Tiểu luận Thực trạng và giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại FDI tại Việt Nam

MỤC LỤC

Lờimở đầu 4

I. . Khái quát về vốn đầu tư trực tiếp từ nước

ngoài(FDI) 5

1. Khái niệm

2 Những nhân tố thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài5

3. Lợi ích của thu hút FDI7

4. Các hình thức FDI

II. Thực trạng thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam

1. Năm thành tựu nổi bật của 20 năm FDI tại Việt Nam 11

2. Tác động tích cực của việc gia nhập WTO tới việc thu hút

FDI vào Việt Nam12

.3.Việt Nam -điểm đầu tư hấp dẫn15

4. Một số tồn tại trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài18

vào Việt Nam

5. Thực trạng giải ngân vốn FDI 22

III. Giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài

vào Việt Nam 25

Kết luận 26

pdf25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5525 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng và giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại FDI tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước. Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu. Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản xuất thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 9 Nguồn thu ngân sách lớn Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng. Chẳng hạn, ở Hải Dương riêng thu thuế từ công ty lắp ráp ô tô Ford chiếm 50 phần trăm số thu nội địa trên địa bàn tỉnh năm 2006. 4. Các hình thức FDI Phân theo bản chất đầu tư Đầu tư phương tiện hoạt động Đầu tư phương tiện hoạt động là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư mua sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư. Hình thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào. Mua lại và sáp nhập Mua lại và sáp nhập là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể đang hoạt động ở nước nhận đầu tư hay ở nước ngoài) mua lại một doanh nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết dẫn tới tăng khối lượng đầu tư vào. Phân theo tính chất dòng vốn Vốn chứng khoán Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do một công ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các quyết định quản lý của công ty. Vốn tái đầu tư Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh do anh trong quá khứ để đầu tư thêm. Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ 10 Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau. Phân theo động cơ của nhà đầu tư Vốn tìm kiếm tài nguyên Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào ở nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động có thể kém về kỹ năng nhưng giá thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ năng dồi dào. Nguồn vốn loại này còn nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có thương hiệu ở nước tiếp nhận (như các điểm du lịch nổi tiếng). Nó cũng còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ của nước tiếp nhận. Ngoài ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các nguồn tài nguyên chiến lược để khỏi lọt vào tay đối thủ cạnh tranh. Vốn tìm kiếm hiệu quả Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp ở nước tiếp nhận như giá nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như điện nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng sản xuất kinh doanh rẻ, thuế suất ưu đãi, v.v... Vốn tìm kiếm thị trường Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường hoặc giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh tranh giành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn nhằm tận dụng các hiệp định hợp tác kinh tế giữa nước tiếp nhận với các nước và khu vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập vào các thị trường khu vực và toàn cầu 11 II. Thực trạng thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam 1. Năm thành tựu nổi bật của 20 năm FDI tại Việt Nam Ngày 24/1/2008, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức hội thảo "20 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam" nhằm nhìn nhận lại những kết quả đã đạt được và rút ra những bài học cũng như định hướng cho giai đoạn phát triển mới. Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thời gian qua đạt được 5 thành tựu nổi bật. Thứ nhất, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng, góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế-xã hội. Tính từ năm 1988 đến nay, Việt Nam đã thu hút 9.500 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD. Đặc biệt, năm 2007 thu hút đầu tư nước ngoài vượt ngưỡng hơn 20 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006, chiếm trên 20% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong 20 năm qua. Hình thức đầu tư Số dự án Vốn đầu tư Vốn điều lệ Đầu tư thực hiện 100% vốn nước ngoài 6223 44,866,635,414 18,411,831,460 12,519,392,237 Liên doanh 1570 22,307,793,372 8,511,428,929 11,573,461,672 Hợp đồng hợp tác KD 217 4,494,300,995 4,043,638,166 6,351,274,259 Công ty cổ phần 43 652,155,947 323,030,611 370,761,085 Hợp đồng BOT,BT,BTO 4 440,125,000 147,530,000 71,800,000 Công ty Mẹ - Con 1 98,008,000 82,958,000 73,738,000 Tổng số 8,058 72,859,018,728 31,520,417,166 30,960,427,253 12 Thứ hai, quá trình thu hút đầu tư nước ngoài đóng góp tích cực vào thành công của công cuộc đổi mới trong 21 năm qua. Hiện khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 16% GDP, đóng góp vào ngân sách Nhà nước vượt 1,5 tỷ USD trong năm 2007; đồng thời thu hút 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp. Thứ ba, đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Về cơ cấu, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 37% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Về cơ cấu vùng, đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm đã góp phần làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực để lôi kéo sự phát triển chung và các vùng phụ cận . Thứ tư, đầu tư nước ngoài là cầu nối quan trọng giữa kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới, thúc đẩy phát triển thương mại, du lịch và tạo điều kiện quan trọng để Việt Nam hội nhập ngày càng chủ động và sâu hơn vào đời sống kinh tế thế giới. Thứ năm, đầu tư nước ngoài có tác động đến kinh tế trong nước, thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, đổi mới phương thức quản trị doanh nghiệp cũng như phương thức kinh doanh; đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. 2. Tác động tích cực của việc gia nhập WTO tới việc thu hút FDI vào Việt Nam Việc Việt Nam ra nhập FDI và hiệu ứng từ gia nhập WTO đã đẩy làn sóng FDI vào Việt Nam lên cao, thế nhưng Việt Nam còn có một tiềm năng lớn để thu hút FDI ở mức độ cao hơn nhiều. Điều này đã được minh chứng trong 13 khảo sát triển vọng đầu tư thế giới của UNCTAD 2007-2009, trong đó Việt Nam được xếp thứ 6 trong số nền kinh tế hấp dẫn nhất để đưa FDI vào. Tiềm năng này có thể trở thành hiện thực nếu Việt Nam tiếp tục có những khuôn khổ và chính sách thích hợp trong thu hút FDI. Có nhiều biểu hiện cho thấy rằng Việt Nam hiện đang đi theo hướng đó với việc nghiêm túc thực hiện các cam kết gia nhập WTO. Năm 2007, tính chung cả cấp mới và tăng vốn, thu hút nguồn vốn FDI đạt 20,3 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006, gần bằng tổng mức FDI trong 20 năm qua, kể từ khi có Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987 đến nay. Nổi bật trong thu hút nguồn vốn FDI năm 2007 là các dự án đầu tư đã tập trung vào các lĩnh vực mà Việt Nam ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài để phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như các dự án công nghệ cao, khu đô thị mới, hiện đại... Điều này phù hợp với định hướng thu hút FDI của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010. Sau một năm trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn về KTXH, đã và đang tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, những cơ hội đầu tư mới cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức WTO cũng đã và đang mở ra những cơ hội mới trong thu hút FDI. Trước hết, việc gia nhập WTO đã tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia thị trường xuất khẩu hàng hóa quốc tế một cách bình đẳng, góp phần khắc phục trở ngại về thị trường mà lâu nay các doanh nghiệp Việt Nam, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường gặp phải. Điều đó đã tạo điều kiện thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư tại Việt Nam để xuất khẩu ra thế giới. Thứ 2, Việt Nam cam kết mở cửa 11/12 ngành dịch vụ, gồm 110 phân ngành theo quy định của WTO, trong đó có một số ngành quan trọng như: dịch vụ 14 viễn thông, bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán, vận tải, bảo hộ sở hữu trí tuệ... Điều này đã tạo điều kiện thu hút FDI vào lĩnh vực kinh doanh dịch vụ tại Việt Nam và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư lâu dài ở Việt Nam. Thứ ba, việc gia nhập WTO cũng đòi hỏi Việt Nam tiếp tục xây dựng môi trường pháp lý hoàn chỉnh và minh bạch hơn. Việt Nam đã cam kết kể từ khi gia nhập WTO sẽ tuân thủ toàn bộ các hiệp định quan trọng của WTO liên quan đến chính sách tài chính, tiền tệ, doanh nghiệp nhà nước, quyền kinh doanh, trợ cấp, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs), tuân thủ nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO (trừ một số ngoại lệ), loại bỏ toàn bộ các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu, bãi bỏ chế độ hai giá, bãi bỏ áp dụng tỉ lệ xuất khẩu bắt buộc đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... Điều này (được thể hiện trong Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp mới cùng các văn bản hướng dẫn) sẽ thúc đẩy mở cửa các ngành kinh tế và tăng tính hấp dẫn của Việt Nam đối với đầu tư nước ngoài. Thứ tư, việc gia nhập WTO tạo điều kiện thúc đẩy nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế của doanh nghiệp và của sản phẩm Việt Nam. Đồng thời, việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO cũng tạo thêm lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO tiếp tục có tác động lớn làm cho dòng vốn FDI tăng cao trong năm 2007 và sẽ tiếp tục tăng trưởng. Bên cạnh sự tăng lên mạnh mẽ về số lượng dự án đầu tư nước ngoài cũng như về vốn đăng ký mới, các dự án đầu tư mới trong thời gian tới sẽ hướng dần đến những ngành, lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn, gia tăng xuất khẩu, tạo việc làm, các dự án sản xuất các sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh, các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng. 15 Hiện Chính phủ Việt Nam đang chuẩn bị các điều kiện thuận lợi nhất cho việc thu hút ở mức cao nhất và sử dụng có hiệu quả nhất dòng vốn FDI đang tăng mạnh tại Việt Nam, trong đó có việc thực hiện có hiệu quả và đúng lộ trình các cam kết song phương và đa phương trong quá trình hội nhập quốc tế; tiếp tục hoàn thiện cơ chế thị trường, cải cách thủ tục hành chính, hệ thống tài chính, ngân hàng; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, khắc phục các yếu kém về kết cấu hạ tầng và phát triển ngành công nghiệp phụ trợ." Năm 2007, số lượng các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam là 1.445 dự án, tăng gấp đôi so với năm 2006. Tổng số tiền đầu tư (bao gồm cả các khoản đầu tư mới, đầu tư mở rộng) là 20,3 tỷ USD, đây là con số lớn nhất cho tới nay. Những con số này cho thấy sự lớn mạnh ngạc nhiên của đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong năm 2007. Thế nhưng khó có thể chỉ dựa vào sự gia tăng một cách đột ngột này để đánh giá và phán đoán được những công lao và khuyết điểm chỉ sau một năm gia nhập WTO. Trong tương lai gần, nếu xác định được những lợi nhuận trong việc gia nhập WTO, các nhà đầu tư sẽ cảm thấy an toàn để thực hiện các hoạt động đầu tư và sẽ cân nhắc xúc tiến đầu tư vào Việt Nam. Điều này chắc chắn sẽ mang lại nhiều lợi nhuận cho Việt Nam. Trong suốt quá trình gia nhập WTO, Việt Nam đã nỗ lực rất lớn để đàm phán với các nước thành viên của WTO và cải thiện hệ thống pháp lý phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế được thiết lập bởi WTO như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp... .3. Việt Nam - điểm đầu tư hấp dẫn Năm 2006, khoảng 50 nền kinh tế thế giới đã đầu tư hơn 20 tỉ USD vào Việt Nam. FDI đã tăng mạnh, gấp đôi so với giai đoạn vừa qua chỉ trong vòng 1 năm. Trong số 50 nền kinh tế đầu tư vào Việt Nam thì Hàn Quốc là quốc gia 16 đứng đầu về FDI tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký 13 tỉ USD với 1837 dự án tính đến tháng 12/2007. Chỉ riêng trong năm 2007, Hàn Quốc đã đăng ký 4,4 tỉ USD tăng 1,5 lần so với 2006 và giữ vị trí FDI hàng đầu tại Việt Nam cả về số lượng dự án và số vốn đầu tư. Trong lĩnh vực bất động sản và công nghiệp chủ chốt khác như năng lượng, hoá chất, hoá dầu, sản xuất thép... và trong những năm tới Việt Nam sẽ còn tiếp tục chứng kiến sự tăng vọt của FDI bởi vì với một môi trường kinh tế-xã hội-chính trị ổn định. Việt Nam có những lợi thế về nhân công giá rẻ, môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện cũng như vị trí địa lí nằm ở trung tâm ASEAN. Nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là sẽ còn tiếp tục phát triển mạnh, và sự hội nhập vào WTO sẽ định hướng cho Việt Nam trên con đường mở cửa thị trường của mình cho các công ty nước ngoài. 5 lợi thế của thị trường Việt Nam Thứ nhất là môi trường kinh tế thuận lợi. Năm 2007, FDI tăng gần 70% so với 2006 đạt 20,3 tỉ USD. Một trong những lợi thế để đạt được thành tích trên, đó là chính sách và luật lệ thu hút FDI. Thứ hai là quy hoạch vùng, đặc biệt là quy hoạch khu công nghiệp của Việt Nam hiện rất tốt; đưa ra nhiều khu công nghiệp để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, khu công nghiệp là một công cụ tốt đối với họ, mọi thứ đều có sẵn ở đó, chính sách một cửa, sẵn điện, đất. Các nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng ký được hợp đồng, đỡ nhức đầu. Nếu đầu tư ra ngoài khu công nghiệp sẽ phức tạp hơn. Thứ ba, điều quan trọng là hạ tầng cơ sở, các tiện ích đem lại cho nhà đầu tư. Phải ghi nhận rằng đã có những cải thiện ở Việt Nam, Việt Nam đang xử lí những vấn đề này như xây cầu, đường rất nhiều ở Hà Nội và Tp.HCM. Nhìn 17 vào quy hoạch của Chính phủ Việt Nam, kế hoạch xây dựng 30 cảng biển trong vòng 20 năm tới có thể làm được vì Việt Nam có bờ biển dài. Lợi thế thứ 4 chính là nguồn nhân lực. Nhân lực Việt Nam ham học hỏi, chăm chỉ, và có tâm lí tốt. Các nhà đầu tư nước ngoài khi đến cũng rất thích thú. Tuy nhiên, cũng có vấn đề đặt ra là thiếu các lao động có kỹ năng. Do đó Việt Nam cần đầu tư hơn nữa vào trường đào tạo nghề, trường đại học để đào tạo ra các nhà quản lí. Vấn đề cuối cùng là khuôn khổ pháp lý, thủ tục hành chính tại Việt Nam cần phải được cải thiện hơn nữa, tất nhiên cũng đã có những thay đổi về Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp nhưng vẫn còn có khoảng trống gây khó khăn cho nhà đầu tư. Ví dụ khi làm việc với Sở Môi trường liên quan đến Luật Đất đai, người ta lại giải thích Luật Đất đai không chính xác. Luật quy đinh một đằng nhưng đôi khi thực hiện luật ở cấp địa phương lại một nẻo khác. Hay liên quan đến WTO, có những luật, quy chế cần phải cải tiến hơn nữa. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đã cam kết giải quyết vấn đề này mạnh mẽ." Nhân lực Việt Nam rất có năng lực Khủng hoảng tài chính châu Á đã quá xa với chúng ta. Việt Nam hiện nay đang mong muốn có sự thành công trong việc tham gia WTO. Xuất khẩu tăng mạnh mẽ. Nền kinh tế bùng nổ. Khu vực sản xuất và dịch vụ đã giúp cho đất nước phát triển với mức độ nhanh nhất kể từ năm 1996, đạt 8,2% năm 2006 và 8,5% năm 2007; FDI nhảy từ 12 tỉ USD năm 2006 lên một con số kinh ngạc 20,3 tỉ vào năm ngoái. Chỉ trong một năm mà có sự nhảy vọt này là nhờ vào những nhà sản xuất hàng đầu về điện tử. Họ đã tận dụng lợi thế về giá nhân công rẻ của Việt Nam. Việt Nam đang trở thành địa chỉ đầu tư mới trên thế giới. Chính phủ 18 tiếp tục cam kết mạnh mẽ cải cách kinh tế, tăng trưởng công nghiệp, khu vực sản xuất đang thực hiện tốt. Việt Nam cũng trở thành nơi nổi tiếng cho khách du lịch nước ngoài. Tất nhiên cũng có những thách thức mà Việt Nam gặp phải trong những năm tới. Đó là những tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với vấn đề y tế, sức khoẻ, đào tạo giáo dục, đô thị hoá... Việt Nam có dân số trẻ, 58% dân số Việt Nam dưới 30 tuổi. Đến năm 2020, Việt Nam sẽ vượt qua Nhật Bản để trở thành nước đông dân thứ 4 ở châu Á. Lực lượng trung lưu ở thành thị cũng nổi lên. Như vậy, chúng ta thấy người Việt Nam đang rất lạc quan tin tưởng vào tương lai. Hơn thế nữa, người Việt Nam có kiến thức, rất có năng lực để tiếp cận với công nghệ mới. Tuy nhiên, hạ tầng cơ sở đóng vai trò rất quan trọng. Do đó, chúng ta phải có cơ sở hạ tầng được xây dựng trên cơ sở sử dụng những công nghệ tiên tiến nhất. Để hỗ trợ cho cơ quan cấp trung ương và địa phương, những doanh nghiệp nhà nước và tư nhân chúng tôi đã đến Việt Nam, đại diện cho quỹ tài chính LLC của Mỹ ở Đông Nam Á. Chúng tôi cung cấp vốn, các khoản vay cho các công ty đầu tư vào những thị trường mới nổi, hỗ trợ cho các công ty đầu tư vào đất đai, xây dựng nhà máy, kể cả trong thị trường chứng khoán." 4. Một số tồn tại trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam Sau đây là một số tồn tại trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: Thứ nhất: Có 2 quan điểm trong thu hút vốn FDI vào Việt Nam. Quan điểm thứ nhất cho rằng tăng thu hút đầu tư trựctiếp nước ngoài về mặt số lượng, bất kể vào lĩnh vực nào quy mô bao nhiêu, miễn là đầu tư, quan điểm thứ hai cho rằng đã đến lúc chúng ta phải tăng thu hút FDI về mặt chất 19 lượng, ưu đãi đối với những lĩnh vực công nghệ kỹ thuật cao, những lĩnh vực sản xuất tư liệu sản xuất. Quan điểm thứ nhất hiện nay là phổ biến, hầu như các tỉnh, thành phố đều tập trung mọi cố gắng thu hút FDI vào địa bàn của mình bất kể ngành nào, sản phẩm gì, vì vậy FDI quá tập trung vào các ngành chế biến lương thực - thực phẩm: rượu, bia, nước giải khát, các ngành sản xuất tiêu dùng, chưa có sự đầu tư thích đáng vào ngành sản xuất tư liệu sản xuất, chỉ đầu tư lắp ráp cơ khí điện tử. Cần chú trọng phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, song điều đó không có nghĩa là không chú trọng thu hút FDI vào phát triển các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp nặng để đảm bảo sản xuất hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế. Bài học quan trọng nhất của các nước NIC trong những năm qua là phải xây dựng được một cơ cấu sản phẩm hợp lý, một cơ cấu sản phẩm phải tự sản xuất các tư liệu sản xuất cung cấp cho toàn bộ nền kinh tế, tập trung thu hút FDI vào các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật, vốn cao do các sản phẩm công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động mất khả năng cạnh tranh quốc tế, sức lao động không còn là lợi thế nữa. Cần có chính sách ưu tiên phát triển ngành trong từng tỉnh và khu công nghiệp mà vừa qua chúng ta còn chưa có. Trước hết cần coi trọng và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài dựa trên lợi thế của từng tỉnh và khu công nghiệp. Đối với một số vùng cần nêu bật định hướng thu hút FDI vào một số ngành, các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học và vốn cao, các ngành hỗ trợ và liên quan. Thứ hai: Chính sách nội địa hoá chưa thoả đáng. Đáng lẽ cần phải tăng cường nội địa hoá thì chính sách của Việt Nam còn chưa chú trọng, chính vì lẽ đó đã làm cho sản phẩm của FDI ở Việt Nam đắt hơn ở Thái Lan và các nước khác. Ví dụ: chính sách nội địa hoá của ta đối với 20 ngành công nghiệp ô tô, xe máy ít tham vọng hơn các quốc gia khác trong ASEAN như Thái Lan, Malaysia… Đối với việc lắp ráp hoàn tất, Việt Nam đòi hỏi 5% vào năm thứ 5, là 30% vào năm thứ 10, Thái Lan đòi hỏi 60% vào năm thứ 5. Chính sách đó ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển các ngành liên quan và hỗ trợ, các ngành này phát triển rất ít và rất chậm trong thời gian qua và phải nhập phụ tùng linh kiện từ bên ngoài, do đó làm tăng giá thành sản phẩm, giảm khả năng cạnh tranh. Chính sách nội địa hoá của ta cần phải tích cực hơn và phải được giải quyết từ đầu từ gốc, thể hiện khi duyệt các dự án đầu tư nước ngoài và quy định thời gian nội địa hoá ngắn. Vừa qua Bộ Tài chính đưa ra chính sách tỷ lệ nội địa hoá càng cao, thuế suất càng giảm. Tỷ lệ nội địa hoá trên 65 - 80% thì thuế nhập khẩu phụ tùng chỉ còn 5-7% và trên 80% thì thuế nhập khẩu chỉ còn 3- 5%; 40% thì thuế nhập khẩu linh kiện là 15%. Khuyến khích nội địa hóa trong khi chính sách nội địa hoá đối với FDI đưa ra tỷ lệ thấp, mặt khác năng lực sản xuất phụ tùng, máy móc để lắp ráp xe máy của doanh nghiệp trong nước còn yếu, giá thành cao thì cũng vẫn chỉ tiếp tục làm nẩy sinh gian lận. Thứ ba: Việt Nam không có chính sách chuyển giao công nghệ như các nước Trung Quốc, Hàn Quốc… Vì vậy sau 10 năm nước ta có nhiều hãng ô tô nổi tiếng thế giới đầu tư nhưng các chuyên gia này kêu rằng có lẽ Việt Nam vĩnh viễn sẽ không có ngành công nghiệp ô tô phải đạt tỷ lệ nội địa hoá 40%, giá thành của ô tô sản xuất trong nước cao hơn khu vực khá lớn là do tỷ lệ nội địa hoá quá thấp, đến nay tỷ lệ nội địa hoá của các doanh nghiệp ô tô từ 2-10%. Tham gia WTO năm 2005 nếu không đạt tỷ lệ nội địa hoá thấp nhất là 20% thì công nghiệp ô tô Việt Nam sẽ khó có. 21 Cần phải có chính sách chuyển giao công nghệ đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, nếu không chúng ta sẽ chỉ là một thị trường tiêu thụ khổng lồ với dân số 80 triệu dân cho các nước. Thứ tư: Chính sách giá chưa hợp lý, chi phí đầu tư vào Việt Nam còn quá cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam, làm nản lòng các nhà đầu tư. Theo JETRO Nhật Bản cho biết cước phí viễn thông, chi phí lưu thông giao nhận, điện… hiện nay tại Việt Nam quá cao. Cước điện thoại quốc tế của Việt Nam cao gấp khoảng 7 lần so với Singapore, gần 6 lần so với Malaysia, 4 lần so với Jakarta, Bangkok và gần 2 lần so với Trung Quốc. Chi phí lưu thông giao nhận nếu gửi hàng container thì cao gần gấp 3 lần so với Singapore, khoảng 2,5 lần so với Kuala Lumpur, khoảng 2 lần so với Jakarta, Thượng Hải. Các chi phí và lệ phí liên quan đến giao nhận tại các cảng biển và sân bay quá cao. Có 12 loại phí và lệ phí bất hợp lý mà doanh nghiệp phải nộp như phí lưu kho sân bay 1.200đ/kg, phí an ninh 230đ/kg, phí lao vụ 0,06 USD/kg, phụ phí xăng dầu 30USD/container 20 feet, 60USD/container 40 feet, hàng lẻ 2,5USD/m3, phí nâng hạ 300.000 -360.00đ/container 20 feet, thu phí đường bộ 80.000đ/lượt đối với xe tải 18 tấn trở lên. Giá điện cao hơn 50%, giá nước cao hơn 71% so với ASEAN, Trung Quốc. Để giảm chi phí đầu vào, mà hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước nắm, cần ngăn chặn việc biến độc quyền Nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp đối với doanh nghiệp Nhà nước. Cần xây dựng Luật cạnh tranh và nhanh chóng thông qua. Thứ năm: Chi phí cho đất đai ngày càng tăng. Từ 1996 trở lại đây thị trường kinh doanh đất sôi động. Đất đai ngày càng giá cao. Giá đất lớn, đền bù lớn, giá san lấp mặt bằng lớn. Giá cả đất đai của thành phố ở Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực, giá thuê đất 22 TP. Hồ Chí Minh gấp 4-6 lần Trung Quốc, 6 lần so với Thái Lan. Tình hình này ảnh hưởng lớn đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. `Chính phủ cần kiểm soát chặt thị trường bất động sản do thị trường bất động sản là một thị trường không hoàn hảo, dễ dẫn đến những độc quyền trong cạnh tranh, tạo nên cơn sốt giá, nâng giá đất giả tạo, làm cho chi phí đầu tư của FDI nước ta cao hơn so với các nước trong khu vực. Thứ sáu: Ngoài ra quan điểm nới lỏng đầu vào quản lý chặt đầu ra, hậu kiểm thay thế tiền kiểm như các nhà đầu tư nước ngoài từng nói Chính phủ Việt Nam chỉ khuyến khích đầu tư không khuyến khích sản xuất, tiền hậu bất nhất không nhất quán. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho thu hút FDI của ta giảm. Bài học Trung Quốc là trước cho, sau lấy có tính làm ăn lâu dài là những kinh nghiệm trong thu hút FDI. Tóm lại, nguyên nhân chủ yếu khiến môi trường đầu tư Việt Nam giảm thu hút đầu tư nước ngoài là do giá đầu vào như nhiên liệu, nguyên liệu, vật liệu còn cao nhất tại khu vực ASEAN. Ngoài ra môi trường đầu tư Việt Nam thiếu hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, không nhất quán và không minh bạch 5. Thực trạng giải ngân vốn FDI Trong bối cảnh Việt Nam đang đối mặt với tình trạng bất ổn trong kinh tế vĩ mô mà biểu hiện rõ nhất là lạm phát và giá đang tăng cao, việc FDI đăng ký vào Việt Nam với 5,4 tỷ USD trong 3 tháng đầu năm, tiếp tục đặt ra câu hỏi lớn về sức hấp dẫn cũng như khả năng hấp thụ vốn FDI của Việt Nam. Theo số liệu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfThực trạng và giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại FDI tại Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan