Tiểu luận Thực trạng và giải pháp nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Bình Dương

MỤC LỤC

 

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN 0

MỤC LỤC 1

LỜI MỞ ĐẦU 3

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 5

1.1 Một số khái niệm liên quan: 5

1.1.1. Vốn đầu tư nước ngoài: 5

1.1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment): 5

1.1.3. Đầu tư gián tiếp nước ngoài (ODA= Official Development Assistance) 6

1.1.4. Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI = Foreign Portfolio Investment) 8

1.2 Giới thiệu về tỉnh Bình Dương: 9

1.2.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên: 9

1.2.2 Kinh tế: 10

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG 12

2.1 Tình hình thu hút vốn FDI tại Bình Dương: 12

2.2 Những ưu đãi dành cho các nhà đầu tư: 14

2.3 Một số dự án lớn mới dược cấp phép đầu tư gần đây: 17

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP 20

3.1 Những giải pháp nhằm tăng cao khả năng thu hút vốn FDI: 20

3.1.1 Về luật pháp, chính sách: 20

3.1.2 Về thủ tục hành chính: 20

3.1.3 Về xúc tiến đầu tư (XTĐT) và hợp tác quốc tế: 20

3.1.4 Về lao động - tiền lương: 21

3.1.5 Về kết cấu hạ tầng: 21

3.2. Những kiến nghị của Nhóm 3 đối với tỉnh Bình Dương: 22

3.2.1 Về vấn đề Pháp lý – Hành chính: 22

3.2.2 Về chính sách khuyến khích đầu tư: 23

3.3.3 Về nguồn nhân lực 23

3.3.4 Về cơ sở hạ tầng: 24

3.3.5 Đa dạng hóa các kênh thu hút vốn đầu tư: 24

3.3.6. Đẩy mạnh công tác marketing, kêu gọi nhà đầu tư: 25

TỔNG KẾT 26

PHỤ LỤC 1: 27

PHỤ LỤC 2: 29

PHỤ LỤC 3: 32

TÀI LIỆU THAM KHẢO 30

 

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3398 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng và giải pháp nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp... có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần. Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI = Foreign Portfolio Investment) Là hình thức đầu tư gián tiếp xuyên biên giới. Nó chỉ các hoạt động mua tài sản tài chính nước ngoài nhằm kiếm lời. Hình thức đầu tư này không kèm theo việc tham gia vào các hoạt động quản lý và nghiệp vụ của doanh nghiệp giống như trong hình thức Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ưu điểm của FPI: + Góp phần làm tăng nguồn vốn trên thị trường vốn nội địa và làm giảm chi phi vốn thông qua việc đa dạng hoá rủi ro. + Thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính nội địa. + Thúc đẩy cải cách thể chế và nâng cao kỷ luật đối với các chính sách của chính phủ. Nhược điểm của FPI: + Nếu dòng FPI vào tăng mạnh, thì nền kinh tế tiếp nhận dễ rơi vào tình trạng phát triển quá nóng (bong bóng), nhất là các thị trường tài sản tài chính của nó. + Vốn FPI có đặc điểm là di chuyển (vào và ra) rất nhanh, nên no sẽ khiến cho hệ thống tài chính trong nước dễ bị tổn thương và rơi vào khủng hoảng tài chính một khi gặp phải các cú sốc từ bên trong cũng như bên ngoài nền kinh tế. + FPI làm giảm tính độc lập của chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái. Trong khuôn khổ của bài tiểu luận, nhóm chỉ xin đề cập đến nguồn vốn FDI tại tỉnh Bình Dương. Giới thiệu về tỉnh Bình Dương: Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên: Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ được tách ra từ tỉnh Sông Bé cũ từ ngày 1 tháng 1 năm 1997, phía bắc giáp tỉnh Bình Phước, phía nam và tây nam giáp thành phố Hồ Chí Minh, phía tây giáp tỉnh Tây Ninh, phía đông giáp tỉnh Đồng Nai. Tỉnh lỵ của Bình Dương hiện nay là thị xã Thủ Dầu Một, cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh 30 km, lại nằm trên các trục lộ giao thông huyết mạch của quốc gia đã được đầu tư, nâng cấp và mở rộng như Quốc lộ 1, 13, 14, đường sắt Bắc – Nam và tuyến đường xuyên Á. Với diện tích tự nhiên 2.681,01km2 (chiếm 0,83% diện tích cả nước và xếp thứ 42/61 về diện tích tự nhiên), đất đai bằng phẳng, nền địa chất ổn định vững chắc, quỹ đất còn lớn, có nguồn tài nguyên, Bình Dương có nhiều thế mạnh về nông sản, khoáng sản, vật liệu xây dựng đáp ứng cho sản xuất công nghiệp, xuất khẩu. Kinh tế: Vùng đất Bình Dương - Thủ Dầu Một ra đời cùng lúc với lịch sử hình thành Sài Gòn - Đồng Nai, từ thuở Nguyễn Hữu Cảnh "mang gươm đi mở cõi". Bắt đầu những năm 90, với phương châm: “Trải chiếu hoa mời gọi các nhà đầu tư” và các chính sách biện pháp thông thoáng nhằm phát huy tiềm năng thế mạnh sẵn có của tỉnh, Bình Dương phút chốc trở thành địa phương phát triển năng động nhất trong tứ giác kinh tế trọng điểm của cả nước. Để đạt được kết quả khả quan trên, chính sách “trải thảm đỏ” của tỉnh tiếp tục phát huy hiệu quả. Dưới góc nhìn của nhà đầu tư FDI, Bình Dương hội tụ đủ các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” cộng với hạ tầng công nghiệp được đầu tư tốt nên vẫn là điểm đến lý tưởng để đầu tư. Bình Dương là một trong những địa phương năng động trong kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài. Năm 2008, dù tình hình kinh tế toàn cầu có nhiều biến động theo chiều hướng không thuận lợi, nhưng thành công về kinh tế của tỉnh phải nói đến lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Đây là kết quả đáng tự hào và minh chứng Bình Dương vẫn là mảnh đất lành thu hút các doanh nghiệp FDI. Nét nổi bật trong việc thu hút vốn FDI của Bình Dương năm 2008 là xu hướng gia tăng vào lĩnh vực sản xuất sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, ít thông dụng lao động và sản phẩm được sản xuất có khả năng cạnh tranh tốt. Điều này vừa tạo sự cân bằng trong việc thu hút đầu tư và phù hợp với định hướng quy hoạch, phát triển công nghiệp bền vững của Bình Dương. Mục tiêu kinh tế của Bình Dương thời kỳ 2006 -2010 Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ VIII năm 2006 đã nêu mục tiêu phấn đấu thời kỳ 2006-2010 về kinh tế của tỉnh như sau: Tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân hàng năm là 15%. Quy mô GDP (giá hiện hành) đến năm 2010 đạt khoảng 45.800 tỷ đồng, tương đương 2,9 tỷ USD. GDP bình quân đầu người đạt khoảng 30 triệu đồng. Cơ cấu kinh tế của tỉnh là công nghiệp: 65,5%; dịch vụ: 30%; nông nghiệp: 4,5%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng bình quân 14-15%/năm. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cả thời kỳ đạt 3 tỷ USD. Theo mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì nông nghiệp giảm xuống còn 15-16%, công nghiệp và xây dựng 43-44%, dịch vụ 40-41%. Với tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp luôn ở mức cao như hiện nay là 35%/năm (2001-2005) thì Bình Dương sẽ là một trong những tỉnh về đích trước và sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được các mục tiêu phát triển này, ngoài nội lực và sự vươn lên của chính mình, Bình Dương mong muốn và mời gọi sự góp sức của bạn bè xa gần, các nhà đầu tư trong và ngoài nước và của tất cả những ai nhận ra Bình Dương là nơi “đất lành chim đậu”. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG Tình hình thu hút vốn FDI tại Bình Dương: Trong những năm gần đây, nền kinh tế Bình Dương phát triển rất ấn tượng, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trên 15% và trở thành một trong những tỉnh có nền công nghiệp phát triển năng động nhất trong vùng kinh tế động lực phía Nam và của cả nước. Quá trình phát triển đó có sự đóng góp của nhiều thành phần kinh tế, trong đó thành phần kinh tế có nguồn vốn đầu tư FDI được sử dụng hiệu quả nhất vào quá trình sản xuất công nghiệp, tạo bước đột phá đưa nền kinh tế Bình Dương phát triển với tốc độ cao. Nhằm tận dụng thế mạnh, đón đầu một làn sóng đầu tư mới, Bình Dương đang tiếp tục nỗ lực cải cách hành chính theo cơ chế "một cửa", đơn giản các thủ tục cấp phép, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp đến đầu tư và sản xuất kinh doanh tại địa phương. Tính đến giữa năm 2008, lũy kế vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp trong các KCN của tỉnh ước đạt hơn 1,8 tỉ USD, chiếm khoảng 49% số vốn đăng ký. So với năm 2007, số dự án đi vào hoạt động tăng 81 dự án, đạt 135% kế hoạch năm 2008. Năm 2008, FDI chảy vào tỉnh Bình Dương đạt 11 tỉ USD, với tỷ lệ giải ngân đạt 64%. Bình Dương thu hút thêm hơn 2 tỷ USD vốn FDI, kết quả này nâng nguồn vốn FDI trên địa bàn tỉnh lên gần 11 tỷ USD với hơn 1.800 dự án, bình quân 6 triệu USD/dự án, nhưng số vốn các dự án đầu tư đã tăng lên so với trước. Có 37 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào tỉnh; các quốc gia, vùng lãnh thổ đứng đầu về số lượng dự án và vốn đầu tư là  Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản, Malaysia... Riêng quý 1 năm 2009, Bình Dương thu hút thêm 314,7 triệu USD vốn FDI, trong đó có 21 dự án đầu tư mới với tổng vốn hơn 206 triệu USD, và 28 dự án bổ sung vốn thêm hơn 108 triệu USD. Tuy ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khiến cho mức thu hút này chỉ bằng 46% cùng kỳ, nhưng cũng đã đánh dầu được sự nổi trội của Bình Dương khi mà lượng tiền và số dự án trên cả nước có nguồn vốn này giảm 40% so với cùng kỳ. Trong những năm gần đây, các KCN Bình Dương tiếp tục phát triển, nhiều KCN mới được thành lập, nâng tổng số KCN quy hoạch đến năm 2010 là 24 KCN (không kể 2 KCN Việt Nam – Singapore 1, 2) với tổng diện tích được phê duyệt là 6.840,68 ha (tăng gấp 1,4 lần so với cùng kỳ), trong đó bao gồm 21 KCN hiện hữu với tổng diện tích 5.130 ha và 3 KCN mới có chủ trương đầu tư như KCN Bàu Bàng, KCN An Tây, KCN Bình Dương Xanh. Chủ đầu tư của 21 KCN đã tập trung 908 tỷ đồng cho việc đầu tư cơ sở hạ tầng, tập trung chủ yếu ở các KCN mới như Kim Huy, Mỹ Phước 3, Đồng An II, Sóng Thần 3. Trong số này, các KCN có tỷ lệ thực hiện vốn đầu tư cao là Sóng Thần 2, Đồng An II, Sóng Thần 3. Xu hướng thu hút đầu tư chuyển hướng tập trung vào các ngành cơ khí, điện, điện tử từ các nhà đầu tư Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ; đặc biệt thu hút đầu tư đã tập trung chủ yếu vào KCN Mỹ Phước, nơi có cơ sở hạ tầng khá hoàn chỉnh. Đứng đầu quốc gia, vùng lãnh thổ đầu tư là Hàn Quốc với 21 dự án và xếp theo vốn đầu tư thì Thái Lan dẫn đầu. Công tác xúc tiến đầu tư được tăng cường và là hoạt động thường xuyên, liên tục; bước đầu, đã thu hút được một số nhà đầu tư đến từ Hoa Kỳ và Châu Âu, tuy số lượng còn ít, nhưng ngành nghề đầu tư vào KCN có công nghiệp cao như cơ khí, công nghiệp điện, điện tử. Điều này, đã góp phần trong việc định hướng ngành nghề, thu hút đầu tư vào các KCN trong thời gian tới. Lũy kế đến nay các KCN Bình Dương có 730 dự án đầu tư còn hiệu lực, trong đó 250 dự án có vốn đầu tư trong nước (bao gồm cả các chi nhánh) và 480 dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp là 1.511.382.794 USD (đạt 51% tổng vốn đầu tư đăng ký). Các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp KCN đạt kết quả cao, doanh thu đạt 56,76% kế hoạch năm. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nổi trội hơn với doanh thu tăng gần 48%, kim ngạch xuất khẩu tăng 86,87%, kim ngạch nhập khẩu tăng 61,97% và nộp thuế tăng 101,32% so với cùng kỳ. Hiện có 493 doanh nghiệp đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh (đạt tỷ lệ 68% trên tổng số doanh nghiệp được cấp phép hoạt động) trong đó 307 doanh nghiệp FDI và 186 doanh nghiệp trong nước, giải quyết nhiều việc làm cho hơn 149.000 lao động. So với cùng kỳ năm trước, cả đầu tư trong và ngoài nước vào các KCN đều tăng và vượt hầu hết các chỉ tiêu kế hoạch năm 2007. Những ưu đãi dành cho các nhà đầu tư: Trong buổi hội thảo liên kết phát triển chính sách và cơ chế quản lý vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, khi đề cập đến “Hiện tượng Bình Dương”, tiến sĩ Trần Du Lịch - Viện trưởng Viện Kinh tế TP.HCM, nói: “Về chính sách thu hút đầu tư, chính quyền Bình Dương có một sự trọng thị thật sự. Tôi cảm nhận tỉnh rất khát khao mời gọi các nhà đầu tư. Và, lãnh đạo tỉnh nhận thức được rằng, muốn vậy, phải đổi mới cơ chế, thủ tục hành chính, xây dựng hạ tầng kinh tế và xã hội tốt nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho nhà đầu tư”. Quả đúng như nhận định của tiến sĩ Trần Du Lịch, nếu không khát khao, không trọng thị thu hút đầu tư thì đã không thể có "nét riêng Bình Dương", được các nhà đầu tư "gắn" nhãn mác "thương hiệu Bình Dương". Bởi suy cho cùng, Bình Dương không thể thoát ra khỏi những quy định chung của Nhà nước trong lĩnh vực kêu gọi, thu hút vốn FDI. Nên phải tạo nét riêng cho mình. Nét riêng đó là gì? Ở Bình Dương, lãnh đạo tỉnh luôn “xắn tay áo” sát cánh cùng nhà đầu tư. Bình Dương coi tất cả những khó khăn, vướng mắc của nhà đầu tư chính là khó khăn, vướng mắc của tỉnh để cùng hợp tác cải thiện môi trường đầu tư cho lành mạnh và thông thoáng hơn. Cụ thể, về cấp phép đầu tư, chỉ trong vòng 3 ngày trở lại kể từ khi nộp hồ sơ (ở một số địa phương khác từ 15-30 ngày), các DN sẽ có trong tay giấy phép đầu tư. Sở Kế hoạch - Đầu tư là đầu mối thực hiện cơ chế một cửa, giải quyết tất cả những thủ tục cho các nhà đầu tư. Bình Dương còn được Bộ Kế hoạch - Đầu tư ủy quyền xét cấp phép các dự án từ 40 triệu USD trở xuống (ngay như TP.HCM cũng chưa nhận được “đặc cách” này).   Giám đốc một công ty cơ khí ở KCN Sóng Thần I cho hay: là một người ở TP.HCM, ban đầu ông định lập nhà máy hoạt động tại một KCN ở TP.HCM. Tuy nhiên, để hoạt động, công ty phải chờ cấp phép trong thời gian 30 ngày; còn để có đất xây dựng nhà xưởng thì được chủ đầu tư KCN trả lời rất mơ hồ: khi nào có đất, chúng tôi sẽ báo. Trong khi đó ở Bình Dương: “Chỉ 3 ngày là chúng tôi được cấp phép và được giao đất ngay. Bởi vậy, chúng tôi không ngần ngại tìm đến đây, dù phải chấp nhận trả một khoản chi phí vận chuyển cao hơn".  Tương tự, ông Kim Yong Min - Tổng giám đốc Công ty TNHH Pukyong (Hàn Quốc) chuyên sản xuất loa và xi mạ, nói rằng, trước khi đầu tư vào Việt Nam, công ty đã thăm dò, khảo sát một số nơi. Cuối cùng, công ty quyết định đầu tư vào Bình Dương với 3 lí do: thái độ trọng thị nhà đầu tư của lãnh đạo tỉnh, cơ chế thủ tục thông thoáng và dịch vụ đi kèm tại các KCN tốt. Ông John Brudsall - Giám đốc Công ty chế biến và xuất khẩu Coffee thuộc tập đoàn Neumann (Đức) kể rằng, khi công ty ông đang tất bật lo xây dựng nhà máy thì bất ngờ lãnh đạo Sở Kế hoạch - Đầu tư và Ban Quản lý KCN ra tận công trường thăm và hỏi ông có hài lòng với điều kiện hạ tầng kỹ thuật hay không. Tiện thể, ông nói các họng cứu hỏa đặt quá xa nhà máy, nếu không may xảy ra sự cố, ứng biến sẽ chậm. Ngay hôm sau, một họng nước cứu hỏa đã được lắp sát cạnh nhà máy của ông. Các KCN: Thu hút mạnh đầu tư không chỉ nhờ giá thuê đất rẻ Bình Dương có hai Ban Quản lý KCN, trong đó KCN Việt Nam - Singapore được Chính phủ đặc biệt hỗ trợ qua việc cho phép thành lập một ban quản lý riêng để tư vấn, thẩm định và cấp giấy phép đầu tư và các thủ tục khác cho nhà đầu tư. Đặc biệt, tại đây còn có hải quan riêng của KCN nhằm giúp DN thông quan hàng hóa nhanh, tiết kiệm. Tại các KCN ở Bình Dương, nhà đầu tư được hỗ trợ miễn phí từ việc lập hồ sơ thành lập công ty, xin giấy phép đăng ký kinh doanh, lập dự án đầu tư, hướng dẫn làm thủ tục xin ưu đãi đầu tư, thiết kế nhà xưởng... Ngoài cơ chế chính sách, Bình Dương chủ trương xây dựng thật tốt cơ sở hạ tầng kỹ thuật các KCN nhằm thỏa mãn yêu cầu nhà đầu tư. Cở sở hạ tầng tại các KCN Bình Dương được giới đầu tư đánh giá không hề thua kém những KCN trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Lý giải về các KCN Bình Dương đang có sức hút đầu tư lớn hơn so với các KCN ở phía Nam,  ông Trần Văn Liễu - Trưởng ban Quản lý các KCN Bình Dương, nói: “Ngoài giá thuê đất rẻ hơn thì môi trường đầu tư là rất quan trọng. Nếu giá thuê đất rẻ, nhưng dịch vụ không tốt, hay có nhiều loại phí thì chi phí cộng dồn của DN sẽ lớn. Như vậy thì DN sẽ rất cân nhắc khi quyết định đầu tư vào đâu”. Có hai loại phí các KCN đang thu, đó là: Phí bảo dưỡng: (được sử dụng cho công tác quản lý và bảo dưỡng các tiện ích công cộng như: hệ thống đường nội bộ, hệ thống thoát nước mưa, các họng cứu hoả, cổng, tường rào, cầu vào KCN), mức thu trung bình ở các KCN Bình Dương là  0,479 USD/m²/năm; các KCN ở TP.HCM là 0,667 USD/m2/năm. Phí dịch vụ: (được sử dụng cho việc vận hành, bảo dưỡng các tiện ích chung, các thiết bị cung cấp nước, trồng cây xanh, bảo dưỡng hệ thống chiếu sáng công cộng, an ninh chung trong KCN) ở các KCN Bình Dương là 0,406 USD/m²/năm, ở các KCN TP.HCM là 0,648 USD/m2/năm. Trong các cuộc tiếp xúc với DN, lãnh đạo tỉnh Bình Dương khẳng định quyết tâm tiếp tục tháo bỏ những cơ chế hành chính gây cản trở tiến trình thu hút đầu tư và hoạt động của DN, có những chỉnh đổi chính sách kịp thời, phù hợp với tình hình mới. Một số dự án lớn mới dược cấp phép đầu tư gần đây: Được biết đến từ lâu là một địa chỉ hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài trong nhiều năm qua, tỉnh Bình Dương đang ngày càng "kéo" thêm được nhiều nhà đầu tư đến với mình. Trong 6 tháng qua, Bình Dương là địa phương đã thu hút được nhiều dự án có vốn rất lớn của các tập đoàn lớn trên thế giới. Đáng chú ý nhất là dự án của Tập đoàn TOYO IND (Malaixia) vốn 1 tỷ USD để xây dựng nhà máy nhiệt điện công suất 1.000 MW, tại khu công nghiệp Thới Hòa. Bên cạnh đó công ty TNHH Giấy KRAFT VINA thuộc tập đoàn SCG Siam Cement (Thái Lan) đã đầu tư 220 triệu USD xây dựng nhà máy sản xuất bao bì tại Khu công nghiệp Mỹ Phước 3 - nơi mà theo đánh giá của ông Venus Asavasittitavorn, Tổng giám đốc tập đoàn SCG Siam Cement - là nơi "hội tụ đủ các điều kiện để đầu tư". Ông còn khẳng định hoàn toàn tin tưởng sẽ thành công khi đầu tư tại đây. Một nhà đầu tư khác đến từ Đài Loan là Tập đoàn TECO, mới đây khi đến tìm hiểu về môi trường đầu tư tại Bình Dương, cũng đã quyết định thuê 50 ha đất tại khu công nghiệp Mỹ Phước 2 để đầu tư dự án sản xuất điện tử-điện lạnh gia dụng với vốn khoảng 50 triệu USD. Tỉnh cũng đã trao giấy phép đầu tư xây dựng khu liên hợp thương mại cho Công ty TNHH GS Retail Việt Nam thuộc Tập đoàn GS Retail (Hàn Quốc), với tổng vốn đầu tư giai đoạn đầu 20 triệu USD, tại khu công nghiệp Mỹ Phước 3, huyện Bến Cát. Vừa qua, tập đoàn SP Setia Berhad (Tập đoàn bất động sản lớn nhất của Malaysia) đã ký kết với Tập đoàn Becamex IDC (doanh nghiệp Nhà nước hàng đầu của Bình Dương) thành lập Công ty liên doanh - SetiaBecamex Joint Stock Company để triển khai xây dựng Dự án Khu đô thị sinh thái Mỹ Phước (EcoLakes Mỹ Phước) với tổng vốn đầu tư khoảng 600 triệu USD. Ngày 14 – 4 – 2008 : Dự án xây dựng nhà máy sản xuất và gia công nước giải khát các loại do Công ty TNHH Nước giải khát Kirin Acecook Việt Nam đầu tư với tổng vốn 60 triệu USD được UBND tỉnh đã trao giấy phép đầu tư Ngày 19 – 7 – 2008: Dự án xây dựng nhà máy sản xuất sản phẩm điện, điện tử kỹ thuật cao với tổng vốn đầu tư 50 triệu USD do Công ty TNHH Công nghệ Teco Việt Nam (thuộc Tập đoàn Teco - Đài Loan) đầu tư đã khởi công.  Ngày 3 – 10 – 2008: Dự án xây dựng nhà máy sản xuất và kinh doanh máy cày, máy gặt đập liên hợp với vốn đầu tư giai đoạn 1 là 11,3 triệu USD do Công ty TNHH Kubota Việt Nam (liên doanh hợp tác giữa Tập đoàn Kubota Nhật Bản và Công ty Siam Kubota của Thái Lan) đầu tư được UBND tỉnh trao Giấy chứng nhận đầu tư. Cuối tháng 12, UBND tỉnh Bình Dương đã trao giấy phép đầu tư cho Công ty TNHH kinh doanh đô thị Mapletree Việt Nam thuộc Tập đoàn Mapletree Singapore đầu tư dự án Khu công nghiệp công nghệ cao Mapletree Việt Nam tại Khu liên hợp Công nghiệp - Dịch vụ - Đô thị Bình Dương với số vốn đầu tư 400 triệu USD. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP 3.1 Những giải pháp nhằm tăng cao khả năng thu hút vốn FDI: 3.1.1 Về luật pháp, chính sách: Truyên truyền, tập huấn kịp thời cho các cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp về nội dung của các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp. Ban hành các Thông tư hướng dẫn về những vấn đề chưa được quy định cụ thể trong Nghị định 108 thi hành Luật Đầu tư. Kiến nghị Thủ tướng Chính phủ sớm ban hành Chỉ thị về các biện pháp nhằm tạo làn sóng đầu tư mới. Rà soát các cam kết của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế và có cơ chế thực hiện đầy đủ theo tiến độ. 3.1.2 Về thủ tục hành chính: Khẩn trương kiện toàn bộ máy quản lý ĐTNN tại các địa phương để đáp ứng yêu cầu phân cấp. Tập trung hướng dẫn theo dõi thực hiện quy định mới về thủ tục đầu tư, tránh gây ách tắc phiền hà cho các doanh nghiệp. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, thực hiện tốt cơ chế "một cửa", tăng cường rà soát các dự án đã được cấp phép. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm soát sau cấp giấy phép nhằm hướng dẫn việc thực hiện đúng pháp luật và ngăn chặn các vi phạm pháp luật. Tiếp tục đẩy mạnh công tác chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm và chống lãng phí. Về xúc tiến đầu tư (XTĐT) và hợp tác quốc tế: Tổ chức thường xuyên các "Ngày Việt Nam ở nước ngoài" tạo điều kiện để xây dựng các hoạt động XTĐT và giới thiệu hình ảnh Việt Nam với bạn bè thế giới. Khẩn trương thực hiện chủ trương tăng cường cơ quan đại diện xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm. Kiến nghị Thủ tướng Chính phủ sớm phê duyệt ban hành Danh mục dự án quốc gia kêu gọi vốn ĐTNN giai đoạn 2006-2010 đồng thời đề nghị các địa phương rà soát và xây dựng danh mục các dự án kêu gọi ĐTNN trên địa bàn với các tiêu chí rõ ràng, minh bạch để nhà đầu tư dễ lựa chọn. Tăng cường hợp tác phối hợp giữa các cơ quan XTĐT ở các cấp giữa trong nước với các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài, đồng thời, nâng cao chất lượng tài liệu, cán bộ, kỹ thuật cho XTĐT. Về lao động - tiền lương: Tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm ngăn chặn đình công bất hợp pháp. Đẩy nhanh việc triển khai các chương trình, dự án hỗ trợ người lao động làm việc trong các KCN, nhất là về nhà ở và điều kiện sinh hoạt của người lao động. Cần có chương trình cụ thể về tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng cho nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới, kể cả về cán bộ quản lý các cấp và cán bộ kỹ thuật. Về kết cấu hạ tầng: Xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, hợp lý để việc giao đất cho nhà đầu tư được thuận tiện, nhanh chóng. Tập trung xử lý những khâu yếu kém nhất gây trở ngại đối với hoạt động đầu tư như khả năng cung cấp điện, nước, viễn thông, dịch vụ cảng biển... 3.2. Những kiến nghị của Nhóm 3 đối với tỉnh Bình Dương: Về vấn đề Pháp lý – Hành chính: Từng bước hoàn thiện hành lang pháp lý, biến Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán…sát với thực tế hơn, theo hướng tạo điều kiện thuận lợi, đảm bảo tính minh bạch và dễ tiên đoán, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế và trở thành những công cụ quản lý hiệu quả của nhà nước. Các thủ tục hành chính còn rườm rà, nhiều cán bộ, công chức còn mang nặng tư tưởng quan liêu, hách dịch đã gây khó khăn cho nhiều nhà đầu tư trong việc nắm bắt các cơ hội. Đây chính là nguyên nhân khiến không ít nhà đầu tư ngần ngại khi đầu tư vào Việt Nam. Chúng ta cần nhanh chóng hoàn thành quá trình cải cách hành chính với cơ chế “một cửa, một dấu”, xây dựng một đội ngũ công chức nhà nước có năng lực, thân thiện, biết lắng nghe… Đẩy nhanh quá trình thẩm định các dự án, thẩm định liên doanh. Tuy nhiên cũng cần phải kiểm tra kỹ và cẩn thận với các dự án lớn. Trực tiếp giải quyết hoặc thay mặt nhà đầu tư liên hệ giải quyết mọi thủ tục cần thiết (yêu cầu điện, nước, vốn tín dụng, chứng nhận ưu đãi đầu tư...). Để tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư vào tỉnh Binh Dương, lãnh đạo các cấp, các sở ban ngành có liên quan của tỉnh Bình Dương cần chỉ đạo chấn chỉnh về thu hút đầu tư, tiếp tục thực hiện tiếp xúc doanh nghiệp theo định kỳ, giải quyết vướng mắc về thủ tục đầu tư, giải tỏa đền bù... để nhà đầu tư có thể yên tâm rằng chính phủ Việt Nam luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Về chính sách khuyến khích đầu tư: Ban hành những chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư tùy vào quy mô của từng dự án. Hình thành cục diện mở cửa, đó là: khu vực ưu đãi thuế quan, đặc khu kinh tế, khu kinh tế mở, khu chế xuất, khu công nghệ cao… Cần khuyến khích các đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau, nhất là lĩnh vực công nghệ cao, các ngành nghề kỹ thật mới như: hàng điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học…Thực hiện giảm thuế, miễn thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng cho các thiết bị sản xuất nhập khẩu trong các ngành được khuyến khích. Tăng tỷ lệ nội địa hóa trong các sản phẩm nhằm giảm giá thành. Thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tích lũy kinh nghiệm trong quản lý. Nhanh chóng chuyển giao những công nghệ tiên tiến. Về nguồn nhân lực Nâng cao trình độ văn hoá cũng như tay nghề của đội ngũ công nhân hiện nay bằng các lớp học bổ túc, những khóa học ngắn hạn. Thu hút nguồn nhân lực cấp cao dành cho các vị trí quản lý, định hướng chính sách từ mọi nơi. Điều này có thể thực hiện được bằng những chính sách về lương bổng, lợi ích, vị trí và thăng tiến. Xây dựng những trường đào tạo nghề, trung cấp, đại học - cao đẳng nhằm đào tạo và sẵn sàng cung ứng lao động kĩ thuật cho nhà đầu tư, đào tạo theo yêu cầu của nhà đầu tư. Về cơ sở hạ tầng: - Khi xây dựng KCN cần có sự tập trung, hoạch định rõ ràng và cụ thể, tránh tình trạng “loạn KCN” như hiện nay, đặc biệt tại các huyện phía Bắc như Tân Uyên. Quy hoạch, xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở…với đầy đủ hạ tầng cơ sở hiện đại như: hệ thống điện, nước, bưu chính viễn thông, xử lý nước thải, đường xá … đáp ứng đến hàng rào nhà máy. Tập trung hơn nữa vào những KCN mới nhưng có tiềm năng phát triển mạnh như: KCN Rạch Bắp, Đất Đuốc… Bên cạnh đó, chú ý đến công tác quy hoạch khu dân cư: nhà ở, nhà trọ, khu đô thị, chợ, nhà ở xã hội… bên cạnh KCN nhằm đảo bảo được sự thu hút tuyệt đối cho tỉnh mình. Đa dạng hóa các kênh thu hút vốn đầu tư: Có thể kêu gọi đầu tư dưới nhiều hình thức, từ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII hay FPI- Foreign Porfolio Investment), nguồn kiều hối và vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Ngoài nguồn FDI đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung nguồn vốn, chuyển giao công nghệ và phương thức kinh doanh hiện đại, khai thác các tiềm năng của đất nước, đào tạo tay nghề và giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động, góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước. Cần phải thúc đẩy nhanh hơn cả về thể chế, chính sách, môi trường, định chế, công cụ để huy động nhiều hơn nguồn vốn FPI. Đây là yêu cầu hết sức cấp bách, bởi nguồn vốn FPI hết sức có ý nghĩa đối với sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù vậy, nguồn vốn này cũng luôn tiềm ẩn rủi ro cao hơn so với các nguồn vốn đầu tư khác, do nhà đầu tư dễ dàng “rút khỏi cuộc chơi”, nếu việc đầu tư kém hiệu quả hoặc an ninh tài chính bị ảnh hưởng. Vì thế, việc thu hút nguồn vốn FPI cần phải được nghiên cứu, cân nhắc cẩn trọng, không chỉ trên luận cứ khoa học, mà còn cần nghiên cứu kỹ những bài học mà các nước đã trải qua. Các doanh nghiệp cũng cần phải nghiên cứu và lên kế hoạch nhằm gia thị trường chứng khoán vì đây là kênh thu hút vốn đầu tư rất hiệu quả. 3.3.6. Đẩy mạnh công tác marketing, kêu gọi nhà đầu tư: - Tranh thủ sự ủng hộ vốn có của các hiệp hội, nghiệp Đoàn các DN Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Lo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận- Thực trạng và giải pháp thu hút đầu tư nứơc ngoài vào Bình Dương (2008).doc