguồn: Tổng cục Thống kê
Nhìn vào từng mặt hàng xuất nhập khẩu, tình hình không có sự biến động lớn. Trong 25 mặt hàng xuất khẩu được liệt kê, so với thực hiện năm 2008, chỉ có dầu thô giảm về lượng ( âm 2,4%) do đã dành hơn 2 triệu tấn cho nhà máy lọc dầu Dung Quất. Các mặt hàng còn lại đều tăng. Tuy nhiên, do giá giảm mạnh nên kim ngạch đa số các mặt hàng đều giảm so với năm 2008 ( chỉ có 8 mặt hàng tăng).
Tương tự, trong 27 mặt hàng nhập khẩu, đa số tăng về lượng (chỉ có 3 mặt hàng giảm), nhưng số mặt hàng tăng về giá trị cũng không nhiều (9 mặt hàng). Liên quan đến hoạt động nhập khẩu vàng trong hai tháng cuối năm 2009, thì theo một nguồn tin từ Tổng cục Thống kê, kim ngạch nhập khẩu vàng tháng 11 năm 2009 đạt trên 337 triệu USD và được tính chung vào nhóm hàng hoá khác, không có thống kê riêng.
Theo ước tính của VnEconomy, lượng vàng nhập khẩu tương ứng khoảng 9- 10 tấn và theo nguồn tin này thì kim ngạch nhập khẩu vàng trong tháng 12 năm 2009 là không đáng kể.
Như vậy, kết quả xuất nhập khẩu năm 2009 đã khép lại với xuất khẩu, nhập khẩu và nhập siêu không thực hiện đựơc như kế hoạch đã đề ra. Tuy nhiên, mức giảm nhập siêu so với năm 2008 ít nhiều đã tạo thuận lợi cho việc ổn định kinh tế vĩ mô trong năm 2009.
2.3.2 Các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu của nước ta năm 2009.
a. Một số mặt hàng xuất khẩu chính
* Dầu thô
Lượng xuất khẩu trong tháng 12 là 713 nghìn tấn, tăng 8,3% so với tháng 11, kim ngạch đạt 426 triệu USD.
Tính đến hết tháng 12/2009, lượng dầu thô xuất khẩu của nước ta đạt 13,4 triệu tấn, giảm 2,8% so với năm 2008. Đơn giá xuất khẩu bình quân giảm mạnh 38,5% so với năm trước (tương ứng giảm 290 USD/tấn) nên kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này cả năm chỉ đạt 6,19 tỷ, giảm 40,2%. Trong năm qua, dầu thô của nước ta chủ yếu được xuất khẩu sang Ôxtrâylia với 3,33 triệu tấn, giảm 20,1 so với năm 2008; sang Singapore là 2,25 triệu tấn, tăng 9,5%; sang Malaysia là 1,79 triệu tấn, tăng 50,2%; sang Hoa Kỳ là 1,06 triệu tấn, giảm 27,5% so với năm 2008…
Biểu đồ 3:Lượng và đơn giá dầu thô xuất khẩu từ năm 1999- 2009
* Cà phê
Lượng xuất khẩu cà phê trong tháng 12 đạt 145 nghìn tấn, tăng 79,3% so với tháng trước, nâng tổng lượng xuất khẩu cả năm lên 1,18 triệu tấn, tăng 11,75 so với năm 2008. Do đơn giá xuất khẩu bình quân giảm 26,6% nên trị giá chỉ là 1,73 tỷ USD, giảm 18% so với năm trước.
Các thị trường chính nhập khẩu cà phê Việt Nam trong 12 tháng qua là Đức: 136 nghìn tấn, tăng 0,2% so với năm 2008; Bỉ: 132 nghìn tấn, tăng 49,5%; Hoa Kỳ: 128 nghìn tấn, tăng 20,4%; Italia: 96,2 nghìn tấn, tăng 11,3%...
* Hạt điều
Lượng xuất khẩu hạt điều trong tháng 12 là 15,5 nghìn tấn, tăng 3,1% so với tháng 11, nâng tổng lượng xuất khẩu của cả nước trong 12 tháng qua là 177 nghìn tấn, tăng 7,1% và đạt kim ngạch là 847 triệu USD, giảm 7,2% so với năm 2008.
Năm 2009, hạt điều của nước ta chủ yếu xuất sang Hoa Kỳ với 53,3 nghìn tấn, tăng 9,4% so với năm trước và chiếm 30,1% lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước. Tiếp theo là thị trường Trung Quốc: 38,5 nghìn tấn, tăng 25,7%; Hà Lan: 24,4 nghìn tấn, giảm 12,2%; Úc: 11,9 nghìn tấn, tăng 3,5%...
* Than đá
Lượng xuất khẩu trong tháng 12 là 2,42 triệu tấn, giảm 6,7% so với tháng trước, nâng tổng lượng than xuất khẩu của cả nước năm 2009 lên gần 25 triệu tấn, tăng 29,1% và đạt kim ngạch 1,32 tỷ USD, giảm 5,15% so với năm trước.
Trong năm 2009, than đá của nước ta chủ yếu xuất sang thị trường Trung Quốc với 20,5 triệu tấn, chiếm 81,8% tổng lượng xuất khẩu hàng này của cả nước. Tiếp theo là thị trường Hàn Quốc: 1,78 triệu tấn, Nhật Bản: 1,38 triệu tấn, Thái Lan: 608 nghìn tấn…
* Gạo
Năm 2009, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam lên mức kỷ lục với 5,96 triệu tấn, tăng 25,7% so với năm 2008. Tuy vậy, giá xuất khẩu bình quân giảm 26,8% ( tương ứng giảm 163USD/ tấn) nên trị giá là 2,66 tỷ USD giảm 8% so với năm trước.
Năm 2009, Việt Nam xuất khẩu gạo sang châu Á đạt 3,21 triệu tấn, tăng 19,9% so với năm 2008 và chiếm 53,8% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước (trong đó, Philippin tiếp tục là nước dẫn đầu với 1,71 triệu tấn, tăng 41,7%; châu Mỹ: 497 nghìn tấn, giảm 9,2% so với năm trước…
* Cao su
Lượng xuất khẩu trong tháng 12 đạt 90,4 nghìn tấn, nâng tổng lượng xuất khẩu mặt hàng này cả năm đạt 731 nghìn tấn, tăng 11,1% so với năm 2008. Mặc dù vậy, do giá xuất khẩu bình quân giảm mạnh đến 31,1% nên kim ngạch chỉ đạt 1,23 tỷ USD, giảm 23,5% so với năm trước.
Trung Quốc tiếp tục là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu cao su của Việt Nam trong năm qua với 510 nghìn tấn (chiếm 69,6% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước), tăng 18,4% so với năm 2008. Tiếp theo là sang Malaysia : 30,1 nghìn tấn, tăng 43,3% ; sang Hàn Quốc : 28,3 nghìn tấn, giảm 2,4% ; sang Đài Loan : 25 nghìn tấn, tăng 18,1% ; sang Đức : 21,4 nghìn tấn, giảm 12,4%...
Biểu đồ 4: Lượng cao su xuất khẩu theo tháng các năm 2006- 2009
Biểu đồ 5: Lượng gạo xuất khẩu theo tháng các năm 2006- 2009
* Hàng dệt may
Tháng 12/2009, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam là 882 triệu USD, tăng 20,8% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch nhóm hàng này lên 9,06 tỷ USD, giảm 0,6% so với năm 2008.
Năm 2009, Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản tiếp tục là 3 đối tác lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam, chiếm tỷ trọng xuất khẩu lần lượt là 55,1% ; 18,2% và 10,5% trong tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tuy nhiên so với năm 2008, chỉ có xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản là có tốc độ tăng trưởng dương (tăng 16,3%) đạt kim ngạch 954 triệu USD còn thị trường Hoa Kỳ đạt 4,99 tỷ USD, giảm 2,25 và EU đạt 1,65 tỷ USD, giảm 3,1%.
* Giày dép các loại
Trong tháng 12, xuất khẩu nhóm hàng này là 472 triệu USD, tăng 37,6% so với tháng 11, nâng tổng trị giá xuất khẩu cả năm lên 4,07 tỷ USD, giảm 14,7% so với năm 2008 và chiếm 48,5% trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tiếp theo là sang thị trường Hoa Kỳ: 1,04 tỷ USD, giảm 3,4%; sang Mexico: 138 triệu USD, giảm 10,1%; sang Nhật Bản : 122 triệu USD, giảm 10,9%;…
* Hàng thuỷ sản
Năm 2009, hàng thuỷ sản của nước ta xuất khẩu đạt kim ngạch 4,25 tỷ USD, giảm 5,7% so với năm 2008 (nhưng tăng 14,2% so với năm 2007). Trong đó, tôm đạt 211 nghìn tấn với trị giá: 1,69 tỷ USD; cá tra và cá Basa đạt 614 nghìn tấn, trị giá: 1,36 tỷ USD.
Loại
thuỷ sản
Năm 2008
Năm 2009
Tốc độ tăng/giảm (%)
Lượng (nghìn tấn)
Trị giá
(triệu USD)
Lượng (nghìn tấn)
Trị giá
(triệu USD)
Lượng
Trị giá
Cá Tra & Basa
644
1.460
614
1.357
-4,7
-7,1
Tôm
192
1.630
211
1.692
9,8
3,8
Loại khác
403
1.419
408
1.203
1,2
-15,3
Tổng cộng
1.239
4.510
1.232
4.251
-0,5
-5,7
Bảng 3: Lượng, kim ngạch, tốc độ tăng/giảm xuất khẩu thuỷ sản năm 2009 so với năm 2008
Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang các đối tác lớn trong năm qua như sau: thị trường EU đạt 1,12 tỷ USD, giảm 2,9%; sang Nhật Bản đạt 761 triệu USD, giảm 8,4%; sang Hoa Kỳ đạt 711 triệu USD, giảm 3,8%....
* Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
Trong hai tháng cuối năm, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này liên tục giảm từ hơn 284 triệu USD của tháng 10 xuống 274 triệu USD trong tháng 11 và tháng 12 là 260 triệu USD. Nhưng tính đến hết năm, kim ngạch xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm và linh kiện điện tử đạt 2,76 tỷ USD, tăng 4,6% so với năm trước.
Các thị trường chính trong năm 2009 cho sản phẩm này là Hoa Kỳ với 433 triệu USD, tăng 41,2%; Nhật Bản: 381 triệu USD, tăng 1,4%; Thái Lan: 288 triệu USD, giảm 28,8%; Trung Quốc 287 triệu USD, tăng 4,9%...
* Máy móc thiết bị, dụng cụ và phụ tùng
Liên tục đạt kim ngạch trên 200 triệu USD/tháng trong 4 tháng cuối năm và tính hết năm 2009 xuất khẩu của nhóm hàng này đạt trên kim ngạch 2,06 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2008.
Dẫn đầu về nhập khẩu nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ và phụ tùng của Việt Nam là Nhật Bản với gần 600 triệu USD, tăng nhẹ (0,6%) so với năm 2008; tiếp theo là thị trường Hoa Kỳ: 244 triệu USD, giảm 4,4%; Trung Quốc: 134 triệu USD, tăng 44,3%; Hồng Kông: 118 triệu USD, tăng 26,4%; Singapore: 102 triệu USD, tăng 23,6%...
b. Một số hàng nhập khẩu chính
* Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng
Trong tháng 12, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này là 1,45 tỷ USD, tăng 9,2% so với tháng 11. Nâng tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2009 lên 12,67 tỷ USD, giảm 3,3 so với năm 2008. Nhóm hàng này nhập khẩu chủ yếu có xuất xứ từ Trung Quốc với 4,16 tỷ USD, tăng 6,1% so với năm 2008; tiếp đến là Nhật Bản: 2,3 tỷ USD, giảm 13,5%; EU: 2,2 tỷ USD, giảm 14,1%; Hàn Quốc: 808 triệu USD; giảm 15,6%; Hoa Kỳ: 7,16 triệu USD, tăng 9,4%...
* Xăng dầu
Trong tháng 12 cả nước nhập khẩu 934 nghìn tấn xăng dầu các loại, tăng 31% so với tháng 11, đạt trị giá là 545 triệu USD. Tính đến hết tháng 12/2009, cả nước nhập khẩu 12,7 triệu tấn xăng dầu các loại, giảm 2% so với năm trước. Giá nhập khẩu bình quân nhóm hàng này giảm mạnh (41,8%) so với cùng kỳ năm 2008 nên kim ngạch nhập khẩu là gần 6,3 tỷ USD giảm tới 43%.
Xăng dầu các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong năm qua chủ yếu có xuất xứ từ Singapore với 4,9 triệu tấn, tiếp theo là Trung Quốc: 2,4 triệu tấn, Đài Loan: 2 triệu tấn, Hàn Quốc: 1,3 triệu tấn, Thái Lan: 685 nghìn tấn, Malaysia: 660 nghìn tấn, Nga: 613 nghìn tấn...
* Nhóm hàng nguyên liệu ngành dệt may, da giày
Trong tháng 12, trị giá nhập khẩu là 730 triệu USD, tăng 6,6% so với tháng 11/2009. Trong đó giá trị nhập khẩu vải là gần 400 triệu USD, tăng 4,5%; nguyên phụ liệu dệt may da giày 191 triệu USD
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009 Các biện pháp mà chính phủ đã thực hiện để cải thiện tình hình xuất nhập khẩu của Viêt Nam.doc