MỤC LỤC:
A. Mục đích nghiên cứu , cơ sở thực tiễn :
I. Mục đích :
II. Cơ sở thực tiễn :
B . Tổng quan về cứu trợ xã hội Việt Nam :
I. Những vấn đề cơ bản về Cứu trợ xã hội Việt Nam :
1. Khái niệm , vai trò , đặc điểm, mục tiêu :
2. Những quan điểm cơ bản về cứu trợ xã hội :
II. Thực trạng hoạt động cứu trợ xã hội Việt Nam :
1. Các hình thức cứu trợ xã hội VN :
2. Nguồn tài chính :
3. Thực trạng hoạt động cứu trợ xã hội ở nước ta :
4. Tiềm lực phát triển hoạt động cứu trợ xã hội VN :
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3810 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng và giải pháp hoạt động cứu trợ xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế mà còn phải đảm bảo sự công bằng , bình đẳng và một môi trường chính trị ổn định . Vị thế cứu trợ xã hội là chính sách xã hội quan trọng để vừa đảm bảo phát triển kinh tế vừa đạt được mục tiêu công bằng và ổn định . Đông thời chính sách cứu trợ xã hội được thực hiện sẽ góp phần nâng cáo tính ưu việt của thể chế chính trị , tạo ra một xã hội nhân ái văn minh , từ đó góp phần đảm bảo an toàn xã hội ổn địn chính trị và thúc đẩy kinh tế phát triển .
II. Thực trạng hoạt động cứu trợ xã hội Việt Nam :
1. Các hình thức cứu trợ xã hội ở Việt Nam hiện nay.
a. Cứu trợ xã hội thường xuyên :
Là hình thức cứu trợ mang tính định kì , lặp đi lặp lại áp dụng với đối tượng rơi vào hoàn cảnh khó khăn kéo dài .
* Đối tượng :
1. Đối với trẻ em mồ côi :
Trẻ em dưới 16 tuổi mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc bị bỏ rơi, bị mất nguồn nuôi dưỡng và không còn người thân thích ruột thịt (Ông, bà nội ngoại; bố mẹ nuôi hợp pháp, anh chị) để nương tựa.
Trẻ em dưới 16 tuổi chỉ mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại (mẹ hoặc cha) mất tích theo quy định tại Điều 88 của bộ luật Dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng (như tàn tật nặng, đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại), không có nguồn nuôi dưỡng và không có người thân thích để nương tựa.
Trường hợp trẻ em mồ côi nêu tại điểm a, b nói trên tuy còn người thân thích nhưng người thân thích không đủ khả năng để nuôi dưỡng (người thân thích dưới 16 tuổi hoặc trên 60 tuổi hoặc bị tàn tật nặng, đang trong thời gian thị hành án phạt tù tại trại, gia đình thuộc diện hộ nghèo theo chuẩn mực do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội công bố áp dụng cho từng thời kỳ) cũng được xem xét hưởng trợ cấp cứu trợ xã hội.
2. Đối với người già cô đơn không nơi nương tựa:
Người từ đủ 60 tuổi trở lên sống độc thân không có con (con đẻ hoặc con nuôi hợp pháp); không có cháu ruột và người thân thích cưu mang để nương tựa, không có nguồn thu nhập.
Người từ đủ 60 tuổi trở lên tuy còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con đẻ, con nuôi hợp pháp, cháu ruột thịt và người thân thích nương tựa; không có nguồn thu nhập.
Trong trường hợp người già nêu tại điểm a, b nói trên tuy có con, cháu và người thân thích để nương tựa nhưng con cháu và người thân thích không đủ khả năng để nuooi dưỡng (như gia đình thuộc diện nghèo, bản thân con, cháu và người thân thích dưới 16 tuổi hoặc trên 60 tuổi, đang trong thời kỳ thi hành án phạt tù tại trại hoặc bị tàn tật nặng) cũng được xem xét hưởng trọ cấp cứu trợ xã hội.
Riêng trường hợp người già là phụ nữ cô đơn không nơi nương tựa, không có nguồn thu nhập từ đủ 55 tuổi trở lên, hiện đang hưởng trợ cấp cưu trợ xã hội vẫn tiếp tục được hưởng.
3. Người tàn tật nặng không có nguồn thu nhập và không có nơi nương tựa; người tàn tật nặng tuy có người thân thích nhưng họ già yếu hoặc gia đình nghèo không đủ khả năng kinh tế để chăm sóc .
4. Người tâm thần mãn tính là người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm và có kết luận bệnh mãn tính, sống độc thân không nơi nương tựa hoặc gia đình thuộc diện đói nghèo.
* Chế độ cứu trợ XH :
1. Mức trợ cấp cứu trợ xã hội thường xuyên:
Đối với trẻ em mồ côi bị mất nguồn nuôi dưỡng, người già cô đơn không nơi nương tựa, không có nguồn thu nhập . Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thể điều chỉnh cho phù hợp tình hình thực tế của địa phương, nhưng không được thấp hơn mức quy định như sau:
- Trợ cấp cứu trợ xã hội thường xuyên cho đối tượng sống tại gia đình do xã, phường quản lý bằng 65.000 đ/người/tháng.
- Trợ cấp sinh hoạt phí nuôi dưỡng tại các cơ sở Bảo trợ Xã hội thuộc Nhà nước bằng 140.000 đ/người/tháng; riêng đối với trẻ em dưới 18 tháng tuổi phải ăn thêm sữa, mức trợ cấp bằng 210.000 đ/người/tháng.
- Mức trợ cấp sinh hoạt phí nuôi dưỡng thấp nhất đối với người tâm thần mãn tính tại các cơ sở Bảo trợ xã hội của Nhà nước bằng 160.000 đồng/người/tháng.
2. Khoản trợ cấp ngoài trợ cấp thường xuyên cho đối tượng sống tại cơ sở Bảo trợ xã hội
- Trợ cấp để mua sắm tư trang, vật dụng phục vụ cho sinh hoạt, đời sống hàng ngày gồm các đồ dùng như: Quần áo, khăn mặt, bàn chải đánh răng, kem đánh răng, xà phòng giặt, dép nhựa, chăn, chiếu, màn .
- Trợ cấp mua thuốc chữa bệnh thông thường theo các khoản mục quy định như cán bộ công nhân viên chức được sử dụng tại trạm y tế cơ quan.
- Trợ cấp mua sách giáo khoa và đồ dùng học tập đối với trẻ em đi
học phổ thông, bổ túc văn hoá. Mức trợ cấp được căn cứ vào cấp học, lớp học.
- Trợ cấp hàng tháng vệ sinh cá nhân đối với đối tượng nữ trong độ tuổi sinh đẻ;
- Trợ cấp mai táng.
Các khoản trợ cấp nêu trên do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho phù hợp với tình hình thực tế của từng địa phương.
b. Cứu trợ xã hội đột xuất :
Là hình thức cứu trợ mang tính tức thời nhằm đối phó với các biến cố xảy ra mang tính thảm họa .
* Đối tượng :
Đối tượng thuộc diện cứu trợ xã hội đột xuất là những người hoặc hộ gia đình khó khăn do hậu quả thiên tai hoặc những lý do bất khả kháng được xác định như sau:
1. Hộ gia đình
a) Gia đình có người bị chết, mất tích do hậu quả thiên tai, tham gia cứu hộ, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân.
b) Gia đình có nhà ở bị đổ, sập, trôi, cháy, hỏng nặng không có chỗ ở. Trong trường hợp gia đình sống trên tàu, thuyền, nà tàu, thuyền, bị vỡ, bị chìm hư hỏng nặng không còn chỗ ở cũng được xem xét cứu trợ.
c) Gia đình mất phượng tiện sản xuất chính làm cho gia đình lâm vào cảnh thiếu đói.
2. Về người:
a) Người bị thương nặng do hậu quả của thiên tai, tham gia cứu hộ, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân.
b) Người thiếu đói do giáp hạt, gia đình thuộc diện nghèo.
c) Người gặp phải rủi ro ngoài vùng cư trú bị thương nặng phải vào bệnh viện điều trị hoặc chết, gia đình không biết để chăm sóc hoặc mai táng.
d) Người lang thang xin ăn do Sở Công an phối hợp với Sở Lao động-Thương binh và Xã hội và các cơ quan chức năng cấp tỉnh đưa vào cơ sở Bảo trợ xã hội trong thời gian tập trung chờ đưa về gia đình.
* Chế độ cứu trợ XH :
1. Đối tượng quy định tại Điểm a khoản 1 được hưởng chế độ cứu trợ xã hội đột xuất một lần cho việc mai táng người bị chết hoặc trợ cấp một lần cho gia đình để lo hương khói, phúng viếng cho người mất tích .
Trường hợp chính quyền địa phương đứng ra mai táng cũng được thanh toán bằng mức trợ cấp cho gia đình .
2. Đối tượng quy định tại Điểm b khoản 1 được hưởng chế độ cứu trợ xã hội đột xuất 1 lần cho việc dựng lại và sửa chữa nhà ở.
3. Đối tượng quy định tại Điểm c khoản 1 và Điểm b khoản 2 được hỗ trợ cứu đói, thời gian từ 1-3 tháng.
4. Đối tượng quy định tại Điểm a khoản 2 được hỗ trợ một phần chi phí điều trị.
5. Đối tượng quy định tại Điểm c khoản 2 được hỗ trợ một phần chi phí điều trị. Trường hợp bị chết, chính quyền địa phương hay đơn vị đứng ra mai táng thì cũng được thanh toán bằng mức trợ cấp cho gia đình .
6. Đối tượng là người lang thang xin ăn trong thời gian tập trung phân loại được trợ cấp 5.000 đ/ngày trong thời gian không quá 15 ngày.
Mức trợ cấp cứu trợ xã hội đột xuất đối với từng nhóm đối tượng quy định tại trên đây do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tuỳ theo mức độ thiệt hại, thiếu đói và khả năng huy động nguồn lực.
2. Nguồn tài chính :
- Ngân sách Nhà Nước cân đối hàng năm ; ngân sách tỉnh ,huyện ,xã ,tự cân đối .
- Do các tổ chức cá nhân trong ngoài nước ủng hộ .
- Trợ giúp của nước ngoài , tổ chức quốc tế hỗ trợ trực tiếp cho địa phương hoặc thông qua Chính phủ , các đoàn thể xã hội .
Trong các nguồn tài chính này thì ngân sách Nhà nước là nguồn chủ yếu . Với trách nhiệm tổ chức quản lý xã hội và điều hòa phân phối lại nguồn quỹ quốc gia , hàng năm Nhà nước phải trích từ ngân sách để thực hiện cứu trợ xã hội bao gồm cả cứu trợ thường xuyên và cứu trợ đột xuất .
Nguồn tài chính thứ hai cho hoạt động cứu trợ là từ nhân dân , bao gồm sự đóng góp hảo tâm của các cá nhân và gia đình , của các tổ chức đoàn thể xã hội , cảu các doanh nghiệp trong cộng đồng . Đây là nguồn lực có tiềm năng rất lớn .
Một nguồn tài chính khác cho hoạt động cứu trợ xã hội cần đước nhắc đến là nguồn trợ giúp quốc tế . Đây cũng là một nguồn lực tài chính quan trọng cho hoạt động cứu trợ xã hội , đặc biệt là đối với một nước nghèo như nước ta .
3. Thực trạng hoạt động cứu trợ xã hội ở nước ta :
3.1 Cơ cấu tổ chức hoạt động cứu trợ XH :
a. Đối với hoạt động cứu trợ đột xuất :
Trước đây các cơ quan báo chí , doanh nghiệp được trực tiếp đem tiền hàng đi cứu trợ. Nhưng hiện nay Mặt trận Tổ quốc các cập sẽ là nơi tiếp nhận tiền , hàng cứu trợ . Sau khi hình thành hệ thống ban cứu trợ từ trung ương đến địa phương, tiền cứu trợ sẽ được phân phối đến cấp tỉnh (bằng hình thức chuyển qua tài khoản), và cấp tỉnh sẽ phân bổ số tiền cứu trợ đó xuống huyện, xã dựa trên tình hình thực tế ở địa phương. Có thể mọi người hình dung việc cứu trợ phải qua nhiều tầng nấc, nhưng đó là sự cần thiết vì chỉ có ban cứu trợ cấp xã mới có thể nắm được sát nhất tình hình thiệt hại trên địa bàn.
Các quỹ xã hội, quỹ từ thiện, các cơ quan báo chí hưởng ứng lời kêu gọi của ủy ban mặt trận tổ quốc các cấp sẽ được vận động mỗi khi có thiên tai, sự cố nghiêm trọng. Tuy vậy, các tổ chức khác muốn vận động phải được sự cho phép của mặt trận tổ quốc các cấp. Trước khi phân phối, mặt trận sẽ mời các cơ quan đóng góp cho ý kiến về việc phân hàng cứu trợ đi đâu, biện pháp như thế nào. Nếu cá nhân, tổ chức đóng góp hảo tâm yêu cầu chuyển hàng đến địa chỉ cụ thể, ban cứu trợ sẽ chuyển đúng theo yêu cầu.
b. Đối với hoạt động cứu trợ thường xuyên :
Được tổ chức từ TW tới địa phương , theo đó CP sẽ ban hành những quy định chung về chế độ cứu trợ XH ( đối tượng hưởng , mức được hưởng ,...) và áp dụng xuống đến từng địa phương như đã trình bày ở phần trên .
3.2 Những thành tựu trong cứu trợ xã hội VN :
a.Đối với hoạt động cứu trợ xã hội thường xuyên :
Hiện nước ta có khoảng 160.000 trẻ em mồ côi, trong đó có 88.000 em không còn nơi nương tựa, hoàn cảnh kinh tế rất khó khăn. Trong số 88.000 em đó, Nhà nước đã giải quyết trợ cấp xã hội thường xuyên khoảng 60.000 em, bao gồm: 10.000 em đang được nuôi dưỡng, chăm sóc trong các cơ sở bảo trợ xã hội với mức trợ cấp thấp nhất 240.000đ/em/tháng; gần 50.000 em hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên tại cộng đồng, với mức trợ cấp tối thiểu 120.000đ/em/tháng và số còn lại do họ hàng, cộng đồng cưu mang hoặc được nhận làm con nuôi .
Cách đây hơn 20 năm (từ 22-12-1987) tổ chức Làng trẻ em SOsS quốc tế đã ký với Chính phủ Việt Nam xây dựng các Làng trẻ em SOS Việt Nam nhận nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em mồ côi, trẻ em có số phận không may để trở thành người có ích cho xã hội và đất nước. Trải qua hơn 20 năm, nhờ sự tài trợ tận tình của tổ chức Làng trẻ em SOS quốc tế, đến nay Việt Nam đã có 13 làng trẻ em được xây dựng tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và nhiều địa phương trên cả nước; nuôi dạy gần 3.000 trẻ mồ côi, được học hành, dạy nghề và tạo việc làm, nhiều cháu sau khi trưởng thành đã ra ngoài xã hội, đi làm, có thu nhập, có cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Những em đang sống tại các trung tâm không những được nuôi dưỡng ,chăm sóc , học tập , mà hàng năm Trung tâm cũng tổ chức những ngày Lễ, Tết ( Trung thu , quốc tế thiếu nhi , Tết cổ truyền ,...) để các em có thể được hưởng niềm vui như những đứa trẻ bình thường khác .
Như trong dịp Tết cổ truyền vừa qua tỉnh Kiên Giang đã tổ chức cho hơn 600 trẻ em mồ côi, lang thang, khuyết tật… thành phố Rạch Giá ăn tết. Buổi họp mặt được tổ chức từ hỗ trợ của một số doanh nghiệp và nhà hảo tâm, với tổng kinh phí trên 300 triệu đồng. Trên 620 trẻ em mồ côi, lang thang, khuyết tật, nạn nhân chất độc cam… đã được trao quà tết, mỗi phần gồm quần áo, sữa, và phần lì xì 200 ngàn đồng.
Ngoài ra các tổ chức , doanh nghiệp , cá nhân trong ngoài nước cũng thường xuyên thăm hỏi , tặng quà , trợ giúp các em không những trong cuộc sống hiện tại mà còn dạy nghề , hướng nghiệp giúp các em có được những kĩ năng , kiến thức tự lập cuộc sống sau này .
Theo báo cáo chưa đầy đủ của các địa phương đến tháng 9 năm 2008 tổng số đối tượng bảo trợ xã hội trong toàn quốc có gần 1,3 triệu người thuộc diện hưởng trợ cấp thường xuyên (trong đó có gần 40 ngàn đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn sống trong các cơ sở bảo trợ xã hội). Trong những năm qua, công tác trợ giúp, trợ cấp xã hội đã góp phần quan trọng trong việc ổn định đời sống vật chất và tinh thần của các đối tượng bảo trợ xã hội. Những đối tượng bảo trợ xã hội không có điều kiện sống tại công đồng được tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội có cuộc sống ổn định .
- Về chăm sóc sức khoẻ:
Hầu hết các cơ sơ bảo trợ xã hội đều có cán bộ y tế, trang thiết bị, tủ thuốc, dụng cụ y tế phù hợp, bảo đảm chăm sóc sức khoẻ ban đầu, sơ cấp cứu khi cần thiết, mở sổ theo dõi và kiểm tra sức khoẻ định kỳ cho từng đối tượng. Đối với cơ sở có nhiệm vụ chỉnh hình - phục hồi chức năng thì đều có cán bộ và trang thiết bị phục hồi chức năng cho đối tượng, chủ động đẩy mạnh hoạt động chỉnh hình- phục hồi chức năng đối với từng người tàn tật, giúp họ tự tập luyện và khơi dậy tính kiên trì, để vượt lên chính mình.
- Hoạt động học văn hoá, học nghề:
Cơ sở bảo trợ xã hội đã bảo đảm cho trẻ em đang nuôi dưỡng trong cơ sở được tiếp cận giáo dục trong các trường phổ thông công lập, dân lập hoặc các trung tâm giáo dục thường xuyên hoặc tại cơ sở bảo trợ xã hội; Do thực hiện tốt công tác này nên đã có nhiều học sinh có kết quả học tập tốt. Việc tổ chức học nghề cho các đối tượng trong những năm qua cũng được quan tâm đúng mức. Một số cơ sở tổ chức các lớp dạy cắt may, thêu, mộc dân dụng, cơ khí, gò, hàn, sửa chữa xe máy, tivi,... đã có hàng ngàn đối tượng ở các cơ sở được học nghề và tạo được việc làm. Như cơ sở bảo trợ nuôi dưỡng và dạy nghề cho trẻ tàn tật của tỉnh Hải Dương là một trong những cơ sở điển hình. Các em khi tốt nghiệp các khóa học nghề hầu hết đều có việc làm và mức thu nhận từ 1,5 đến 2,5 triệu đồng/người/tháng.
- Hoạt động văn hoá - thể thao:
Những năm qua các cơ sở bảo trợ xã hội đã tổ chức hoạt động dạy hát, dạy nhạc hoặc tổ chức hoạt động văn nghệ, thể thao, vui chơi giải trí hàng tuần cho các đối tượng; trang bị tủ sách, phòng đọc; cung cấp sách, báo, tạp chí, đài, ti vi để cung cấp thông tin cho các đối tượng sống trong cơ sở bảo trợ xã hội. Đối với những người có khả năng tham gia các hoạt động, ít nhất trong mỗi ngày có một giờ để tham gia các hoạt động thể dục, thể thao và vui chơi giải trí, đọc sách, báo, tạp chí phù hợp với sức khoẻ và độ tuổi. Những hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao tạo lên bầu không khí lành mạnh, giúp các đối tượng có cơ hội tiếp xúc, giao lưu, tinh thần thoải mái hơn, đặc biệt đối với các Trung tâm nuôi dưỡng người tâm thần.
Nhà nước đã thành lập các trung tâm nuôi dưỡng người già cô đơn ở tất cả các tỉnh thành trong cả nước
Như trung tâm Nuôi dưỡng - bảo trợ người già và tàn tật Chánh Phú Hòa trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội TP Hồ Chí Minh, đến nay trung tâm đã tiếp nhận quản lý, nuôi dưỡng và chăm sóc gần 1.500 người già, tàn tật, neo đơn sống lang thang đi ăn xin, nằm viện bị bỏ rơi, không nơi nương tựa... tại TP Hồ Chí Minh
Trung tâm nuôi dưỡng người già và trẻ em tàn tật Thuỵ An( Ba Vì , Hà Tây ) là mái nhà cho gần 100 người già cô đơn, 124 trẻ em tàn tật và 70 trẻ sơ sinh mồ côi. Trong số các trẻ em tàn tật thì phần lớn đã từng lang thang hoặc bị bỏ rơi trên hè phố, chỉ có 30 em còn đủ khả năng nhận biết và tự chủ được hành vi của mình. Trong số 146 người lớn tại trung tâm, có 100 cụ già, trong đó gần 50 cụ là người tàn tật. Trước khi đưa về trung tâm, phần lớn các cụ già đều từng đi lang thang ăn xin hoặc bị người nhà bỏ rơi. Mỗi cảnh đời ở trung tâm đều éo le và bất hạnh .
Trung tâm nuôi dưỡng người già và trẻ tàn tật Hà Nội hiện đang nuôi dưỡng 304 đối tượng người già cô đơn, không nơi nương tựa và trẻ em tàn tật mồ côi; trong đó riêng trẻ em là 124 cháu tật nguyền, không có cha mẹ.
Và còn rất nhiều các trung tâm khác nữa trên khắp đất nước đang nỗ lực hết sức mình trong công tác cứu trợ xã hội . Tuy còn gặp nhiều khó khăn về kinh phí, nhân lực nhưng các trung tâm cũng luôn cố gắng đáp ứng tốt nhất sự chăm sóc đến các đối tượng được cứu trợ .
c. Đối với hoạt động cứu trợ xã hội đột xuất :
Nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa , chính điều kiện khí hậu đó hàng năm đã gây nên cho nước ta nhiều trận lũ lụt và làm cho nhiều người dân lâm phải hoàn cảnh khó khăn ( thiếu thốn về thức ăn , nước uống , quần áo ,...) . Khi đó các tổ chức cứu trợ xã hội dưới sự chỉ đạo của CP đã thực hiện các đợt cứu trợ đem tiền ,hàng cứu trợ đến tận tay người dân gặp nạn . Đồng thời còn hỗ trợ để ổn định cuộc sống của họ sau khi thiên tai qua đi .
Như trong đợt lũ năm 2008 vừa qua , Trung ương Hội chữ thập đỏ Việt Nam đã quyết định cứu trợ đợt đầu cho 10 tỉnh thành bị ngập lụt với tổng giá trị tiền và hàng là 1 tỷ đồng. Lần đầu tiên thủ đô Hà Nội nằm trong danh sách này.
Hà Nội được cứu trợ 150 triệu đồng, trong đó 50 triệu đồng tiền mặt. Còn lại Trung ương hội mua gạo để gửi tới những gia đình bị thiếu lương thực do ngập lụt lâu ngày.
Ngoài Hà Nội, 9 tỉnh khác được cứu trợ đợt đầu là: Bắc Giang, Ninh Bình, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hòa Bình, Thái Nguyên, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Trung ương hội sẽ gửi 600 triệu đồng tiền mặt, 900 thùng hàng gia đình (gồm chăn, màn, thùng đựng nước và bộ đồ nấu ăn) tới những vùng bị thiệt hại nặng.
Thường trực Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt Nam cũng cử một đoàn công tác về một số địa phương khảo sát thực tế thiệt hại và trực tiếp cứu trợ khẩn cấp cho nhân dân.
Các tổ chức . doanh nghiệp trong nước cũng thể hiện sự cảm thông đối với đồng bào gặp nạn trong cơn lũ lụt bằng việc quyên góp tiền , hàng . Đó là một hành động cao đẹp thể hiện tinh thần tương thân , tương ái của người dân VN .
Như Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) công bố quyết định hỗ trợ 2 tỷ đồng để giúp đồng bào gặp nạn ở TP Hà Nội đang phải chịu những mất mát to lớn về người và của trong đợt ngập lụt lớn vừa qua. Số tiền trên được quyên góp từ tiền làm thêm giờ của CBCNV các đơn vị thuộc Tập đoàn và trích từ Quỹ Tương trợ Dầu khí nhằm góp phần chia sẻ khó khăn với các gia đình có người bị nạn và giúp đồng bào bị lũ lụt ở Hà Nội có nhà cửa, tài sản bị hư hỏng nặng… sớm ổn định cuộc sống. Trong tháng 4/2008, Petrovietnam đã trích 1,2 tỷ đồng để ủng hộ đồng bào dân tộc các tỉnh phía Bắc bị thiệt hại trong đợt rét đậm, rét hại. Ngày 12/8/2008, Petrovietnam cũng đã trích 3,6 tỷ đồng để hỗ trợ khẩn cấp đồng bào gặp nạn ở các tỉnh miền núi phía Bắc trong trận bão lũ hung hãn. Ngày 29/9/2008, Petrovietnam hỗ trợ 2 tỷ đồng giúp nhân dân các tỉnh miền núi phía Bắc bị mất mát về người và của do ảnh hưởng của bão số 6
Ngoài ra còn có các tổ chức nước ngoài hỗ trợ cho VN như : Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ (USAID) và Hội Chữ Thập đỏ Mỹ với số tiền gần 800 triệu đồng (tương đương 50.000USD)/1 đơn vị, Hội Chữ Thập đỏ Thuỵ Sĩ với số hàng và gạo trị giá trên 1,2 tỷ đồng (tương đương 80.000USD), Hội Chữ Thập đỏ Úc với số thiết bị lọc nước trị giá hơn 960 triệu đồng (tương đương 60.000USD), Hội Chữ Thập đỏ Đức với số tiền gần 1,4 tỷ đồng (tương ứng 66.000EUR), Đại sứ quán Nauy với số tiền hơn 2,8 tỷ đồng (tương ứng 200.000 France Thuỵ Sỹ-CHF)…
Trong đợt lũ năm 2008 vừa qua đối với công tác tái thiết sau mùa lũ lụt ( rất quan trong trong việc giúp đỡ người dân ổn định cuộc sống sau này ) Hội chữ thập đỏ đã thực hiện hoạt động này như sau: (1) – cung cấp gạo cho 70.000 người bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong 3 tháng, bình quân 30kg/người; (2) - Cấp bộ thùng hàng gia đình gồm 1 thùng nhựa 40 lít, 1 thùng nhựa 10 lít, 1 gáo nhựa, 2 chăn, 1 màn, 1 đồ dùng nấu ăn cho 11.000 hộ gia đình (tương đương 46.200 người nghèo) bị ảnh hưởng nặng; (3) – cung ứng nước sạch cho 12.100 hộ nghèo (tương ứng 50.820 người) bị ảnh hưởng nặng nề về các công trình nước sạch; (4) - hỗ trợ sinh kế (giống, phân bón, vật nuôi) cho 30.200 hộ nghèo bị mất hết phương tiện kiếm sống sau lũ lụt .
3.3. Những vấn đề còn tồn tại đối với hoạt động cứu trợ xã hội VN :
Tuy có nhiều thành công trong công tác cứu trợ nhưng hoạt động cứu trợ vẫn còn gặp mắc phải nhiều vấn đề như :
a. Đa số các cơ sở bảo trợ xã hội chưa phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức hoạt động theo hướng chuyên nghiệp (trong một cơ sở chăm sóc nhiều loại đối tượng; nhiệm vụ của các bộ phận chuyên môn chồng chéo; chưa có hệ thống cung cấp dịch vụ; chưa mở rộng các chức năng như: chức năng chăm sóc tự nguyện, chức năng chăm sóc khẩn cấp hoặc tiếp nhận các đối tượng khác.
b. Cơ sở vật chất hiện có của nhiều cơ sở bảo trợ xã hội chưa đáp ứng tiêu chuẩn nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, phục hồi chức năng cho đối tượng.
c. Đội ngũ cán bộ, nhân viên thiếu về số lượng và đa số họ chưa qua đào tạo nghiệp vụ về công tác xã hội hoặc nghiệp vụ về chăm sóc, nuôi dưỡng các đối tượng, do đó thiếu tính chuyên nghiệp.
d.Hoạt động cứu trợ chưa đến được đúng đối tượng .
e.Tiền cứu trợ xã hội bị chiếm đoạt , cắt xén , làm cho số tiền đến tay người bị nạn giảm đi đáng kể :
Như năm 2002, lợi dụng tiền viện trợ khắc phục bão lụt của trung ương, Công ty Xuất nhập khẩu nông lâm nghiệp Hà Nội đã nhập các cây giống (sắn, mía) kém chất lượng của Trung Quốc về cung ứng cho Sở Nông nghiệp & phát triển nông thôn Phú Yên.Cây giống được trồng đều không phát triển và bị chết, nhưng một số cán bộ tại hai đơn vị đã kê khống hồ sơ để được thanh toán gần 10 tỷ đồng mua hàng từ nguồn tiền viện trợ chống bão lụt.
g. Sự chậm trễ trong việc chuyển tiền , hàng cứu trợ đến tay người dân , những sự sai phạm việc sử dụng tiền cứu trợ :
-Cơn bão số 5 cuối năm 2007 đã tàn phá thảm khốc huyện Thạch Thành, Thanh Hoá. Nhưng vẫn còn 638 triệu đồng cứu trợ bị tồn kho
-KonTum : Trích tiền làm quỹ thôn : Tại xóm Thông, xã Tân Khánh, huyện Phú Bình, nhiều hộ nghèo chỉ được nhận một nửa số tiền hỗ trợ vì bị cán bộ xóm bớt xén, với lý do để “làm quỹ xóm”. Còn ở xóm La Tú, cán bộ xóm bớt lại 20.000 một hộ để đóng góp đối ứng xây dựng làm cầu của xóm và 5.000 đồng tiền giấy, bút! (2007)
-Theo điều tra của Đất Việt, huyện vùng cao A Lưới (Thừa Thiên - Huế) có 2.760 hộ nghèo. Tuy nhiên, vẫn còn 259 hộ nghèo chưa được nhận tiền hỗ trợ Tết. Lý do là UBND huyện A Lưới tự ý giữ lại trên 500 triệu đồng trong tổng số 2,64 tỷ đồng tiền hỗ trợ Tết cho hộ nghèo trên địa bàn. (2007)
-Xã Duy Hải, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, nơi có 13 ngư dân tử nạn trong bão Chanchu, nhận được số tiền ủng hộ gián tiếp thông qua UBND xã gần 250 triệu đồng. Nhưng đến nay xã mới chi 53 triệu đồng, phần lớn cho hoạt động của cán bộ, số còn lại sung quỹ phòng chống thiên tai ( 07/2008)
Ngoài ra còn rất nhiều vụ việc sai phạm nữa trong công tác cứu trợ xã hội . Điều này đã thể hiện một cách rõ ràng mặt trái trong công tác cứu trợ xã hội VN , chúng ta cần phải có những biện pháp kịp thời để xử lý , ngăn ngừa những sai phạm này , để hoạt động cứu trợ xã hội thực sự có ý nghĩa như đúng với tên gọi của nó .
3.4 Một số giải pháp đổi mới , hoàn thiện hoạt động cứu trợ xã hội ở VN :
* Cần có sự đổi mới về nhận thức và nội dung hoạt động, tổ chức và phương thức cứu trợ xã hội, đảm bảo chế độ cứu trợ xã hội phù hợp đối với từng đối tượng cụ thể trong những hoàn cảnh khác nhau.
Cần phải phê phán quan niệm cho rằng, cứu trợ xã hội chỉ là công việc của Nhà nước và một số cơ quan làm công tác cứu trợ xã hội. Hiện nay, vẫn còn khá nhiều cán bộ Đảng, chính quyền ở địa phương cho rằng cứu trợ xã hội chỉ là công việc của các cán bộ thuộc ngành lao động, thương binh và xã hội mà không liên quan gì đến trách nhiệm của mình. Mặt khác, cũng cần sớm xây dựng một cơ chế hợp lý, có sự phân công trách nhiệm rõ ràng từ trung ương đến địa phương, từ các cơ quan Đảng, chính quyền tới các tổ chức quần chúng và cá nhân. ở đây, vai trò của Đảng bộ và chính quyền các cấp là hết sức quan trọng trong việc hoạch định phương hướng hành động và các biện pháp cụ thể, xây dựng cách thức hoạt động, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để thực hiện. Chính các cấp chính quyền xã, phường cơ sở là cấp quản lý thực tế sâu sát nhất, bởi vậy phải được coi là địa bàn chính để thực hiện công tác cứu trợ xã hội.
Sớm xây dựng những phương thức hợp lý nhất giúp các tổ chức đoàn thể xã hội và cá nhân có điều kiện tham gia tích cực và không hạn chế vào công tác cứu trợ xã hội. Phải tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục, sử dụng rộng rãi các phương tiện thông tin đại chúng phát động ý thức tự giác và lòng hảo tâm của mọi người. Xây dựng được phong trào “nhường cơm sẻ áo”, thông cảm giúp đỡ những người nghèo khổ cũng chính là xây dựng được một quan hệ xã hội mới nhân ái giữa con người với con người, là phương thức tốt nhất để chống lại những hệ quả xấu về xã hội của cơ chế thị trường.* Kết hợp chặt chẽ cứu trợ xã hội với các chính sách giảm nghèo, nâng cao đời sống các tầng lớp dân cư, giảm khoảng cách giàu – nghèo, nông thôn – thành thị,…
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy, mọi sự cứu trợ xã hội dù mạnh mẽ tới đâu cũng chỉ như muối bỏ bể nế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng và giải pháp hoạt động cứu trợ xã hội ở Việt Nam.docx