Tiểu luận Thực trạng và đánh giá thực trạng của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài

Trong vòng chưa đầy 3 năm từ khi gia nhập Công ước Berne, Việt Nam đã lần lượt tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về quyền tác giả như: Công ước Gieneva, Công ước Rome, Hiệp định TRIPs. Đây là cơ hội để Việt Nam vận dụng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình về quyền tác giả phù hợp với pháp luật quốc tế.

Cũng từ sau khi Việt Nam gia nhập Công ước Berne, hệ thống tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả đã được thành lập, góp phần tạo niềm tin cho các tác giả tập trung sáng tác, cống hiến.

Từ khi Công ước có hiệu lực ở Việt Nam, số lượng giấy chứng nhận đăng kí quyền tác giả được cấp cho các tác giả Việt Nam nói chung và các giấy chứng nhận đăng kí quyền tác giả có yếu tố nước ngoài nói riêng tăng rất nhanh. Điều này cũng dễ giải thích, bởi việc bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam đã khá phù hợp với pháp luật quốc tế, được pháp luật bảo vệ sẽ tạo niềm tin cho các tác giả muốn bảo hộ “đứa con tinh thần” của mình.

 

doc11 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7045 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng và đánh giá thực trạng của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Từ thời nguyên thủy, con người chủ yếu phụ thuộc vào thiên nhiên, kinh tế nông nghiệp là xương sống của nền kinh tế xã hội. Đến thế kỉ 15, nền kinh tế hàng hóa ở Tây Âu khá phát triển, điều này chính là cơ sở cho sự xuất hiện cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên tại Anh. Từ đây, lịch sử kinh tế bước sang trang mới, thành tựu kinh tế con người đạt được tăng theo cấp số nhân. Cho tới ngày nay, ở các nước phát triển và đang có xu hướng toàn cầu là hình thành nền kinh tế tri thức. Tri thức được coi là “nguồn của cải mới”, động lực phát triển mới tạo ra sự thịnh vượng trong xã hội. Trong nền kinh tế tri thức, việc bảo hộ quyền tác giả là vấn đề rất quan trọng. Tuy nhiên, ở Việt Nam, xâm phạm quyền tác giả và vi phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả ngày càng phổ biến và mức độ nghiêm trọng, phức tạp của tình hình xâm phạm quyền tác giả ngày càng tăng. “Nhìn chung, bức tranh toàn cảnh của hoạt động thực thi và bảo đảm thực thi quyền tác giả theo các quy định bảo hộ của Berne vẫn còn những điểm tối và cần có giải pháp khắc phục” [1, trang 2]. Tóm lại, để khắc phục tình trạng vi phạm bản quyền hiện nay, cần tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tác giả của công ước Berne một cách nghiêm túc. Vấn đề thực thi công ước cần được chú trọng và quan tâm hơn nữa. 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 1.1. Khái niệm quyền tác giả trong tư pháp quốc tế Vào cuối thế kỉ 15 máy in ra đời, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho những người có nhu cầu sử dụng tác phẩm có thể sao chép dễ dàng và sao chép được rất nhiều bản. Nhưng đối với tác giả của những tác phẩm bị sao chép đó, máy in chưa mang lại lợi ích gì đáng kể, mà thậm chí còn gây ra thiệt hại cho họ. Từ đây, quyền tác giả đã bắt đầu được quan tâm, để nâng cao sự bảo vệ, quyền tác giả đã được luật hóa lần đầu tiên trong đạo luật của Anh năm 1709 [2, trang 4]. Khái niệm quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học được tiếp cận dưới 2 góc độ: chủ quan và khách quan. Về phương diện chủ quan, quyền tác giả là quyền dân sự cụ thể của chủ thể với tư cách là tác giả hoặc của chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, công trình khoa học và quyền khởi kiện hay không khởi kiện khi quyền của mình bị xâm phạm. Về phương diện khách quan, quyền tác giả là tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm xác nhận và bảo vệ quyền tác giả, của chủ sở hữu quyền tác giả, xác định các nghĩa vụ của các chủ thể trong việc sáng tạo và sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, quy định trình tự thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi có hành vi xâm phạm [3, trang 33]. Bên cạnh đó, khái niệm quyền tác giả cũng được quy định trực tiếp tại khoản 2 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ. Dưới góc độ của tư pháp quốc tế và trên cơ sở của quyền tác giả nói chung, có thể hiểu quyền tác giả trong tư pháp quốc tế là quyền tác giả có yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài được thể hiện ở: chủ sở hữu tác phẩm là người nước ngoài hoặc tác phẩm được sử dụng ở nước ngoài. 1.2. Bảo hộ quyền tác giả Bảo hộ quyền tác giả là những cách thức, biện pháp được các chủ thể có thẩm quyền sử dụng với mục đích tạo ra hành lang pháp lí nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, xác lập quyền của chủ thể đối với đối tượng và quyền tác giả tương ứng và bảo vệ quyền đó chống lại bất kì sự vi phạm nào của bên thứ 3. Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, tồn tại 3 hình thức để bảo hộ quốc tế quyền tác giả như sau: - Kí kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế đa phương, như công ước Berne 1886, hiệp định TRIPs 1994, hiệp ước WPPT 1994... - Kí kết điều ước song phương, như hiệp định giữa Việt Nam - Hoa Kỳ 1997, hiệp định giữa Việt Nam - Thụy Sĩ 1999... - Bảo hộ theo nguyên tắc có đi có lại: các bên giành cho nhau sự bảo hộ đối với tác phẩm của công dân mỗi bên. 2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG ƯỚC BERNE Công ước Berne ra đời ngày 9/9/1886 tại Thụy Sĩ. Trong 125 tồn tại của mình, công ước Berne đã được sửa đổi, bổ sung 8 lần, văn bản ngày 24/7/1971 tại Paris, sửa đổi ngày 28/9/1979 là văn bản đang được thi hành tại 164 quốc gia thành viên [1, trang 17]. Berne đã, đang và sẽ có giá trị lớn trong việc bảo hộ quyền tác giả trên phạm vi toàn cầu. - Nguyên tắc bảo hộ: + Nguyên tắc đối xử quốc gia (National Treatment): Theo khoản 1 Điều 5 Công ước Berne, mỗi quốc gia thành viên sẽ dành sự bảo hộ cho các tác phẩm văn hoc, nghệ thuật và khoa học của công dân quốc gia thành viên khác của Công ước tương tự như sự bảo hộ tác phẩm của công dân chính quốc gia mình. + Nguyên tắc bảo hộ tự động (Automatic Protection): Quyền tác giả phát sinh ngay khi tác phẩm định hình dưới một dạng vật chất nhất định mà không lệ thuộc vào bất kì thủ tục nào (khoản 2 Điều 5). + Nguyên tắc bảo hộ độc lập (Independence of Proctection): Việc hưởng và thực thi các quyền theo Công ước là độc lập với những gì được hưởng tại nước xuất xứ của tác phẩm (khoản 2 Điều 5). + Nguyên tắc bảo hộ tối thiểu: Các quốc gia thành viên khi bảo hộ cho các tác phẩm có xuất xứ từ các quốc gia thành viên phải đảm bảo ít nhất các tiêu chuẩn được quy định trong Công ước. - Tác phẩm được bảo hộ (Điều 2): Các tác phẩm gốc trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, khoa học; Các tác phẩm phái sinh; Các tuyển tập tác phẩm văn học và nghệ thuật. - Điều kiện bảo hộ: Một tác phẩm muốn được bảo hộ phải thỏa mãn 2 tiêu chí: quốc tịch của tác giả và nơi công bố tác phẩm lần đầu tiên. - Các quyền được bảo hộ: Quy định cụ thể tại Điều 6 bis, Điều 8, Điều 9, Điều 10 bis, Điều 11 bis, Điều 11 ter, Điều 12, Điều 14, Điều 14 bis, Điều 14 ter, Điều 15, Điều 16 bis, gồm: quyền kinh tế (Economic Rights), quyền tinh thần (Moral Rights) và quyền tiếp theo (Droit de suit). - Thời hạn bảo hộ quyền tác giả: Bắt đầu từ khi tác giả sáng tạo ra tác phẩm và tiếp tục cho đến một khoảng thời gian sau khi tác giả chết. Có 2 nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc tính thời hạn bảo hộ theo đời người và không dựa theo đời người (Điều 7). - Các quy định liên quan đến thực thi quyền tác giả: Quy định tại khoản 3 Điều 13, Điều 15 về quyền khởi kiện, Điều 16 và Điều 17 là các biện pháp được áp dụng trong quá trình thực thi quyền tác giả. - Hiệu lực hồi tố: Theo Điều 18 thì Công ước bảo hộ cả đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học tồn tại trước khi Công ước có hiệu lực tại nước xuất xứ tác phẩm nếu nó chưa hết thời gian bảo hộ theo quy định từ trước của quốc gia đó. - Ưu đãi dành cho các quốc gia thành viên là các nước đang phát triển như Việt Nam: Với mong muốn dành cho các nước đang có trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp những ưu đãi hơn so với các nước thành viên khác để các nước này có thể dễ dàng tham gia vào sân chơi chung của Công ước, Công ước đã quy định những điều khoản về ưu đãi, miễn trừ tại phần Phụ lục. 3. THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 3.1. Sự tương thích của pháp luật Việt Nam hiện hành với Công ước Berne sau khi gia nhập Công ước Công ước Berne có hiệu lực ở Việt Nam từ 26/10/2004, từ đó trở về trước chỉ có BLDS 1995 điều chỉnh vấn đề bảo hộ quyền tác giả. Đây là các quy định về bảo hộ quyền tác giả nói chung, trong đó bao gồm cả quyền tác giả có yếu tố nước ngoài. Sau khi gia nhập Công ước Berne, nhà nước ta đã ban hành một loạt văn bản luật và dưới luật như BLDS 2005, Luật sở hữu trí tuệ 2005... nhằm đồng bộ hóa tới mức tối đa hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền tác giả của nước ta với Công ước Berne. - Về tiêu chuẩn bảo hộ: 737 BLDS 2005 quy định Nhà nước bảo hộ các tác phẩm thể hiện dưới bất kỳ hình thức và bằng bất kỳ phương tiện nào, không phân biệt nội dung, giá trị và không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục nào. Điều này phù hợp với tinh thần của Công ước Berne. Đương nhiên việc thể hiện dưới hình thức và phương tiện nào đi nữa thì cũng đều là chất xám, trí tuệ của tác giả sáng tạo ra và chúng xứng đáng được Nhà nước bảo hộ. Ngoài ra, nếu lấy chất lượng tác phẩm làm thước đo bảo hộ thì đây là điều vô cùng khó cho các nhà làm luật, vì một tác phẩm là hay hay dở là rất khó xác định. - Thời điểm phát sinh quyền tác giả: Tinh thần Điều 739 BLDS 2005 và Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ 2005 khá khớp với nguyên tắc bảo hộ đương nhiên của Công ước Berne là quyền tác giả sẽ phát sinh ngay sau khi tác phẩm được định hình dưới một hình thức nhất định không lệ thuộc vào bất kì thủ tục hình thức nào. Thủ tục đăng kí tác phẩm chỉ là quyền của tác giả, người sở hữu tác phẩm mà thôi. - Giới hạn quyền tác giả: Tại Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung 2009 đã quy định tương đối phù hợp với Điều 10 và Điều 10 bis của Công ước về điều kiện sử dụng tự do các tác phẩm đã công bố. Điều này khẳng định quyền tác giả là bất khả xâm phạm, mặt khác các tác phẩm là tài sản của nhân loại nên cần có những điều kiện vừa thuận lợi cho người sử dụng, lại vừa bảo vệ được lợi ích chính đáng của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm để công chúng có cơ hội tiếp cận kịp thời với tri thức của thời đại. - Thực thi quyền tác giả: Có thể áp dụng 3 loại thủ tục là dân sự, hành chính và hình sự. Các biện pháp áp dụng cũng đã tương thích với pháp luật quốc tế về bảo hộ quyền tác giả nói chung và bảo hộ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài nói riêng. - Công bố tác phẩm: Điều 3 Công ước Berne và khoản 9 Điều 4 LSHTT sửa đổi, bổ sung 2009 đều coi việc công bố tác phẩm là phát hành với sự đồng ý của tác giả. Trước đây, luật quy định việc công bố, phổ biến tác phẩm trái với quy định của Công ước. Việc quy định lại điều này đã chứng minh sự cố gắng của các nhà lập pháp Việt Nam muốn đồng bộ hóa tới mức tối đa giữa pháp luật quốc gia và Công ước. 3.2. Sự chưa tương thích của pháp luật Việt Nam hiện hành với Công ước Berne sau khi gia nhập Công ước - Về đối tượng bảo hộ: ở đây vẫn chưa có sự thống nhất, pháp luật Việt Nam quy định những tác phẩm được nhà nước bảo hộ mang tính chất „đóng“, tức là không linh hoạt, khoa học như quy định trong Công ước mang tính chất mở. Điều này sẽ bất cập khi có sự xuất hiện của một thể loại tác phẩm mới cần được bảo hộ trong pháp luật Việt Nam. - Thêm vào đó, điều kiện bảo hộ cũng có chút khác biệt, pháp luật Việt Nam quy định nội dung các tác phẩm được bảo hộ (khoản 1 Điều 8 LSHTT sửa đổi, bổ sung 2009), trong khi đó trong Công ước không hề có quy định này. - Quy định về quyền của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm: Công ước Berne chỉ quy định 2 loại quyền là quyền tinh thần và quyền kinh tế. Pháp luật Việt Nam lại quy định tác giả, chủ sở hữu tác phẩm có quyền nhân thân và quyền tài sản (Điều 738 BLDS 2005). Sự khác biệt này không đơn thuần chỉ là sự khác biệt về cách gọi tên mà còn khác biệt ở chính nội hàm của thuật ngữ. Điều này làm cho quy định về các loại quyền của tác giả và chủ sở hữu tác phẩm ở Việt Nam phức tạp hơn so với Công ước Berne. Ngoài ra, Việt Nam cũng chưa có quy định về quyền “droit de suit” đối với tác phẩm mỹ thuật và bản thảo viết tay. - Quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả: được quy định tại Điều 7 Công ước. Tuy nhiên, Công ước quy định thời hạn bảo hộ dựa trên đối tượng được bảo hộ, trong khi đó, pháp luật Việt Nam lại quy định thời hạn bảo hộ là loại quyền nào. Ngoài ra, Công ước chỉ quy định thời gian bảo hộ là có thời hạn, nhưng trong pháp luật Việt Nam quy định cả thời gian bảo hộ là vô thời hạn (Điều 27 LSHTT sửa đổi, bổ sung 2009). Bên cạnh đó, pháp luật nước ta cũng chưa quy định thời hạn bảo hộ đối với quyền của nghệ sỉ biểu diễn và nhà sản xuất băng ghi âm như Công ước Berne. Đây chỉ là một số vấn đề chưa tương thích cơ bản giữa pháp luật trong nước với Công ước Berne. Từ đó, các nhà làm luật cần chú ý xem xét đồng bộ hóa các quy định hợp lý tới mức cao nhất trong bối cảnh xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, việc tham gia và tôn trọng Công ước Berne là rất cần thiết. 4. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TỪ KHI VIỆT NAM THAM GIA CÔNG ƯỚC BERNE ĐỐI VỚI BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 4.1. Thành tựu Trong vòng chưa đầy 3 năm từ khi gia nhập Công ước Berne, Việt Nam đã lần lượt tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về quyền tác giả như: Công ước Gieneva, Công ước Rome, Hiệp định TRIPs... Đây là cơ hội để Việt Nam vận dụng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình về quyền tác giả phù hợp với pháp luật quốc tế. Cũng từ sau khi Việt Nam gia nhập Công ước Berne, hệ thống tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả đã được thành lập, góp phần tạo niềm tin cho các tác giả tập trung sáng tác, cống hiến. Từ khi Công ước có hiệu lực ở Việt Nam, số lượng giấy chứng nhận đăng kí quyền tác giả được cấp cho các tác giả Việt Nam nói chung và các giấy chứng nhận đăng kí quyền tác giả có yếu tố nước ngoài nói riêng tăng rất nhanh. Điều này cũng dễ giải thích, bởi việc bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam đã khá phù hợp với pháp luật quốc tế, được pháp luật bảo vệ sẽ tạo niềm tin cho các tác giả muốn bảo hộ “đứa con tinh thần” của mình. Để đảm bảo cho Công ước Berne được thực hiện nghiêm túc ở Việt Nam, các cơ quan có thẩm quyền đã có kế hoạch phòng chống, ngăn chặn việc xâm phạm quyền tác giả một cách hợp lý. Thanh tra Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã kiểm tra nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ liên quan đến quyền tác giả, phát hiện và xử lý rất nhiều cơ sở vi phạm. Ngành xuất bản chỉ xuất bản 50% số đầu sách dịch so với cùng kì các năm trước. Điều này chứng tỏ phần nào về việc đề cao trách nhiệm của các nhà xuất bản khi phải thực hiện nghĩa vụ thỏa thuận trước khi xuất bản với các tổ chức, cá nhân thuộc nước thành viên của Công ước Berne [1, trang 52]. 4.2. Hạn chế Hiện nay, tuy có những thành tựu bước đầu từ khi Việt Nam gia nhập Công ước Berne, nhưng tình trạng vi phạm bản quyền có yếu tố nước ngoài vẫn xảy ra khá phổ biến, ở hầu hết các lĩnh vực. - Trong lĩnh vực xuất bản: Tình trạng in lậu, lưu hành và kinh doanh sách lậu vẫn diễn ra hàng ngày, phổ biến nhất là truyện tranh thiếu nhi của nước ngoài. Truyện tranh in lậu, không có bản quyền, thậm chí gắn thêm vào mác của các nhà xuất bản nổi tiếng, không được kiểm soát về nội dung, bán tràn lan ngoài thị trường. Những bản in lậu này đã gây thiệt hại lớn cho các nhà xuất bản vì giá bán chỉ bằng 50% sách có bản quyền, thậm chí cả thiệt hại về uy tín. Thậm chí, các nhà xuất bản cũng “giẫm châm lên nhau”. Sách của nhà xuất bản này đã mua bản quyền thì đã bị nhà xuất bản khác in và tung ra thị trường trước, tất nhiên là không có bản quyền [5]. - Trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh băng đĩa: Hoạt động nhập lậu, in lậu, lưu hành, kinh doanh băng đĩa lậu thường xuyên diễn ra trên thị trường và tại khu vực cửa khẩu, biên giới. Hầu hết các băng đĩa được bán trên thị trường đều là băng đĩa được in lại không được phép của nhà xuất bản, được nhập lậu, đa phần là từ Trung Quốc. Theo thống kê, 1/3 số đĩa nhạc được sản xuất năm 2004 là nhạc ngoại lời Việt và không có sự xin phép tác giả, chủ sở hữu tác phẩm [1. trang 54]. - Trong lĩnh vực phần mềm máy tính: Đây là lĩnh vực béo bở cho việc buôn bán lậu và sử dụng lậu các phần mềm. Trong vụ kiểm tra hành chính 2 công ty tại TPHCM trong năm 2005, cơ quan chức năng đã phát hiện các chương trình máy tính sử dụng trái phép như Microsoft Windows, ACD See, Corel Draw, Adobe Photoshop… với tổng giá trị khoảng 150 triệu đồng [1, trang 55]. - Trong lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật: loại vi phạm nổi bật nhất là biểu diễn không được sự đồng ý của tác giả hoặc có xin phép nhưng trả thù lao không thỏa đáng cho tác giả. - Trong lĩnh vực âm nhạc: Bên cạnh việc một số ít đài truyền hình đã tiến hành trả thù lao cho các nhạc sĩ khi phát sóng tác phẩm thì theo Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam, hiện có khoảng 20 vạn bài hát lưu hành trên mạng mà không xin phép, trong đó, các bài hát của tác giả nước ngoài chiếm con số không nhỏ. Chủ yếu những vi phạm tác quyền trên xuất phát từ động cơ lợi nhuận. Khi xuất bản hoặc sử dụng không xin phép tác giả sẽ giúp tiết kiệm được một chi phí đáng kể. Ngoài ra, hệ thống pháp luật vẫn chưa thật sự chặt chẽ và đủ mạnh để trừng trị những hành vi xâm hại tác quyền. Thêm vào đó, việc có bản quyền của các tác phẩm nước ngoài cũng không phải việc đơn giản như đối với các tác phẩm trong nước, điều này dẫn đến các tác phẩm nước ngoài dễ bị xâm phạm hơn. Thêm vào đó, đại bộ phận dân cư vẫn chưa có nhận thức cao về vấn đề này, cộng thêm khả năng tài chính không cho phép để dùng tác phẩm có bản quyền, nên vấn đề xâm phạm quyền tác giả ngày càng nghiêm trọng. Sau đây là một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài cụ thể. 5. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền tác giả: Nhà nước tuy đã có những hoạt động tích cực nhằm hệ thống hóa pháp luật bảo hộ quyền tác giả như sửa đổi, bổ sung LSHTT năm 2009, nhưng như thế chưa đủ, mà cần có sự sửa đổi đồng bộ giữa các luật có liên quan về vấn đề này trong pháp luật hình sự, pháp luật hành chính, pháp luật dân sự... Trong đó các dự thảo về sửa đổi BLDS 2005 và một số luật khác liên quan đến quyền tác giả cần đẩy nhanh tiến độ để sớm được Quốc hội thông qua. Ngoài ra, với các quy định chưa tương thích với Công ước cần nghiên cứu kĩ, có những điều chưa thích hợp cần điều chỉnh, nhưng có những điều đã đảm bảo với mức tối thiểu của Công ước và phù hợp với điều kiện nước ta thì chưa cần phải thay đổi. Mặt khác, các quy định về quyền tác giả chủ yếu được quy định trong LSHTT và các điều luật khác nằm rải rác. Thêm vào đó, LSHTT lại quy định 3 đối tượng với cơ chế bảo hộ khác nhau trong cùng một văn bản là không hợp lí. Nên chăng nước ta cũng nên có một luật riêng về quyền tác giả như Mỹ, Nhật... hoặc các quốc gia khác trên thế giới. Thứ hai, tăng cường tính hiệu quả của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực thi quyền tác giả. Số lượng các cơ quan hiện nay đã tương đối nhiều, nhưng thẩm quyền bị chồng chéo. Cần làm rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan để chúng hoạt động có hiệu quả hơn. Thêm vào đó, cần đào tạo một đội ngũ thẩm phán có ngoại ngữ và kiến thức về các vấn đề sở hữu trí tuệ có yếu tố nước ngoài góp phần đáp ứng nhu cầu về thẩm phán có chuyên môn hiện nay. Thứ ba, củng cố và tăng cường hoạt động của tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả. So với các nước trên thế giới, chúng ta chỉ mới có một số lượng khiêm tốn các tổ chức này. Trong tương lai, cần khuyến khích sự phát triển thêm cả về chiều rộng cũng như chiều sâu để các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả hoạt động tốt hơn trong lĩnh vực bảo vệ quyền tác giả. Thứ tư, tăng cường công tác tuyên truyền, giới thiệu Công ước Berne tới công chúng. Là một Công ước quốc tế nên Berne tương đối khó hiểu hơn so với pháp luật trong nước. Để tăng cường ý thức pháp luật của người dân, nhà nước cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục kiến thức pháp luật cho người dân, trong đó về lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả thì quan trọng là có Công ước Berne. Các hoạt động cụ thể để tăng cường ảnh hưởng của Công ước Berne trong nhân dân có thể như: Tổ chức hội thảo về Công ước; Truyền tải nội dung Công ước trên các phương tiện truyền thông; Phát động các cuộc thi tìm hiểu Công ước; Đưa kiến thức về sở hữu trí tuệ vào giáo dục trong nhà trường... Thứ năm, đấu tranh mạnh mẽ và kiên quyết với tình trạng vi phạm bản quyền. Từ thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay, làm một phép so sánh nhỏ sẽ dễ dàng thấy rằng lợi nhuận mà những người vi phạm tác quyền thu về lớn hơn nhiều lần trách nhiệm mà họ phải gánh chịu trước pháp luật. Do đó, để đảm bảo hạn chế tới mức tối đa tình trạng vi phạm bản quyền tràn lan như hiện nay, thiết nghĩ các chế tài trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả cần phải mạnh hơn nữa. Ngoài ra, dư luận xã hội cần lên tiếng đối với những hành vi đó, thậm chí phải tẩy chay không sử dụng các sản phẩm xuất bản mà không được sự đồng ý của tác giả. Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền tác giả. Bản chất của việc bảo hộ quốc tế quyền tác giả là sự liên kết, phối hợp cùng hành động mang tính liên quốc gia. Cụ thể, chúng ta cần tích cực tham gia hoạt động có hiệu quả hơn các chương trình hành động trong khuôn khổ WIPO; tranh thủ sự ủng hộ của tổ chức cho việc thực thi Công ước Berne tại Việt Nam; cử các chuyên gia đi học hỏi kinh nghiệm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ; tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức nước ngoài... [2, trang 50 - 55]. KẾT LUẬN Một quốc gia muốn phát triển không chỉ trông chờ vào nguồn lực bên trong, mà vai trò của nguồn lực bên ngoài, tức chất xám của nước ngoài cũng rất quan trọng, nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Sau 6 năm Công ước Berne có hiệu lực tại Việt Nam đã ghi nhận những cố gắng của nhà lập pháp đã nội luật hóa các quy định của Berne. Mặt khác, vẫn còn những quy định chưa tương thích, thiết nghĩ các nhà làm luật cần cố gắng hơn để pháp luật Việt Nam và pháp luật thế giới không còn khoảng cách quá xa. Nhiệm vụ của Việt Nam lúc này là cần tìm ra biện pháp thực thi Công ước một cách hiệu quả, nhằm cải thiện tình hình bảo hộ quyền tác giả ở nước ta hiện nay.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBảo hộ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài khi Việt Nam tham gia công ước Berne - thực trạng và hoàn thiên.doc
Tài liệu liên quan