Tiểu luận Thực trạng vấn đề phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

Chương I: MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT HUY NỘI LỰC VÀ TRANH THỦ NGOẠI LỰC Ở NƯỚC TA.

1.1 Phát huy nội lực là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của đất nước

1.2 Tranh thủ nguồn lực bên ngoài để thúc đẩy nhanh hơn quá trình phát triển

1.3 Mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực.

Chương II: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ PHÁT HUY NỘI LỰC VÀ TRANH THỦ NGOẠI LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

2.1 Thực trạng vấn đề kết hợp phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực ở Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.

2.2 Một số giải pháp cho vấn đề phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực ở nước ta

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4543 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng vấn đề phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng đầu, là nền tảng động lực để chúng ta đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá. Việc phát triển kinh tế không thể tách rời phát triển khoa học kỹ thuật. Công nghệ cũng gắn liền với giáo dục, an ninh quốc phòng.v.v. Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta đã đạt trung bình 7,5% và phát triển ổn định, các chỉ số về phát triển con người được cải thiện tương đối nhanh, nhưng nền kinh tế của chúng ta vẫn chưa thể so sánh với khu vực và thế giới. Thu nhập của chúng ta chỉ là 500$/người/năm còn ở các nước phát triển là từ 20000-30000$/người/năm. Dù đặt sự tăng trưởng ở mức độ cao nhất thì Việt Nam cũng chỉ đạt được thu nhập bằng một phần ba các nước phát triển mà thôi. Về khoa học kỹ thuật, chúng ta nhận thấy rằng khoa học kỹ thuật là một mảng không thể thiếu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nó góp phần đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển của đất nước do chúng ta có thể áp dụng khoa học kỹ thuật để cải tiến phương thức sản xuất, nâng cao hiệu quả lao động sản xuất. Tuy nước ta là một nước nghèo, lạc hậu chậm phát triển nhưng trong đánh giá kết quả 5 năm thực hiện nghị quyết đại hội Đảng VIII (1996-2000), Đảng ta đã đánh giá rằng: khoa học và công nghệ có bước chuyển biến tích cực. Trong đó khoa học xã hội và nhân văn đã cũng cấp được nhiều các luận cứ khoa học để phục vụ cho yêu cầu hoạch định chiến lược phát triển kinh tế, xã hội. Các nghiên cứu đã được áp dụng vào trong sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội. Đặc biệt là trình độ công nghệ trong một số ngành sản xuất dịch vụ đã được nâng cao đáng kể. Cơ sở vật chất kỹ thuật của các viện, trung tâm nghiên cứu cũng được quan tâm chú ý đúng mức. Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ được chú ý đào tạo chuyên sâu và đồng bộ, nâng cao trình độ chuyên môn. Do vậy, nâng cao hiệu quả ứng dụng khoa học công nghệ là một yêu cầu cấp bách trong việc phát triển nguồn lực nội sinh của nước ta. Có như vậy chúng ta mới có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật làm tăng sản phẩm dịch vụ và đem lại nhiều lợi ích cho đất nước, tạo việc làm cho xã hội, tăng nhanh chuyển dịch cơ cấu, tăng thu nhập trong gia đình.v.v. Trong việc phát huy thế mạnh nội lực của nước ta quan trọng nhất phải kể đến nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực với tư cách là nơi cung cấp sức lao động cho xã hội, bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp nguồn nhân lực được hiểu là nhóm dân cư trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động. Theo nghĩa rộng “nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất va tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội tạo thành năng lực của con người và của cộng đồng người. Năng lực đó khi được sử dụng, phát huy sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội”.[Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học]. Việt Nam là nước có dân số trẻ, trong đó tỷ lệ người trong độ tuổi lao động và biết chữ cao. Theo con số thống kê năm 1999, nước ta có xấp xỉ 76,5 triệu người, trong đó có 49% là nam, 51% là nữ.. Hàng năm có khoảng 1,5 đến 1,7 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động. Điều này chứng tỏ số lượng lao động ở Việt Nam khá dồi dào. Đây là một trong số những nhân tố thuận lợi nếu chúng ta biết sử dụng một cách có hiệu quả, hợp lý. Tuy nhiên nếu như chính sách của chúng ta không tận dụng được những lợi thế về nguồn nhân lực thì chúng có thể lại là yếu tố làm cản trở sự phát triển kinh tế của đất nước. Đối với các nước chậm phát triển nguồn nhân lực đông thường không phải là yếu tố động lực cho sự phát triển vì không phải người lao động nào cũng sử dụng hợp lý tối đa khả năng lao động của mình.Bên cạnh đó chúng ta cũng thấy rằng số người trong độ tuổi lao động chiếm 51% nhưng chỉ có 7,6% có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Những con số này cho thấy một hiện thực là nguồn nhân lực của chúng ta tuy dồi dào, trẻ nhưng chưa có chuyên môn kỹ thuật cao, do đó chưa phát huy được hết tiềm năng.Vấn đề phát triển nguồn nhân lực còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác của xã hội như: trình độ phát triển của giáo dục đào tạo, trình độ xã hội hóa các mặt đời sống xã hội, mức sống nguồn thu nhập, giới tính, độ tuổi..vv Nguồn nhân lực Việt Nam tuy cần cù lao động song dễ thỏa mãn và còn mang nặng tâm lý hưởng thụ. Chúng ta có ưu thế thông minh, sáng tạo nhưng chỉ trong tầm ngắn hạn và thiếu chủ động. Những ưu điểm của người Việt Nam là: ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh chóng các tri thực mới, tiết kiệm, yêu hòa bình và nhẫn nhịn. Tuy nhiên, chúng ta lại thiếu tự tin, óc phê phán, bệnh hình thức, thể lực kém, thiếu tác phong công nghiệp, thiếu thực tế. Những điều ấy tạo thành rào cản lớn cho Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Nhất là trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, chúng ta cần phải tích cực hơn nữa trong việc phát huy các thế mạnh và hạn chế các nhược điểm. Một nhà xã hội học người Mỹ đã nói : “Anh nông dân sau khi gieo lúa xong có thể nhậu lai rai, ngủ dài dài và chờ đến thời điểm nhổ cỏ, bón phân mới làm tiếp. Mà việc này có thể làm muộn vài ngày cũng chẳng sao, không ảnh hưởng gì đến hòa hình thế giới. Nhưng một người công nhân đứng máy luôn luôn phải đúng giờ, có thao tác chính xác tuyệt đối và tinh thần kỷ luật cao. Trong việc phát huy nội lực, yếu tố quan trọng nhất chính là yếu tố nguồn nhân lực bởi chỉ có con người mới có thể quyết định cho việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, khai thác tối ưu giá trị của nguồn tài nguyên đất nước. Đồng thời cũng chỉ có con người mới có thể phát huy sức mạnh sáng tạo của mình, sử dụng các phát minh khoa học công nghệ mới để làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Hơn nữa cũng chỉ có thể đánh giá vai trò quyết định của nguồn nhân lực con người khi đặt nó trong mối quan hệ với các nguồn lực khác. Đó là vị trí địa lý tự nhiên, tài nguyên khoáng sản, khoa học kỹ thuật, nguồn vốn trong nước và nguồn vốn có thể tranh thủ được từ nước ngoài. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta cần có những chính sách hợp lý trong việc sử dụng và phát triển nguồn nội lực đầy tiềm năng để đưa đất nước theo kịp với sự phát triển của toàn cầu. Vậy đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát huy các nguồn lực trong nước và quốc tế. Đường lối có đúng đắn thì sức mạnh của nguồn nhân lực mới được phát huy hiệu quả và từ đó quyết định đến hiệu quả sử dụng các nguồn lực khác. Như vậy, có thể thấy là ngay trong vấn đề phát triển nguồn lực nội sinh đã cần phải quán triệt tinh thần biện chứng để đánh giá vai trò cũng như có chính sách đầu tư hợp lý, kết hợp đa dạng trong thống nhất nhằm tận dụng tối đa sức mạnh nội tại cũng như đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước. 1.2 Tranh thủ ngoaị lực bên ngoài để thúc đẩy nhanh hơn quá trình phát triển Đảng ta đã nhận định rằng: “Thế kỷ XX là thế kỷ khoa học và công nghệ tiến nhanh chưa từng thấy, giá trị sản xuất vật chất tăng hàng chục lần so với thế kỷ trước; kinh tế phát triển manh mẽ xen lẫn những cuộc khủng hoảng lớn của chủ nghĩa tư bản thế giới và sự phân hóa gay gắt về giàu nghèo giữa các nước, các khu vực.”[Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr 61.]. Điều này được chứng minh bởi các thành tựu khoa học kỹ thuật vĩ đại của thế kỷ như: sáng tạo giải phóng năng lượng hạt nhân tạo ra bước nhảy vọt trong việc tìm ra nguồn năng lượng mới cho loài người; cuộc cách mạng sinh học như “Cách mạng xanh”, “Cách mạng trắng”..tạo ra những giống mới nhằm phát triển nền nông nghiệp. Ngoài ra còn có các thành tựu giải mã gen người, sinh sản vô tính làm thay đổi cuộc sống của con người. Các cuộc cách mạng về vật liệu mới tạo ra những chất liệu siêu bền, đa tính năng phục vụ cho sinh hoạt của con người. Bên cạnh đó là cuộc cách mạng về công nghệ vũ trụ với việc phóng vệ tinh nhân tạo, đưa con người lên mặt trăng. Khoa học phục vụ y tế cũng phát triển mạnh. Đặc biệt, cuộc cách mạng thông tin với sự ra đời của máy ảnh, điện thoại, vô tuyến truyền hình và Internet đã làm cho trái đất xích lại gần nhau hơn. Sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ với nhiều thành tựu lớn tạo ra cơ hội lớn cho chúng ta trong việc vận dụng các thành tựu đó vào trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Vì vậy, việc tận dụng, tranh thủ ngoại lực là một yêu cầu bức thiết trong chính sách phát triển của Việt Nam. Chỉ có kết hợp phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực thì nước ta mới có thể tránh được nguy cơ tụt hậu, tiến nhanh theo kịp các nước trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. Nền kinh tế của chúng ta được xây dựng theo phương châm: “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực” trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, chủ động về lộ trình, nắm bắt được thời cơ, hạn chế những thiếu sót và phát huy nhữg ưu điểm…Chúng ta tranh thủ ngoại lực bằng cách tiếp thu những thành tựu khoa học mới trong sản xuất, tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và các loại mặt hàng trên thị trường. Việt Nam với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ưu tiên cho việc nâng cao chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế, hiệu quả hợp tác quốc tế, tăng nhanh tích lũy nội bộ, tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu và tập trung thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA tính đến năm 2005 thu hút giải ngân từ 10 đến 11 tỷ USD. Như vậy, chúng ta cần phải mở rộng quan hệ hợp tác đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa như là xu thế tất yếu của lịch sử, nước ta cần có những chính sách đối ngoại hợp lý sao cho ta có thể hòa nhập nhưng không hòa tan. Nguồn lực bên ngoài quan trọng nhất chính là các thành tựu khoa học kỹ thuật và vốn đầu tư của các nước. Với mục tiêu “phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt” chúng ta mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại, thu hút đầu tư nhằm tăng thêm tiềm lực của nước nhà phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. 1.3 Mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực Thực chất trong quá trình phát triển của nền kinh tế nước ta không thể thiếu mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực. Nền kinh tế muốn phát triển nhanh, bền vững có hiệu quả phải gắn liền với việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh đó là việc phát triển nguồn nhân lực Việt Nam với yêu cầu ngày càng cao. Muốn như vậy nhà nước cần có chính sách vận hành thông suốt, có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đảm bảo hiệu quả. Đồng thời chúng ta cũng phải tranh thủ được những nguồn lực từ bên ngoài để giúp quá trình phát triển của chúng ta nhanh đạt đến đích hơn. Đại hội đại IX đã xác định mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng và an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị trí của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.”[Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần lần thứ IX, tr89,90] Như vậy là xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ về đường lối chính sách phải gắn liền với việc phát huy các nguồn lực trong nước, kết hợp với tập trung thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Có phát triển nguồn nhân lực mới tao ra nhân tố để phát triển và ứng dụng các nguồn lực khoa học tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên cũng như nguồn lực bên ngoài. Các nguồn lực tự nhiên ở nước nào cũng có nhưng nếu như con người không biết cách khai thác thì đất nước sẽ ngày một trở nên nghèo nàn, tài nguyên cạn kiệt. Trong khi đó với cách sử dụng hợp lý, con người biết khai thác và bảo vệ thiên nhiên thì nó sẽ trở thành yếu tố làm cho đất nước thêm giàu mạnh. Vốn và tiền cũng là nhân tố quan trọng không kém trong sự nghiệp phát triển của bất cứ quốc gia nào. Thế nhưng tiền chỉ có giá trị thông qua lao động của con người. Vốn thu hút từ nước ngoài chỉ thực sự phát huy giá trị của nó khi con người sử dụng nguồn vốn đó một cách hợp lý cho sự phát triển. Và cũng như vậy đối với khoa học kỹ thuật. Con người với sự sáng tạo của mình có thể tạo ra những phát minh cải tạo chính cuộc sống, nhưng cũng có thể sử dụng chính những phát minh ấy để hủy hoại cuộc sống, phá hủy môi trường sinh thái, gây chiến tranh.v.v. Vấn đề cốt yếu chính là con người tạo ra và sử dụng khoa học kỹ thuật ấy như thế nào. Nguồn lực con người có vai trò quyết định bởi so với các nguồn lực khác thì chỉ có con người mới có khả năng sáng tạo, trí tuệ. Con người biết sử dụng, tạo ra và cải thiện cuộc sống của mình trong sự thay đổi của lịch sử. Những tiềm năng của con người là vô tận mà cho đến tận ngày nay chúng ta vẫn còn chưa khám phá ra. Trong thời đại ngày nay con người không chỉ sử dụng thiên nhiên, vốn, khoa học để phục vụ cho những nhu cầu của mình mà ngay cả con người cũng trở thành đối tượng được quan tâm để cải thiện chính cuộc sống của con người. Sự hỗ trợ của các nhân tố khác sẽ góp phần cho sự phát triển và tạo nhiều cơ hội thuận lợi để cho nguồn nhân lực được trang bị và hỗ trợ các phương tiện để thực hiện sự thúc đẩy lẫn nhau. Trong việc xây dựng và thực hiện các đường lối chính sách của Đảng ta cũng không thể xa rời quan điểm kết hợp đồng bộ và phát triển các nguồn lực trong nước và quốc tế. Mặc dù vẫn là đựa vào sức mình là chính nhưng trong điều kiện thế giới mở rộng hợp tác chúng ta không thể “đóng kín” mọi quan hệ. Có như vậy chúng ta mới có thể tranh thủ được sức mạnh ngoại lực, phát huy nội lực, làm cho đất nước ngày càng phát triển, theo kịp các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Các nhân tố nội lực hay ngoại lực đều có ý nghĩa vai trò nhất định trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Sự kết hợp biện chứng giữa các yếu tố đó trong phát triển sẽ luôn tạo ra kết quả cao hơn so với việc kết hợp chúng một cách máy móc, hay theo những phép cộng giản đơn. Sự tác động của nhân tố cơ bản có vai trò thúc đẩy các nhân tố khác cùng phát triển. Sự thiếu hụt nhân tố nào đó có thể gây nên hậu quả tiêu cực. Do vậy sự kết hợp giữa phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực là không thể không có nếu một đất nước muốn phát triển. Chương 2: Thực trạng vấn đề phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực ở Việt Nam hiện nay. 2.1 Thực trạng vấn đề kết hợp phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực ở Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước Đánh giá kết quả 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng VIII cho thấy chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nền kinh tế tăng trưởng khá do có sự kết hợp phát triển giữa nhiều ngành và nhiều nghề, tận dụng được hầu hêt những nguồn lực trong nước. - Về nông lâm ngư nghiệp. Các giống lúa mới được sử dụng ở nhiều địa phương trên cả nước, cho năng suất cao. Mức lương thực trung bình của người dân được nâng lên đáng kể. Nhiều vùng sản suất nông sản tập trung gắn với công nghiệp chế biến bước đầu được hình thành, cho ra đời những sản phẩm đa dạng về chủng loại. Diện tích của các loại cây công nghiệp tăng khá. Bên cạnh đó nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy sản cũng phát triển và đạt được nhiều kết quả khả quan. Chúng ta vừa kết hợp sử dụng tài nguyên rừng vừa tái tạo rừng. Công tác chăm sóc, bảo vệ rừng có tiến bộ. Hàng triệu hecta rừng được trồng và bảo vệ. Việc xuất khẩu các sản phẩm nông lâm thủy sản ngày càng nhiều, chiếm 30% kim ngạch cả nước. - Về công nghiệp. Đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp chúng ta đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Nhịp độ tăng trưởng là 13,5% /năm. Năng lực sản xuất được nâng cao rõ rệt. Do đó có nhiều ngành nghề công nghiệp được đầu tư theo chiều sâu và mũi nhọn. Trong hoạt động công nghiệp phải kể đến sự tham gia của nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ mới với các trang thiết bị hiện đại đã nâng cao chất lượng cũng như số lượng của các mặt hàng, công trình. - Về dịch vụ. Các loại hình dịch vụ Việt Nam cũng có nhiều khởi sắc. Du lịch Việt Nam phát triển đa dạng phong phú, chất lượng được nâng cao. Giao thông vận tải được trang bị nâng cấp. Dịch vụ bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm đều được phát triển theo hướng hiện đại hóa. Có được điều này là nhờ cơ cấu nền kinh tế đã có những bước chuyển đổi tích cực. Chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước đã có những thay đổi hợp lý nhằm đổi mới kinh tế nước nhà, phát huy tiềm năng khu vực, kinh tế ngoài quốc doanh. Nhờ chính sách thông thoáng mà nền kinh tế có thể tận dụng hết được những thế mạnh của kinh tế tập thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế hỗn hợp, kinh tế có vốn đầu tư ở nước ngoài.v.v phát huy được hết cả nội lực và ngoại lực. - Về khoa học kỹ thuật và giáo dục. Sự phát triển kinh tế gắn liền với sự phát triển khoa học kỹ thuật và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Giáo dục đào tạo ở tất cả các ngành, các bậc học được mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng. Trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được tăng lên đáng kể. Khoa học kỹ thuật được đầu tư chú ý tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển kinh tế, giáo dục và nhiều lĩnh vực khác của xã hội. Các thành tựu khoa học công nghệ cải thiện điều kiện kinh doanh sản xuất, cải thiện đời sống của con người. Trong quá trình đó chính năng lực của con người lại được nâng lên tầm cao mới đáp ứng nhu cầu phát triển toàn diện. Việc chúng ta tận dụng và phát huy tối đa hiệu quả của các nguồn lực trong nước không thể nào tách rời việc hội nhập quốc tế và tranh thủ ngoại lực. Trong quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng, các nước bạn bè truyền thống, và các tổ chức như ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam á), APEC (Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương) chúng ta đã tranh thủ các hoạt động hợp tác cùng có lợi. Ngoài ra Việt Nam còn có quan hệ thương mại với nhiều nước và nhiều tổ chức quốc tế khác. Chúng ta đã thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Trong 5 năm 1996-2000, nước ta đạt tổng số vốn đầu tư của nước ngoài là khoảng 10 tỷ USD, tổng số vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài cấp mới và bổ sung là 24,6 tỷ USD. - Về ngoại giao. Bên cạnh việc đẩy mạnh quan hệ hợp tác giao lưu thương mại, khoa học kỹ thuật, chúng ta còn thúc đẩy quan hệ ngoại giao hòa bình, đoàn kết hữu nghị với nhiều nước trên thế giới. Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế hôm nay, chúng ta có thể nhận thấy một cách dễ dàng những tac động của nó đối với khoa học kỹ thuật. Toàn cầu hoá một mặt thúc đẩy tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ giữa các quốc gia; thúc đẩy phối hợp các hoạt động nghiên cứu, triển khai trong từng quốc gia và trên thế giới theo nguyên tắc phát huy thế mạnh của từng nước và hợp lý hoá để đưa lại hiệu quả cao nhất; tạo ra một cuộc cách mạng về phương pháp sản xuất sản phẩm công nghệ; hướng các quốc gia đến việc tiếp nhận và sáng tạo các khoa học công nghệ cao nhằm giảm bớt tiêu hao năng lượng, giảm tác hại của sự phát triển công nghịêp tới môi trường sinh thái; chia sẻ các nguồn tài nguyên ở mọi quốc gia. Điều này tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi thành tựu, kinh nghiệm phát triển, hợp tác cùng phát triển giữa các nước với nhau. Đó cũng chính là một trong những động lực để Việt Nam tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước khác, tiến lên xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhận thấy những nguy cơ tiềm ẩn của toàn cầu hoá trong khoa học công nghệ. Đó là sự phân chia dân cư thế giới thành các cực khác nhau; những nguy cơ lớn về công nghệ do con người tạo ra; sự phát triển vũ bão của khoa học công nghệ làm cho cơ cấu nhà nước, chủ quyền quốc gia bị xoá nhoà; mở rộng xa lộ thông tin toàn cầu khiến cho hiệu quả thông tin trở nên dễ dàng cho việc khủng bố; truyền thông cũng làm nhân những lỗi lầm của con người lên gấp nhiều lần, hậu quả khôn lường;mất mát về đạo đức xã hội;khuynh hướng tư nhân hoá và kinh doanh vụ lợi các trị thức, sản phẩm khoa học công nghệ. Do vậy, nhìn vào sự kết hợp khoa học công nghệ của nước ta với thế giới ta không thể không lưu ý đến cả những mặt tốt cũng như những hạn chế của nó. Nền kinh tế của ta tuy đã phát triển nhưng phát triển chưa vững chắc và hiệu quả, sức cạnh tranh còn yếu. Năng suất lao động vẫn chưa cao do còn nhiều hạn chế ở nguồn lực lao động. Nhiều sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, thủ công thiếu thị trường tiêu thụ một cách nghiêm trọng đã gây ra không ít những tổn thất cho nền kinh tế. Nhiều mặt hàng phải xuất khẩu qua khâu trung gian, hoặc bị làm nhái thương hiệu, gian lận thương mại ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Việc trao đổi hợp tác công nghệ cũng rất rễ gây ra cảnh chúng ta bị mất bản quyền sản phẩm do chính nước mình làm ra. Đó cũng là mặt trái trong việc mở rộng giao lưu chuyển đổi công nghệ, tự do cạnh tranh. Trong chính sách của chúng ta còn có nhiều điểm chưa thật hợp lý. Hệ thống tài chính ngân hàng còn nhiều yếu kém và thiếu đồng bộ. Số nợ còn lớn do việc sử dụng lãng phí, kém hiệu quả. Thị trường vốn phát triển chậm. Đặc biệt là trong thị trường chứng khoán còn nhiều bất cập về hoạt động, thiếu kinh nghiệm, lúng túng. Cơ cấu chuyển dịch chậm và việc đầu tư dàn trải đã làm cho nước ta nhiều thời điểm rơi vào tình trạng chỗ thì thừa chỗ thì thiếu, gây nên sự phát triển không đồng đều giữa các ngành, các nguồn lực. Vốn đầu tư của nước ngoài cũng đã giảm đáng kể bởi chính sách quản lý và phát triển còn nhiều vướng mắc và thiếu sót. Đặc biệt trong công tác giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều bức xúc gay gắt. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị, thiếu việc làm ở nông thôn ngày càng cao, trở thành vấn đề nổi cộm của toàn xã hội. Giáo dục đào tạo còn xa rời thực tiễn, do đó nguồn nhân lực không thể phát huy thế mạnh của mình. Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nguồn nhân lực phải đáp ứng được yêu cầu năng lực, trình độ kỹ thuật, phong cách công nghiệp. Nhưng với những hạn chế như chúng ta đã đề cập ở trên nguồn nhân lực của ta còn có rất nhiều yếu kém, trì trệ. Những tiêu cực trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực làm giảm sút uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Đối với việc hợp tác đào tạo nguồn nhân lực ở nước ngoài cũng không đạt được hiệu quả thực sự cao dù nhà nước đã đầu tư không ít tiền của. Do mức sống trung bình ở nước ta còn thấp nên phần nhiều các doanh nhân đươc đào tạo ở nước ngoài không trở về nước tiến hành kinh doanh. Nguồn nhân lực của ta không thiếu khả năng thích ứng nhưng lại thiếu trầm trọng về trình độ kỹ thuật, cái mà nền công nghiệp hiện đại đòi hỏi cần phải có. Một mặt khác là khoa học kỹ thuật của chúng ta cũng còn nhiều bất cập. Nhà nước đầu tư nhiều vào các công trình nghiên cứu nhưng kết quả nghiên cứu ít được ứng dụng trong thực tiễn. Trình độ công nghệ của ta còn thấp trong khi cả thế giới đang thay đổi từng ngày với những phát minh khoa học thực tiễn. Cơ cấu phân công cán bộ khoa học cho từng ngành cũng chưa thực sự phát huy được hiệu quả nếu như không muốn nói là phân tán, thiếu phối hợp, thiếu hiệu quả. Những yếu kém vừa kể trên của nước ta phần nhiều là do chính sách không đồng bộ và tạo động lực mạnh để phát triển. Chính sách chưa nhất quán, chưa sát với cuộc sống là nguyên nhân của việc chúng ta không tận dụng được hết nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực con người, nguồn lực vốn nước ngoài và khoa học kỹ thuật. Do ảnh hưởng của chính sách bao cấp mà nước ta con nhiều tâm lý thiếu năng động sáng tạo. Điều này đã cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, không thể khai thác được thế mạnh của nhiều lĩnh vực kinh tế. Cũng có những trường hợp Đảng và Nhà nước ra những chính sách đúng đắn nhưng qua các cấp triển khai thì chính sách đó đã bị biến dạng. Thực chất thì điều này cũng khẳng định sự thiếu đồng bộ trong các cấp các ngành của ta, làm cản trở sự phát triển của đất nước. Như vậy là muốn đảm bảo cho phát triển đồng bộ cũng như hiệu quả trên mọi lĩnh vực kinh tế xã hội, kết hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài một cách hợp lý thì chúng ta phải luôn giữ vững quan điểm biện chứng trong phát triển. Các chính sách đều phải đặt sự phát triển nội lực trong mối quan hệ chặtchẽ với ngoại lực. Có như thế chúng ta mới có thể tận dụng tối đa nhất những gì đang có, những thành tựu để đưa đất nước ngày càng tiến lên. 2.2 Giải pháp cho vấn đề phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực ở nước ta Trong giai đoạn thực hiện kế hoạch 5 năm 2000-2005 Đảng và nhà nước ta đã có những sự điều chỉnh trong chính sách cũng như chiến lược phát triển nội lực và ngoại lực nhằm nâng cao hơn nữa vị thế của chúng ta trên trường quốc tế. Chúng ta chủ chương phát triển dựa trên sức mình là chính, kết hợp với sự hỗ trợ hợp tác từ bên ngoài để thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chúng ta phải quán triệt quan điểm: Phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo vệ độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an nin

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCNXH (48).doc
Tài liệu liên quan