Phạm trù sở hữu nhà nước rộng hơn hẳn so với phạm trù kinh tế nhà nước. Sở hữu nhà nước còn có thể do các thành phần kinh tế khác sử dụng ( vốn góp của nhà nước chiếm một tỉ lệ khống chế hoặc không khống chế ). Ngày nay do sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật và công nghệ chúng ta nhất định phải hiểu phạm trù sở hữu nhà nước một cách toàn diện, linh hoạt hơn. Sở hữu nhà nước không nhất thiết phải 100% vốn đầu tư của nhà nước mà nhà nước chỉ cần nắm giữ một tỉ lệ khống chế nhất định và sở hữu nhà nước không nên cố định cứng nhắc như hiện nay, doanh nghiệp này hôm nay thuộc ngành mũi nhọn, chiến lược đòi hỏi phải thuộc sở hữu nhà nước nhưng trong giai đoạn phát triển tiếp sau vai trò của nó có thể đã thay đổi và không nhất thiết phải thuộc sở hữu nhà nước 100% nữa. Vậy sẽ thật là thiếu sót nếu chúng ta bỏ qua sở hữu nhà nước thuộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thực trạng sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra sao, em sẽ tập trung chủ yếu phân tích tại các doanh nghiệp liên doanh và cổ phần, khu vục kinh tế còn nhiều tồn tại và những vấn đề tranh cãi nhất hiện nay.
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2056 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng và phương hướng giải quyết sở hữu nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước chiếm một vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Hiện nay không ít người vẫn còn nhầm tưởng sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước là một.
Sở hữu toàn dân là sở hữu trong đó của cải tự nhiên được toàn dân sử dụng, các thành viên trong xã hội có quyền ngang nhau trong việc sử dụng của cải này.
Sở hữu nhà nước là một phần của sở hữu toàn dân (bao gồm những tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất nhất định...) được chuyển cho cơ quan nhà nước điều hành và sử dụng theo ý chí của nhân dân, theo quyết định của cơ quan quyền lực đại diện cho nhân dân với những điều kiện nhất định.
Sở hữu tập thể là hình thức sở hữu mà chủ thể sở hữu không phải là một các nhân cụ thể mà là một tập hợp người, một tập thể cùng sở hữu.
Sở hữu tư nhân là hình thức chiếm hữu trong đó những sản phẩm lao động rơi vào tay chủ thể và khác với sở hữu các nhân sở hữu tư nhân có quy mô lớn hơn nhiều.
1. Thực trạng sở hữu nhà nước
Thực trạng sở hữu nhà nước thuộc các doanh nghiệp nhà nước:
Sở hữu nhà nước và gắn liền với nó là khu vực kinh tế nhà nước luôn được Đảng và nhà nước ta xác định giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống sở hữu và trong nền kinh tế quốc dân. Nhưng thực trạng sở hữu nhà nước hiện nay ra sao ? Hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường như thế nào ? Và “ Cha chung “ có ai khóc hay không ?... Rất nhiều lời giải đáp cho những câu hỏi này thường xuyên được đăng trên các tạp trí chính trị, kinh tế khoảng chục năm trở lại đây. Sở dĩ như vậy là bởi vì những câu hỏi này rất nóng, rất thời sự . Tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi này đồng nghĩa với việc xác định các doanh nghiệp nhà nước đang đứng ở đâu, đang có trong tay những gì và những doanh nghiệp này đang và sẽ phải đương đầu với những thách thức gì.
Trước đây, khi mà vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được hiểu là áp đảo về số lượng, về tỉ trọng thì mỗi một doanh nghiệp nhà nước ra đời là chúng ta lại tiến thêm một bước tới chủ nghĩa xã hội. Mỗi một doanh nghiệp nhà nước là một bông hoa góp phần tạo nên vẻ đẹp cho đất nước. Kết quả là vườn hoa đó có đến 12084 bông hoa lớn nhỏ, hết sức đa dạng phong phú, từ các doanh nghiệp cơ khí, luyện kim đến các doanh nghiệp cắt may, cắt tóc... tất cả đều thuộc sở hữu nhà nước. Các doanh nghiệp nay luôn thực hiện vượt mức kế hoạch và hình như điều đó cũng chỉ xẩy ra trên kế hoạch và giấy tờ mà thôi, lãi giả còn lỗ thật. Có lợi nhuận hay không, không quan trọng vì tất cả đã được nhà nước ru ngủ trong vòng tay “ êm ả “ của cơ chế bao cấp. Đó là thực trạng của các doanh nghiệp nhà nước trước đổi mới còn sau đổi mới thì sao ?
Qua hơn mười năm thực hiện đổi mới, tính đến cuối tháng sáu năm 1998 cả nước chỉ còn 5700 doanh nghiệp nhà nước. Số lượng các doanh nghiệp nhà nước giảm nhanh chóng như vậy phải chăng kinh tế nhà nước không còn giữ vai trò chủ đạo nữa ? Câu trả lời ở đây là kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo. Chỉ có điều chủ đạo ở được hiểu là vai trò mở đường, dẫn dắt, là vai trò then chốt và phải có hiệu quả cao. Hay nói một cách ngắn gọn các doanh nghiệp nhà nước chuyển từ giữ chủ đạo về số lượng sang giử vai trò chủ đạo về chất lượng. Đây chính là một thành công bước đầu mà chúng ta đạt được. Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp đã được nâng lên. Tốc độ tăng trưởng GDP của các doanh nghiệp nhà nước gần gấp rưỡi so với bình quân toàn nền kinh tế và gấp đôi so vứi khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Tỷ trọng của doanh nghiệp nhà nước trong thu nhập quốc dân tăng từ 32% năm 1990 lên 42% năm 1996. Các doanh nghiệp nhà nước đã đóng góp một phần không nhỏ cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên mức đóng góp đó hoàn toàn chưa tương xứng với sự đầu tư, sự mong đợi của nhà nước và phần lớn có được là từ thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ có một phần rất nhỏ là từ thuế lợi nhuận. Số lượng các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn quá nhiều và bố trí không được hợp lý, hiệu quả sử dụng vốn không cao. Quy mô của các doanh nghiệp nhà nước còn quá nhỏ bé, gần 40% tổng số các doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới một tỉ đồng. Hầu hết công nghệ kỹ thuật của các doanh nghiệp rất lạc hậu, các máy móc, thiêt bị phần lớn thuộc thập kỷ 60 thậm trí lâu hơn thế. Việc quản lý đối với các doanh nghiệp nhà nước còn rất nhiều yếu kém và không nhất quán. Hệ thống quản lý hành chính địa phương, trung ương và hệ thống quản lý các doanh nghiệp theo ngành không rõ ràng, chồng chéo lên nhau ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền tự chủ, khả năng quyết đoán trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp vẫn còn tiếp tục “say sưa “ với cơ chế bao cấp không có khả năng trụ lại trước sóng gió cạnh tranh và thử thách khắc nghiệt của thị trường. Cụ thể là 40% trong tổng số các doanh nghiệp nhà nước hiện nay đang ở trong tình trạng thua lỗ triền miên, “ ăn dần ” cả vốn. Tuy nhiên các doanh nghiệp này vẫn được tiếp tục duy trì bởi một số lý do đại loại như : các doanh nghiệp này đã trưởng thành cùng cách mạng, đã từng là con chim đầu đàn, có truyền thống lâu năm... Có nên vì những lý do trên mà để hàng nghìn người lao động tại các doanh nghiệp này dở mếu dở cười sống cầm chừng, để những kẻ cơ hội lợi dụng tham ô, tham nhũng hàng trăm tỉ đồng của nhà nước hay không ? Và liệu còn có lý do sâu xa nào đằng sau những lý do trên hay không ? Phải chăng một số người sợ thực hiện đổi mới cung cách làm ăn của các doanh nghiệp nhà nước bởi đổi mới sẽ động chạm đến quyền lợi cá nhân của họ, khi đó họ sẽ phải chia sẻ vai trò lãnh đạo thậm chí còn mất hẳn vai trò lãnh đạo của mình. Bên cạnh đó lại có quan điểm “áng binh bất động “ để khỏi phải va chạm, rủi ro... Những người lãnh đạo đầu tầu đã không hăng hái thì làm sao có thể kéo các toa tầu phía sau chuyển động, làm sao có thể thắng được sức ì của sự bảo thủ.
Thực trạng sở hữu nhà nước thuộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh :
Phạm trù sở hữu nhà nước rộng hơn hẳn so với phạm trù kinh tế nhà nước. Sở hữu nhà nước còn có thể do các thành phần kinh tế khác sử dụng ( vốn góp của nhà nước chiếm một tỉ lệ khống chế hoặc không khống chế ). Ngày nay do sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật và công nghệ chúng ta nhất định phải hiểu phạm trù sở hữu nhà nước một cách toàn diện, linh hoạt hơn. Sở hữu nhà nước không nhất thiết phải 100% vốn đầu tư của nhà nước mà nhà nước chỉ cần nắm giữ một tỉ lệ khống chế nhất định và sở hữu nhà nước không nên cố định cứng nhắc như hiện nay, doanh nghiệp này hôm nay thuộc ngành mũi nhọn, chiến lược đòi hỏi phải thuộc sở hữu nhà nước nhưng trong giai đoạn phát triển tiếp sau vai trò của nó có thể đã thay đổi và không nhất thiết phải thuộc sở hữu nhà nước 100% nữa. Vậy sẽ thật là thiếu sót nếu chúng ta bỏ qua sở hữu nhà nước thuộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thực trạng sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra sao, em sẽ tập trung chủ yếu phân tích tại các doanh nghiệp liên doanh và cổ phần, khu vục kinh tế còn nhiều tồn tại và những vấn đề tranh cãi nhất hiện nay.
Tuy mới chỉ xuất hiện ở nước ta hơn chục năn trở lại đây nhưng khu vực kinh tế liên doanh với nước ngoài tăng lên nhanh chóng cả về tuyệt đối lẫn tương đối. Tỷ trọng đóng góp trong GDP của khu vực liên doanh năm 1997 là : 6,1 %, năm 1998 : 8,2 %, năm 1999 là : 9,8 %, năm 2000 là : 11,1 %. Hầu hết các doanh nghiệp này đều làm ăn có hiệu quả, giải quyết một lượng lớn việc làm cho người lao động đặc biệt là lao động dư thừa ở nông thôn, cho phép tận dụng vốn và công nghệ hiện đại của nước ngoài. Năm 1996 vốn nước ngoài trực tiếp đầu tư thông qua liên doanh chiếm 18,6 %, năm 1997 là 20,3 % trong tổng số vốn đầu tư của cả nước ( so vứi khu vực thì tốc độ đầu tư của nước ngoài như vậy vẫn còn thấp và hiện nay đang có xu hướng chững lại). Các doanh nghiệp liên doanh cũng góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh và trình độ quản lý từ lâu đã bị “xơ cứng” của các doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, những năm gần đây trong các doanh nghiệp liên doanh nổi cộm lên rất nhiều điều bất hợp lý cần được nhanh chóng làm rõ ràng và giải quyết chiệt để. Năm 1997-1998 một loạt các công ty liên doanh như : P & G, công ty CocaCola Việt Nam, công ty BGI lần lượt tuyên bố lỗ lớn và đề nghị giải pháp chuyyển sang 100% vốn nước ngoài. Sự thua lỗ hàng loạt ở các liên doanh trên đã làm cho dư luận nghi ngờ dẫn đến nhiều ý kiến khác nhau thậm trí trái ngược về hình thức đầu tư này.Vẫn biết được thua, lỗ lãi là việc rất bình thường sự cạnh tranh của kinh tế thị trường, có thể xẩy ra đối với bất cứ doanh nghiệp nào làm ăn không hiệu quả chứ không hề phụ thuộc vào hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó. Nhưng hàng loạt các công ty liên doanh (phía đối tác nước ngoài rất nổi tiếng, có nhiều kinh nghiệm cạnh tranh trên thị trường thế giới ) tuyên bố lỗ nặng thì quả là không bình thường, và liệu tình hình trên có còn tiếp tục hay không, nguyên nhân của nó là gì, đã có rất nhiều ý kiến khác nhau trong việc trả lời câu hỏi trên. Có ý kiến cho rằng nguyên nhân hiện tượng trên là do thị trường Việt Nam còn quá nhỏ bé trong khi đó các dự án đầu tư của cùng một loai sản phẩm lại quá nhiều hay định hướng đầu tư của Việt Nam chưa tốt. Nhiều người khác lại đưa ra ý kiến cho rằng, các công ty nước ngoài đã lợi dụng thậm chí đã lừa gạt phía đối tác Việt Nam, bắt đầu từ việc liên doanh, rồi cố tình tạo ra thua lỗ nặng để cuối cùng xin đổi sang 100% vốn nước ngoài. Trong khi trước đó doanh nghiệp Việt Nam đã giúp phía nước ngoài lo các thủ tục pháp lý, lập văn phòng, giúp làm quen và định hướng thị trường Việt Nam. Phía Việt Nam do góp vốn ít 30%-40%, chủ yếu là góp bằng quyền sử dụng đất, thường bị thao túng và không được điều hành, có rất nhiều khoản chi phí không theo kế hoạch như đã được duyệt trước khi ký giấy phép. Đặc biệt là chi phí : chi phí cho quảng cáo sản phẩm, trả lương cho người nước ngoài, chuyên gia tư vấn, hội họp... ví dụ như công ty P&G đã tự ý chi 31% doanh thu cho quảng cá0, khuyến mại như vậy là đã vượt quá 26% tổng doanh thu cho công viềc này. Kế hoạch là sử dụng 6 người nước ngoài nhưng thực tế họ lại sử dụng 16 người với mức lương rất cao và chi phí 11 tỷ đòng cho chuyên gia tư vấn. Máy móc thiết bị và nguyên liệu của liên doanh đều được mua theo địa chỉ đã được chỉ định từ phiá nước ngoài. Lợi dụng sự thiếu thông tin về giá cả (vô ý hoặc cố ý ) của phía Việt Nam phia nước ngoài mặc sức đưa vào liên doanh những máy móc thiết bị đã được tân trang và khống giá lên rất cao so với thực tế. Sau khi khảo sát 42 doanh nghiệp liên doanh, bộ lao động và thương binh xã hội đã phát hiện 76% may móc thuộc thế hệ những năm 50 -60, 70% máy móc đã hết khấu hao, 50% thiết bị đã được tân trang. Tình hình đầu vào và đầu ra ở các doanh nghiệp liên doanh như vậy không lỗ mới thật là lạ, chỉ có một điều rất chua sót là liên doanh càng lỗ thì công ty mẹ của đối tác càng lời. Phía Việt Nam rất bất lợi do vốn ngắn, khi thua lỗ phải góp thêm vốn thì lại không thể theo đuổi được buộc phải bán hết cổ phần và cuối cùng bị xoá sổ cả uy tín, cả vốn. Trong khi các doanh nghiệp liên doanh sau khi chuyển sang 100% vốn nước ngoài thì họ đã có sẵn một thị phần, sản phẩm của họ đã được người Việt Nam biết tới. Một cán bộ cao cấp của GMX - công ty tư vấn quốc tế đang thực hiên dự án hỗ trợ chuyển giao công nghệ tại Việt Nam đã nhận xét như sau :” Liên doanh có lỗ cũng là lẽ thường, có thể lỗ trong những năm đầu để lãi trong những năm sau, vấn đề là Việt Nam không đủ trường vốn để làm đối tác cùng chịu lỗ với họ thì không nên liên doanh mà nên theo hình thức nước ngoài đầu tư 100% vốn “. Tiếp đó là một vấn đề rất nhạy cảm tại các liên doanh hiện nay đó là : sự xâm phạm nhân quyền của công nhân Việt Nam. Tác phong làm việc của công nhân Việt Nam từ lâu vẫn chậm chạp chưa đáp ứng được những đòi hỏi của các “ông chủ “ nước ngoài, một số người lại không nghiêm túc, làm giả ăn thật, trộm cắp... Trong khi đó các nước Tư Bản lại có thói quen trừng phạt nghiêm khắc đối với những hành vi này và ở một số doanh nghiệp sự trừng phạt này đã đi quá đà dẫn đến xung đột giữa người nước ngoài với người địa phương. Như vậy lỗi lầm nay không hoàn toàn thuộc về một bên nào. Tuy nhiên tranh cãi đúng sai hoặc thổi phồng vấn đề lên sẽ không thể cải thiện tình hình tốt hơn được mà chỉ làm cho tình hình nghiêm trọng, rắc rối hơn. Giải pháp tốt nhất hiện nay đó là đưa ra những chính sách chặt chẽ hơn, hoàn chỉnh hơn trong lĩnh vực liên doanh sao cho vừa có thể thúc đẩy khu vực kinh tế nay phát triển nhanh chóng vừa đảm bảo được quyền lợi của người lao động. Cần củng cố lại đội ngũ công đoàn tại các doanh nghiệp này, tránh tình trạng “đem con bỏ chợ “ như hiện nay. Rõ ràng hình thức liên doanh vẫn còn nhiều tồn tại, nhưng không thể vì thế mà nó sẽ bị thay thế bởi hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài. Bằng chứng là vẫn còn có rất nhiều liên doanh làm ăn nghiêm túc, hiệu quả với phương thức đôi bên cùng có lơị. Tuy nhiên phía Việt Nam cần phải sáng suốt và nhạy bén hơn không nên phụ thuộc một cách thụ động vào thiện chí từ phía đối tác nước ngoài.
Nêu tính từ thời điểm doanh nghiệp nhà nước đầu tiên thực hiện cổ phần hóa (doanh nghiệp Đại lý liên hiệp vận chuyển bán 82% cổ phần, nhà nước chỉ giữ lại 18% cổ phần) đến nay đã được gần 9 năm. Tính đến ngày 13-12-2000 đã có 525 doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa. Tổng số vốn của 18 doanh nghiệp đầu tiên thực hiện cổ phần là 121318 triệu đồng. Các doanh nghiệp này đã thu được những thắng lợi rât đáng khích lệ. Vốn bình quân tăng 45%/năm, doanh thu tăng 56,9 %/năm, lợi nhuận tăng bình quân 70,2%/năm, các khoản nộp ngân sách tăng 98%, thu nhập người lao động tăng 20%/năm, tỉ suất lợi nhuận so với vốn tăng 74,6%. Phương thức quản lý thay đổi, chế độ thành lập hội đồng quả trị theo tỷ lệ cổ phần, bầu chọn giám đốc và các chức danh khác đã làm cho đội ngũ lãnh đạo này có trách nhiệm cao hơn, quyền lợi gắn liền với trách nhiệm. Tình trạng lãng phí, mất mát tài sản giảm xuống nhanh chóng. Thu nhập của công nhân tăng lên bình quân là 700.000 nghìn đồng/tháng, tạo ra một không khí nhiệt tình sản xuất. Tuy nhiên quá trình cổ phần hoá hiện nay tiến triển rất chậm và rụt rè do quan điểm cổ phần hoá vẫn chưa thống nhất. Ai đại diện cho số cổ phần của nhà nước, xác định đối tượng và giá trị các doanh nghiêp cổ phần, bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài với tỉ lệ bao nhiêu, tiền bán cổ phần được sử dụng vào đâu, giải quyết lượng lao động bị cắt giảm khi thực hiện cổ phần như thế nào đến nay vẫn chưa có giải pháp thực sự hợp lý, khoa học. Có một số quan niệm lệch lạc đánh giá chưa đúng về vai trò của cổ phần hoà cho rằng cổ phần hoá là đi chệch với định hướng XHCN hay chỉ cần cổ phần hoá các doanh nghiệp lỗ còn các doanh nghiệp làm ăn có lãi thì không cần cổ phần. Các doanh nghiệp sau cổ phần thường bi. coi như “ con nuôi “, bị phân biệt đối xử và bất bình đẳng so với các doanh nghiêp nhà nước đặc biệt là trong chính sách về vay vốn, tín dụng, thuế...
2.Giải quyết sở hữu nhà nước
Phương hướng giải quyết sở hữu nhà :
Bất cứ một sự cải cách nào khi bắt đâù cũng gặp rất nhiều khó khăn, cản trở, nhưng thời đại ngày nay nếu không mạnh dạn thực hiện đổi mới mà cứ dậm chân tại chỗ điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn với thế giới, với các nước trong khu vực. Để khắc phục những tồn tại và nâng cao hiệu quả trong sở hữu nhà nước chúng ta nhất quyết phải cấu trúc lại sở hữu nhà nước.
Trước hết, cần phải xác định một cách khoa học các doanh nghiệp nhà nước nào có ý nghĩa chiến lược, trọng yếu đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Sự hoạt động của những doanh nghiệp này không vì mục tiêu lợi nhuận, vì vậy nhà nước cần tiếp tục thực hiện chính sách bảo trợ cho những doanh nghiệp này. Nhưng những doanh nghiệp này cần đổi mới tổ chức, quản lý và thực hiện nghiêm ngặt công việc hạch toán tài chính nhằm bảo toàn vốn, tài sản của nhà nước. Nhữnh doanh nghiệp không thuộc đối tượng trên nhưng quy mô lớn và có nhiều lợi nhuận, có công nghệ hiện đại và khả năng cạnh tranh cao nhà nước vẫn tiếp tục khống chế theo một tỉ lệ nhất định, định hướng các doanh nghiệp này phát triển vững trắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với doanh nghiệp nhà nước quá nhỏ, không có vai trò quan trọng, làm ăn thua lỗ yếu kém cần dứt khoát không ném phao cấp cứu bởi đây là một gánh nặng qua lớn với ngân sách nhà nước. Cần thực hiện chuyển đổi hình thức sở hữu như cổ phần hoá, liên doanh, đấu thầu, cho thuê, bán hoặc phá sản theo đúng pháp luật và chính sách của nhà nước.
Chúng ta cần phải có một hành lang pháp lý vừa thông thoáng, ổn định vừa hiệu quả, nhạy bén đảm bảo một sân chơi và luật chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp, giữa các thành phần kinh tế. Tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Một kế sách lâu dài đó là nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ hiện nay, không ngừng đầu tư đào tạo lớp cán bộ trẻ làm lực lượng kế cận đồng thời phải có chính sách đãi ngộ hợp lý tránh để tình trạng chảy máu chất xám như hiện nay. Đất nước ta có một nguồn lao động dồi dào, mỗi năm có thêm khoảng một triệu người lao động nhưng phần lớn đều không được đào tạo, chỉ phù hợp với công việc giản đơn. Như vậy chúng ta nhất thiết thúc đẩy công tác đào tạo, dạy nghề để có một đội ngũ công nhân lành nghề với trình độ kỹ thuật thích hợp với nền sản xuất tiên tiến hiện nay. Xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng đảm bảo giao lưu thông suốt đáp ứng yêu cầu của sự phát triển của nền kinh doanh hiện đại.
Một số giải pháp giải quyết sở hữu nhà nước cụ thể
Cổ phần hoá :
Một giải pháp phổ biến và tương đối hiệu quả hiện nay trên khu vực và thế giới là tiến hành cổ phần hoá. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhắm đa dạng hoá sở hữu, đưa yếu tố cạnh tranh làm động lực để tăng hiệu quả kinh doanh và xác lập một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường. Khi thực hiện cổ phần hoá quyền sở hữu và quyền kinh doanh được tách biệt rõ ràng, sự can thiệp trực tiếp của chính quyền vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ giảm đến mức thấp nhất, chấm dứt tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi “. Người lao động với tư cách cổ đông họ tham gia quyết định chiến lược phát triển của công ty, phân chia lãi và chịu thua lỗ dưới hình thức cổ phần mà họ đã góp. Vậy thì phải chăng cổ phần hoá sẽ được áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp nhà nước ?
Theo điều 1 nghị định số 44/1998/NĐ-CP đối tượng cổ phần hoá là những doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn đầu tư. Hiện nay, đối tượng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được chia thành ba loại : doanh nghiệp mà nhà nước nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt (cổ phần nhà nước chiếm trên 50% hoặc gấp đôi số cổ phần của cổ đông lớn nhất khác trong doanh nghiệp như vậy nhà nước vẫn kiểm soát được hoạt động của doanh nghiệp ) ; doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối ; cuối cùng là doanh nghiệp mà nhà nước không tham gia mua cổ phần khi tiến hành cổ phần hoá.
Hiện nay có 4 hình thức cổ phần hoá như sau :
Giữ nguyên giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn phát triển doanh nghiệp.
Bán một phần giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
Tách một phần doanh nghiệp có đủ điều kiện để cổ phần hoá.
Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần.
Tuỳ theo điều kiện và tình hình hoạt động cụ thể của mỗi doanh nghiệp mà có thể áp dụng hoặc kết hợp các hình thức cổ phần trên. Đối với loại doanh nghiệp mà nhà nước nắm cổ phần chi phối thì mỗi pháp nhân được mua không quá 10% mỗi cá nhân mua không quá 5% tổng số cổ phần của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp mà nhà nước không nắm cổ phần chi phối thì mỗi pháp nhân được mua không qua 20%, mỗi các nhân được mua không quá 10% tống số cổ phần của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp nhà nước không tham gia cổ phần thì không hạn chế số cổ phần được mua đối với mỗi pháp nhân và cá nhân.
Một vài công tác trong chương trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước hiện nay :
Lập danh sách những doanh nghiệp cổ phần hoá để hình thành chương trình phân loại và sắp xếp theo từng đối tượng, áp dụng theo những hình thức phù hợp.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ lựa chọn danh sách với tư cách là người chủ sở hữu.
Dựa trên bảng cân đối tài sản và kết quả hoạt động sản xuât kinh doanh của doanh nghiệp để xác định mục tiêu cụ thể, phù hợp với từng loại doanh nghiệp, như loại cần huy động thêm vốn, lọai cần thu hồi vốn, loại để cho người quản lý và công nhân tự làm chủ...
Mọi tài sản của doanh nghiệp trước khi cổ phần đều thuộc sở hữu nhà nước, nhà nước chịu trách nhiệm đối với công nợ của doanh nghiệp vậy thì đương nhiên nhà nước cũng có trách nhiệm với vốn tự có của doanh nghiệp (vốn mà nhiều doanh nghiệp tưởng là tự nhiên mình có và tùy tiện chia chác ).
Xác định giá trị của những doanh nghiệp được cổ phần hoá phải chú ý đến cả hai yếu tố cấu thành : giá trị hữu hình và giá trị vô hình để kết hợp hai phương pháp tính giá trị theo thống kê kế toán và theo tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Phương pháp bán cổ phiếu ở những doanh nghiệp được cổ phần cần được thực hiện công khai, rõ ràng, thủ tục, thủ tục đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người để tránh sự lạm dụng của những người thực thi cổ phần hoá cũng như sự nghi ngờ của công chúng.
Nhà nước không chỉ chú ý đến thu hồi vốn, mà cần phải xác định những khoản phí tổn nhất định vì lợi ích của sự phát triển đất nước. Những khoản phí tổn cho bảo hiểm, trợ cấp cho người lao động tìm việc làm mới, bán cổ phiếu theo giá ưu đãi cho những nhóm xã hội nhất định, cho những đối tượng nhất định... Ngoài ra những chi phí về các hoạt động tư vấn, quảng cáo, kiểm toán, môi giới đầu tư qua cổ phiếu.
Các doanh nghiệp được cổ phần hoá sẽ hoạt động trong khuân khổ luật công ty, cả về hình thức tổ chức quản lý, lẫn hoạt động tài chính. Vì vây nhà nước cần thành lập một cơ quan hoạt động như một công ty tài chính quốc gia với đội ngũ các nhà sáng lập và quản trị để thay mặt nhà nước thực hiện và quản lý các hoạt động đầu tư vốn của nhà nước thông qua các công ty cổ phần.
Các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá các chiến lược phát triển kinh doanh sẽ được hội đồng quản trị vạch định thông qua đại hội cổ đông. Giám đốc là người do hội đồng quản trị bầu, thuê hoặc chỉ định sẽ trực tiếp kinh doanh và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị.
Khoán, cho thuê và đấu thầu kinh doanh
Các doanh nghiệp áp dụng chế độ khoán, cho thuê và đấu thầu kinh doanh thường là các doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ có vốn dưới một tỉ đồng, làm ăn thua lỗ rất khó để cổ phần hoá. Tại các doanh nghiệp này chủ sở hữu là nhà nước giao khoán, cho thuê hoặc giao thầu còn tập thể tại doanh nghiệp đứng ra nhận thầu, trực tiếp kinh doanh số tài sản, tiền vốn của nhà nước. Tiền thuê doanh nghiệp nên lấy ở mức lãi trung bình trong xã hội hoặc mức lãi cho vay của ngân hàng để xác định. Thời gian cho thuê phải tương đối dài để kích thích sự đầu tư mới vào doanh nghiệp. Giá bán doanh nghiệp phải tính đến cả giá trị hữu hình và vô hình của doanh nghiệp. Giá trị của doanh nghiệp không chỉ bao gồm vốn cố định, vốn lưu động của doanh nghiệp mà còn phải căn cứ địa vị, lợi thế, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Thực hiện đấu thầu phải thật công khai, hợp lý sao cho có thể chọn ra dự án thầu hiệu quả nhất. Với tư cách là người kinh doanh, doanh nghiệp phải nộp thuế cho nhà nước theo luật định. Còn với tư cách là người đi thuê doanh nghiệp phải nộp phần lợi nhuận thu được cho nhà nước theo đúng hợp đồng hai bên đã ký kết. Với số vốn còn lại sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước thì thuộc về tập thể lao động tại doanh nghiệp và không được tự ý chia, chỉ được sử dụng để mua sắm tài sản hoặc bổ sung vốn lưu động. Tuy nhiên hiện nay giải pháp cho thuê chưa thật khả quan chưa thật suôn sẻ vì số người trong nước có đủ tài sản để thế chấp không nhiều. Trong khi đó thủ tục cho các nhân hay tổ chức nước ngoài thuê còn rất nhiều công đoạn rườm rà, cồng kềnh và chưa rõ ràng.
Phá sản và giải thể doanh nghiệp :
Trong kinh tế thị trường, phá sản là là một hình thức chọn lọc tự nhiên và khách quan, góp phần làm lành mạnh nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình tập trung vốn và thúc đẩy sản xuất phát triển. Tuy nhiên thuật ngữ “ phá sản doanh nghiệp “ còn là một khái niệm hết sức mới mẻ ở nước ta và thường được đồng nhất với “giải thể doanh nghiệp”. Phá sản bao giờ cũng liên quan đến một khoản nợ và không có khả năng thanh toán được, buộc phải tuyên bố phá sản để bán tài sản và chi trả nợ theo một tỷ lệ tương ứng. Trong khi đó giải thể doanh nghiệp chỉ là việc xoá tên, chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp mà không phụ thuộc doanh nghiệp đó có nợ hay không. Cả giải thể và phá sản đều đặt ra vấn đề bán và thanh lý tài sản, giải quyết quyền lợi của người lao động, của chủ nợ và các bên có liên quan. Phá sản có thể dẫn đến giải thể nhưng điều này là không bắt buộc. Chủ doanh nghiệp bị phá sản còn doanh nghiệp vẫn tồn tại và có thể tiếp tục hoạt động khi được một pháp nhân hoặc cá nhân mua lại, duy trì hoạt động sản xuất, giữ lại tên doanh nghiệp và nhãn hiệu sản phẩm. Vấn đề đặt ra ở đây là có nhiều nước không áp dụng phá sản doanh nghiệp nhà nước vì cho rằn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50301.DOC