Năm 1994, NHNN công bố chủ trương hạ lãi suất trong cuộc họp Giám đốc đầu năm . Nhưng chủ trương này không được thực hiện với lý do tỷ lệ lạm phát bj đẩy cao lên gấp đôi năm 1993 .Trong ba năm chậm hạ lãi suất ,tiền gửi các ngân hàng chỉ sử dụng hết một nửa .Các doanh nghiệp đã è cổ ra gánh một lãi suất cao để trả Cho những người nước ngoài đem ngoại tệ vào đổi lấy VND để gởi tiết kiệm với lãi suất cao gấp 4-5 lần lãi suất thế giới trong hàng loạt sổ tiết kiệm hàng tỷ đồng một sổ .Vì vậy ,khi dồn dập hạ lãi suất trong năm 1996 ,số dư nguồn vốn tiền gửi đã giảm đột ngột vào quí IV năm đó ,chuyển các NHTM từ vị thế thừa vốn sang thiếu vốn . Công với cái vô lý là bắt các NHTM phải gánh chịu số lỗ do thực hiện chính sách hạ lãi suất , và áp đặt chênh lệch lãi suất 0,35% ,các NHTM và nhất là các ngân hàng cổ phần đã bị giảm lợi nhuận một cách nặng nề .Tài chính vẫn duy trì một mức thuế lợi tức 45% và Cho rằng tỷ lệ đó vẫn phù hợp ,cộng với việc tính thuế không Cho ghi các khoản chi phí trích trước đã dồn các ngân hàng vào tình trạng hầu như không tích luỹ được vốn .Việc tăng vốn điều lệ vì vậy hầu như không thực hiện được.Các NHTM đã yếu và để nợ quá hạn ,nợ xấu tăng cao,lại bị suy yếu thêm vì những chính sách dồn các NHTM vào chỗ không duy trì được tỷ suất lợi nhuận bình quân
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3178 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng về điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam từ những năm 90 trở lại đâ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiền gửi = Tỷ lệ lạm phát + Tỷ lệ nhất định
Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho các tổ chức tín dụng
Lãi suất cho vay = Lsuất tiền gửi + Chi phí + Thuế + Tỷ lệ nhất định
Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho người vay vốn ngân hàng
Tỷ lệ lạm phát < Lsuất tiền gửi < Lsuất cho vay<Mức sinh lợi bình quân
II .Chính sách lãi suất
Đây là một bộ phận cấu thành của chính sách tiền tệ quốc gia. Vì thế, trước hết nó phải hướng tới những mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Đó là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và kích thích tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, chính sách tiền tệ ở nước ta hiện nay phải nhằm tiến tới hình thành một thị trường tiền tệ, tạo sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng giữa các tổ chức tín dụng, xoá bỏ sự khác biệt về lãi suất giữa các khu vực. Thứ ba, chính sách lãi suất phải tạo điều kiện để giảm chi phí hoạt động tín dụng, tránh tình trạng biến tướng chi phí của các TCTD vào giá thành sản xuất của xã hội. ngoài ra, đối với các TCTD, chính sách lãi suất còn phải đảm bảo có sự chênh lệch lãi suất đủ để duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh.
Phần II.
Thực trạng về chính sách lãi suất ở Việt Nam từ những năm 90 Cho đến nay
I.Sơ lược việc điều hành, cải tiến lãi suất trong thời gian qua.
1.Trước tháng 3- 1989 :
Nghị định 53/ HĐBT ngày 26/3/1988 và hai pháp lệnh về ngân hàng (1/10/1990) tách hệ thống ngân hàng 1 cấp thành 2 cấp ,từng bước chuyển hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường .Tuy nhiên do lạm phát cao nên chính sách lãi suất chưa thực hiện được lãi suất dương Cho nên thời kỳ này là thời kỳ điều hành theo cơ chế lãi suất âm. Điều này có nghĩa là:
Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.
Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn mức lạm phát.
Hệ thống lãi suất có nhiều tiêu cực.
+ Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền lưu thông, giải toả áp lực của tiền đối với giá cả hàng hoá bị hạn chế nhiều.
+ Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả tạo cho doanh nghiệp.
+ Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ không đáng có cho ngân hàng. Ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ bình thường theo cơ chế thị trường.
2.Từ tháng 3-1989:
Khi lạm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi tương đối thấp ,có điều kiện thực hiện chính sách lãi suất dương dương tức là lãi suất Cho vay cao hơn lãi suất huy động và lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lạm phát .Tháng 10/1992 ,NHNN bắt đầu từng bước thực hiện lãi suất dương và đến tháng 3/1993 NHNN đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất, chuyển từ lãi suất âm qua lãi suất dương. Để thu hút tiền thừa trong lưu thông về, kìm chế lạm phát, tránh bao cấp qua lãi suất, NHNN đã nâng lãi suất huy động lên một lượng rất cao trong một thời gian ngắn (lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn 109 % / năm, lãi suất tiết kiệm 3 tháng 144 %/ năm). Nhờ vậy đã:
Thu hút một khối lượng tiền lớn trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng, giảm áp lực lạm phát.
Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương, xử lí hài hoà lợi ích giữa người gửi tiền, người vay vốn và TCTD.
Xoá bỏ bao cấp qua lãi suất ngân hàng, chuyển hoạt động ngân hàng sang kinh doanh thực sự.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này, hệ thống lãi suất còn phức tạp, còn nhiều mức lãi suất tiền gửi và cho vay.
+ Đối với từng ngành kinh tế có mức lãi suất riêng.
+ Đối với các thành phần kinh tế còn có phân biệt lãi suất: lãi suất Cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước thấp hơn doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
3. Từ 1/ 10/ 93: NHNN vừa áp dụng lãi suất trần( cho vay) vừa áp dụng lãi suất thoả thuận.
-Lãi suất trần: Cho vay doanh nghiệp nhà nước 1,8% / tháng, kinh tế ngoài quốc doanh 2,1 % / tháng.
-Lãi suất thoả thuận: Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận: Lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kì hạn là 0,1 %/ tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng.
Trên thực tế, khoảng 30-60 % tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân, với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5 % tháng. Với cơ chế lãi suất thoả thuận, có thể hiểu là đã tự do hoá một phần lãi suất, hoặc đó là cơ chế cho vay với lãi suất “cứng” đi đôi với một biên độ dao động nhất định.
Thời kỳ này , các ngân hàng đạt mức chênh lệch giữa lãi suất Cho vay và lãi suất huy động cao ,phổ biến là từ 0,7% -1% tháng ,Cho nên ,hầu hết , các NHTM đều có mức lợi nhuận cao ,trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính .Từ thực trạng này ,Quốc hội khoá IX ,kỳ họp thứ 8 tháng 10/1995 đã thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu hoạt động tín dụng ngân hàng ,đồng thời yêu cầu các NHTM phải tiết giảm chi phí để giảm lãi suất Cho vay .Đồng thời khống chế chênh lệch giữa lãi suất Cho vay và lãi suất huy động 0,35%/tháng .Đó là lý do để chuyển sang một giai đoạn thực hiện chính sách trần lãi suất .
4.Từ 1/1/996 Chuyển từ lãi suất thoả thuận qua trần lãi suất.
Việc quy định trần lãi suất và khống chế mức chênh lệch 0, 35% thực chất là vừa quy định trần lãi suất, vừa quy định sàn lãi suất. Vì thế từ 1/ 1/ 96, NHNN đã quy định trần lãi suất cho vay tối đa và mức chênh lệch 0,35 % thay cho việc điều hành theo lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi chi tiết và lãi suất thoả thuận quy định trước đó .
Do quy mô và địa bàn hoạt động khác nhau, nhu cầu vốn khác nhau, chi phí hoạt động khác nhau, nên NHNN đã quy định trần lãi suất có phân biệt như sau:
Trần lãi suất cho vay ngắn hạn.
Trần lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn.
Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn.
Trần lãi suất cho vay của Quỹ tín dụng đối với các thành viên.
Giữa các trần lãi suất này lúc đầu có mức chênh lệch với nhau khá xa nhưng sau mỗi lần điều chỉnh khoảng cáh này đã rút ngắn lại và chỉ còn chênh lệch ít .
Một thực tế khách quan của cơ chế thị trường là khu vực nông thôn có nhu cầu vốn lớn nhưng huy động tại chỗ được rất ít và chi phí hoạt động ngân hàng ở đây rất cao ,nên NHNN qui định trần lãi suất Cho vay nông thôn cao hơn thành thị nhằm thu hút vốn từ thành thị về nông thôn .Nhưng nhiều quan điểm Cho rằng lãi suất Cho vay nông thôn phải thấp hơn hoặc bằng thành thị mới ưu đãi nông nghiệp ,mới khuyến khích nông nghiệp phát triển .
Do đó , từ 21/1/1998 , Quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh lệch 0,35 % / tháng, đồng thời để thu hẹp sự cách biệt giữa mức lãi suất cho vay của thành thị và nông thôn, NHNN quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần xuống còn 3 trần lãi suất và không quy định mức chênh lệch 0,35 %/ tháng nữa:
Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2 % tháng.
Trần lãi suất cho vay trung dài hạn 1,25 % tháng.
Trần lãi suất QTD cho vay thành viên 1,5 % tháng.
Năm 1999, NHNN tiếp tục thực hiện quản lý và điều hành chính sách lãi suất tín dụng theo cơ chế lãi suất trần và lãi suất tái cấp vốn đối với các TCTD ;trong khuôn khổ trần lãi suất Cho vay,TCTD được phép qui định các mức lãi suất Cho vay và lãi suất tiền gửi cụ thể phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn tín dụng từng giai đoạn ,nhằm mở rộng tín dụng ,góp phần quan trọng vào việc kích thích tăng trưởng kinh tế trong nhứng năm qua .
Trần lãi suất trong năm 1999 được NHNN điều chỉnh liên tục ,phù hợp với chỉ số lạm phát , quan hệ cung cầu vốn tín dụng tại từng thời điểm và góp phần thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của Chính phủ thông qua cơ chế nới lỏng lãi suất tín dụng .Có thể nói đây là năm NHNN điều chỉnh lãi suất tín dụng nhiều nhất từ trước đến nay ,lãi suất năm 1999 luôn có xu hướng giảm sau các lần điều chỉnh , cụ thể như sau :
+ Ngày 17/1/1999 ,Thống đốc NHNN có chỉ tị 01/1999/CT-NHNN 1 điều chỉnh giảm lãi suất Cho vay bằng đồng Việt Nam của các NHTM quốc doanh : đối với khách hàng ở khu vực thành thị từ 1,2 – 1,25%/tháng xuống 1-1,15%/tháng ;các TCTD khác vẫ thực hiện theo mức trần 1,2%/tháng đối với Cho vay ngắn hạn và 1,25%/tháng đối với Cho vay trung và dài hạn .
+ Ngày 29/05/1999 do nền kinh tế đang có dấu hiệu thiểu phát ,tăng trưởng kinh tế chậm lại ,sức mua giảm sút .Thống đốc NHNN đã có quyết định 184/1999/QĐ -NHNN 1 về việc điều chỉnh giảm trần lãi suất Cho vay bằng đồng Việt Nam từ 1,2-1,25%/tháng xuống mức 1,15%/tháng áp dụng Cho các TCTD Cho vay trên địa bàn thành thị và nông thôn .Cùng với việc giảm trần lãi suất Cho vay ,NHNN còn giảm lãi suất tái cấp vốn từ 1%/tháng và lãi suất tái cấp vốn về Cho vay chỉ định thu mua tạm trữ xuất khẩu 0,9%/tháng xuống một mức thống nhất là 0,85%/tháng . Như vậy , từ tháng 6/1999 từ chỗ nhiều trần lãi suất ngắn ,trung ,dài hạn trần lãi suất Cho vay khu vực thành thị và khu vực nông thôn khác nhau đã thống nhất chung một trần áp dụng chung Cho các TCTD ,không phân biệt quốc doanh hay cổ phần .
+ Tháng 9/1999 ,Thống đốc NHNN có chỉ thị 05/1999/CT –NHNN 1 điều chỉnh giảm lãi suất Cho vay bằng VND của các NHTM quốc doanh đối với khách hàng ở khu vực thành thị từ 1,05%/tháng xuống 0,95%/tháng .Đây là bước tiến trong chính sách lãi suất ,tạo thế chủ động hơn Cho các TCTD trong việc ấn định lãi suất tiền gửi và Cho vay phù hợp với điêù kiện về chi phí ,cung cầu trên từng vùng khác nhau và mức độ rủi ro của từng khoản vay ,tạo tiền đề Cho việc áp dụng cơ chế điều hành chính sách lãi suất của NHNN theo lãi suất cơ bản .
Nhìn chung , việc quản lí lãi suất theo trần có ưu điểm sau:
+ Trong phạm vi trần, các TCTD được tự do ấn định các mức lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp điều kiện kinh doanh , thực hiện chính sách khách hàng, tự chủ trong kinh doanh, thực hiện cạnh tranh lành mạnh, từng bước tự do hoá lãi suất.
+ Phù hợp với đặc diểm, chi phí hoạt động NH ở các vùng khác nhau.
+ Tạo mặt bằng chung về lãi suất trong cả nước, xoá bỏ lãi suất thoả thuận, vượt quá xa mức lãi suất do NHNN quy định.
+ Có trần khống chế sẽ bảo vệ được lợi ích người vay, TCTD và người gửi tiền.
+ Đảm bảo vai trò quản lí nhà nước của NHNN về lãi suất trong giai đoạn đầu của thị trường tiền tệ mới hình thành trong nền kinh tế thị trường.
5.Từ 7/2000 đến nay :Một bước tiến mới trong việc hình thành lãi suất cơ bản :
Hiện nay, NHNN đã công bố và Cho áp dụng lãi suất cơ bản làm cơ sở Cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản tạo ra một bước tiến mới trong chính sách lãi suất, tiến sát đến sự tự do hoá lãi suất hoàn toàn(đã tự do hoá lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi dưới mức tối đa), là cơ chế lãi suất linh hoạt theo quan hệ cung cầu vốn, phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế, tạo ra khả năng cạnh tranh lớn giữa các tổ chức tín dụng, giảm thiểu sự quản lí của nhà nước bằng mệnh lệnh hành chính. Khống chế lãi suất tiền gửi tối đa sẽ không cho phép các tổ chức tín dụng huy động với bất cứ laĩ suất nào, chạy đua về lãi suất tiền gửi để huy động mới bù đắp nợ cũ, bảo đảm an toàn hệ thống và bảo vệ được lợi ích của người gửi tiền. Đồng thời, với lãi suất cơ bản thì chắc chắn sẽ hình thành nhiều khu vực lãi suất theo quan hệ cung cầu vốn và chi phí ngân hàng khác nhau như: lãi suất khu vực nông thôn sẽ cao hơn khu vực thành thị, lãi suất cho vay các tổ chức tín dụng cổ phần sẽ cao hơn các tổ chức tín dụng có quy mô và sức cạnh tranh lớn như các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam.
II.Đánh giá những sai lầm trong việc điều hành chính sách lãi suất từ những năm 90 Cho đến nay:
*. Đối với thời kỳ lãi suất âm :
Trong thời kỳ quan liêu trì trệ trước năm 1988 ,lãi suất của Việt Nam không theo quy luật lãi suất thực nên lãi suất âm do NHNN áp đặt là một trong những nguyên nhân gây ra và kéo dài lạm phát phi mã .
*.Đối với thời kỳ lãi suất dương :
Thời kỳ này qui luật lãi suất thực mới được công nhận nhưng tư tưởng lãi suất ngân hàng phải áp sát lãi suất thị trường đã dẫn đến lãi suất tiết kiệm cực kỳ cao 12%/tháng mặc dù tỷ lệ lạm phát cuối năm 1992 chỉ còn 5%/tháng . Lãi suất cực kỳ cao vẫn còn ảnh hưởng tâm lý đến ngày nay ,người gửi tiền đòi hỏi lãi suất cao .
*.Đối với thời kỳ vừa qui định các mức lãi suất tiền gửi và Cho vay cụ thể ,vừa Cho vay theo lãi suất thoả thuận :
Năm 1994, NHNN công bố chủ trương hạ lãi suất trong cuộc họp Giám đốc đầu năm . Nhưng chủ trương này không được thực hiện với lý do tỷ lệ lạm phát bj đẩy cao lên gấp đôi năm 1993 .Trong ba năm chậm hạ lãi suất ,tiền gửi các ngân hàng chỉ sử dụng hết một nửa .Các doanh nghiệp đã è cổ ra gánh một lãi suất cao để trả Cho những người nước ngoài đem ngoại tệ vào đổi lấy VND để gởi tiết kiệm với lãi suất cao gấp 4-5 lần lãi suất thế giới trong hàng loạt sổ tiết kiệm hàng tỷ đồng một sổ .Vì vậy ,khi dồn dập hạ lãi suất trong năm 1996 ,số dư nguồn vốn tiền gửi đã giảm đột ngột vào quí IV năm đó ,chuyển các NHTM từ vị thế thừa vốn sang thiếu vốn . Công với cái vô lý là bắt các NHTM phải gánh chịu số lỗ do thực hiện chính sách hạ lãi suất , và áp đặt chênh lệch lãi suất 0,35% ,các NHTM và nhất là các ngân hàng cổ phần đã bị giảm lợi nhuận một cách nặng nề .Tài chính vẫn duy trì một mức thuế lợi tức 45% và Cho rằng tỷ lệ đó vẫn phù hợp ,cộng với việc tính thuế không Cho ghi các khoản chi phí trích trước đã dồn các ngân hàng vào tình trạng hầu như không tích luỹ được vốn .Việc tăng vốn điều lệ vì vậy hầu như không thực hiện được.Các NHTM đã yếu và để nợ quá hạn ,nợ xấu tăng cao,lại bị suy yếu thêm vì những chính sách dồn các NHTM vào chỗ không duy trì được tỷ suất lợi nhuận bình quân
*.Đối với thời kỳ áp dụng trần lãi suất :
Diễn biến các mức trần lãi suất cho vay theo quy định của NHNN kể từ khi xảy ra khủng hoảng tài chính- tiền tệ trong khu vực đến năm1999:
Thời điểm thực hiện mức trần lãi suất cho vay các loại
1/7/1997
21/1/1998
1/2/1999
1/6/1999
1. Ngắn hạn
1,0%
1,2%
1,1%
1,15%
2. Trung dài hạn
1,1%
1,25%
1,15%
1,15%
3.Vùng nông thôn
1,2%
1,25%
1,25%
1,15%
4. QTDND & HTXTD
1,5%
1,5%
1,5%
1,5%
5. Lãi suất tái cấp vốn
1,1%
1,1%
1,0%
0,85%
Chỉ số tiết kiệm, lãi suất danh nghĩa trung bình, lãi suất thực
Năm
Tiết kiệm
(%GDP)
LS danh nghĩa(%năm)
LS thực
(% năm)
CPI
(% năm)
1991
10,10
42,0
25,6
17,5
1992
13,77
35,5
17,9
5,1
1993
14,54
21,6
16,4
14,5
1994
17,08
16,8
2,4
14,3
1995
18,99
16,8
4,1
13,5
1996
15,96
13,5
9,0
4,5
1997
16,50
12,6
8,9
3,7
Nguồn: IMF
Thực tế cho thấy có nhiều tồn tại xoay quanh chính sách trần lãi suất. Dù cho việc kiểm soát lãi suất trong những điều kiện nhất định vì mục tiêu của chính sách tiền tệ thì vẫn không thể tránh khỏi những thiệt hại xét trên tổng thể nền kinh tế. Điều này từng khuyến khích sự vay mượn chiếm dụng lòng vòng, trốn tránh kiểm soát của NHNN, làm méo mó chế độ lãi suất quy định. Mức độ toàn dụng vốn trong nền kinh tế thấp, tính đầu cơ thực lợi và cạnh tranh bất tương xứng về lãi suất còn phổ biến, vốn bị sử dụng lãng phí, kém hiệu quả. Chuyển sang lãi suất trần là một bước tiến bộ, song lãi suất vẫn chưa phản ánh đúng quan hệ cung-cầu về vốn của nền kinh tế. Một biểu hiện rõ nhất là lãi suất chung của nền kinh tế chủ yếu được áp đặt bởi NHNN chứ chưa phải được hình thành theo đúng tín hiệu thị trường, thông qua một số tham số chủ chốt: lãi suất tín phiếu, trái phiếu kho bạc, lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất giao dịch hợp đồng mua đứt, bán đoạn hay mua bán có kì hạn, lãi suất khiết khấu, cầm cố, thế chấp tài sản...Nhìn chung, lãi suất chưa phản ánh được rủi ro tín dụng, thiếu quan hệ khăng khít với diễn biến tỉ giá hối đoái, trong lúc thường xuyên bị trói buộc hết sức cứng nhắc bởi “vòng kim cô” chỉ số giá CPI...
Đôi lúc trần lãi suất chỉ có ý nghĩa tượng trưng, bên cạnh đó còn tồn tại nhiều mức lãi suất khác nhau trên thực tế, lại có hiện tượng lạm dụng lãi suất ưu đãi tràn lan trong vòng 2 năm nay. Do đó xu hướng hạn chế, dỡ bỏ mọi áp đặt, can thiệp, kiểm soát hành chính về lãi suất là một tất yếu khách quan. Mục tiêu là cuối cùng thì phải để thị trường tự quyết định lãi suất phù hợp cho nó(cũng là cho nền kinh tế). Dựa vào đó sự can thiệp một cách gián tiếp của NHNN vào thị trường tiền tệ mới thực hiện được linh hoạt, đúng hướng và có hiệu quả.
*. Thời kỳ áp dụng lãi suất cơ bản :
ở Việt Nam hiện nay, muốn điều hành lãi suất cơ bản cho vay một cách có hiệu lực thông qua việc khống chế lãi suất tiền gửi tối đa thì NHNN sẽ phải kết hợp cả 2 phương pháp điều hành trực tiếp và gián tiếp:
- Điều chỉnh lãi suất cho vay bằng việc trực tiếp nâng hoặc hạ lãi suất tiền gửi tối đa tương ứng: muốn hạ lãi suất cho vay thì hạ lãi suất tiền gửi tối đa và ngược lại( điều hành bằng mệnh lệnh hành chính)
- Điều hành gián tiếp bằng việc dùng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ tác động vào khối lượng vốn trên thị trường như: NHNN mua bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn của các tổ chức tín dụng( nghiệp vụ thị trường mở), NHNN tái chiết khấu các loại chứng từ có giá(cửa sổ chiết khấu), thị trường liên ngân hàng hoạt động có hiệu quả nhằm thực hiện NHTƯ là người cho vay cuối cùng. Muốn điều hành khối lượng tiền bằng các công cụ gián tiếp có hiệu quả thì việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân ở mức độ khá phổ biến nhằm làm cho NHNN kiểm soát được tổng phương tiện thanh toán ở mức độ cao. Tuy nhiên, hiện nay các điều kiện trên ở nước ta chưa hội đủ, vì vậy khả năng kiểm soát và quản lí lãi suất cho vay sẽ rất hạn chế do chỉ còn mỗi một công cụ trực tiếp mà NHNN có thể thực hiện được là nâng hoặc hạ lãi suất tiền gửi tối đa để theo nó mà nâng hoặc hạ lãi suất cho vay. Tuy nhiên, xét theo quan hệ cung cầu về vốn, thì việc nâng hoặc hạ lãi suất tiền gửi tối đa trong điều kiện chưa có các công cụ gián tiếp phối hợp có thể tác động theo chiều ngịch, hạ lãi suất tiền gửi cũng có thể làm cho vốn tín dụng huy động được ít, trở nên khan hiếm và lãi suất cho vay sẽ “đắt lên” và ngược lại.
Vì vậy, trong điều kiện hiện tại của nước ta, khi chưa hội đủ các điều kiện như trên, việc thực hiện lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa thì dẫn đến tình trạng:
Các tổ chức tín dụng sẽ nâng lãi suất cho vay lên cao để đạt được lợi nhuận cao, vì bản chất của cơ chế thị trường là lợi nhuận tối đa. Dự kiến mức lãi suất cho vay có thể lên đến 2,5 % / tháng hoặc cao hơn, khi đó muốn điều chỉnh giảm lãi suất cho vay, NHNN chỉ còn một công cụlà giảm lãi suất tiền gửi tối đa nhưng hiệu lực sẽ rất kém, và lãi suất cho vay có thể không thể hạ xuống được. Khi lãi suất cho vay quá cao, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn, dư luận và các đại biểu quốc hội có thể phản ứng, khi đó điều hành qua lãi suất tiền gửi tối đa có thể kém hiệu lực và lãi suất cho vay có thể vẫn không hạ được theo ý muốn và lại phải quay trở lại với cơ chế lãi suất cho vay tối đa.
Lãi suất cao nhưng các doanh nghiệp và hộ sản xuất vẫn phải vay vì thiếu vốn sản xuất và vay để bù đắp các khoản nợ cũ đến hạn do cung về vốn ở nước ta luôn nhỏ hơn cầu, lợi nhuận thấp hơn chi phí phải trả ngân hàng sẽ dẫn đến nguy cơ cả doanh nghiệp và ngân hàng đều khó khăn và dẫn đến chỗ cả hai đều mất khả năng thanh toán.
Đồng thời, nếu thực hiện lãi suất này thì chắc chắn sẽ hình thành nhiều khu vực lãi suất theo cung cầu vốn và chi phí ngân hàng khác nhau như: lãi suất khu vực nông thôn sẽ cao hơn khu vực thành thị, lãi suất cho vay các tổ chức tín dụng cổ phần sẽ cao hơn các tổ chức tín dụng có quy mô và sức cạnh tranh lớn như các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Và như vậy, sẽ giảm bớt tính lành mạnh của cạnh tranh và trong sự cạnh tranh này chắc chắn các tổ chức tín dụng lớn, có nguồn vốn lớn là các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có ưu thế hơn, các tổ chức tín dụng nhỏ như ngân hàng thương mại cổ phần, quỹ tín dụng nhân dân sẽ gặp không ít khó khăn.
Việc thực hiện chính sách giảm lãi suất cho vay ở khu vực núi cao, hải đảo sẽ khó có cơ sở để thực hiện, trong khi các đối tượng vay vốn thuộc các khu vực này chưa được tách bạch là đối tượng chính sách được vay theo chính sách riêng của Nhà nước. Vì hiện tại việc giảm lãi suất miền núi cao(khu vực 3 ở vùng miền núi) được quy định giảm 30% trần lãi suất cùng loại do NHNN công bố.
Vì vậy, khi NHNN xây dựng và củng cố thị trường tiền tệ, chuyển từ điều hành chính sách tiền tệ từ công cụ trực tiếp sang kết hợp điều hành bằng công cụ trực tiếp với công cụ gián tiếp, đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động để mua bán các chứng khoán ngắn hạn của các tổ chức tín dụng, thực hiện tái chiết khấu các chứng từ của các tổ chức tín dụng, củng cố và kiểm soát thị trường liên ngân hàng có giá để thực hiện vai trò của Ngân hàng Trung ương là người cho vay cuối cùng, tiếp tục củng cố và mở rộng việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân, để trên cơ sở đó thực hiện một chính sách lãi suất cơ bản linh hoạt hơn trần lãi suất như công bố lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa có sự kiểm soát của Nhà nước bằng cả trực tiếp và gián tiếp. Sau quá trình thực hiện thành công lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa thì ta sẽ tiến thêm một bước nữa để tự do hoá lãi suất hoàn toàn khi đã có và chủ động về các công cụ điều hành chính sách tiền tệ và các điều kiện khác về kinh tế và chính sách tiền tệ ổn định.
Phần III
Một số các giải pháp trong điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam
Hoàn thiện hệ thống ngân hàng, hoàn thiện hệ thống chính sách.
Phối hợp với Bộ tài chính tăng cường phát hành những tín phiếu, trái phiếu kho bạc để đủ số lượng công cụ cho thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng vay hay cho vay rất dễ dàng bằng cách bán(vay) khi thiếu vốn, hay mua(cho vay) khi thừa vốn. NHTW cũng bán khi muốn thu hồi tiền từ lưu thông và mua khi muốn tung tiền ra lưu thông. Cách làm này nhanh và nhẹ nhàng hơn tái cấp vốn nặng nề hiện nay vì đòi hỏi phải có bộ hồ sơ cho vay, có tài sản thế chấp được công chứng và sự thẩm định lại của NHNN địa phương. Còn dùng cửa sổ tái chiết khấu thì ta chưa có thương phiếu do những điều luật về thương phiếu còn quá sơ sài(chỉ có 4 điều trong mươi dòng ở Luật Thương mại và chưa được hướng dẫn thi hành). Với cách làm nặng nề hiện nay, thị trường liên ngân hàng sẽ không hoạt động thường xuyên hàng ngày được.
NHNN phải thực sự là ngân hàng của các ngân hàng, nghĩa là nơi các NHTM thừa tiền có thể gửi NHNN để hưởng lãi suất qua đêm.
Trách nhiệm thực hiện chính sách xã hội và chính sách cơ cấu của NHNN và NHTM cho một vài tổ chức kinh tế chuyên trách, chẳng hạn Ngân hàng chính sách và Quỹ đầu tư quốc gia. Hoạt động của NHNN và NHTM tập trung cho thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách đầu tư phát triển kinh tế.
Cải tiến và tăng cường tác động của NHNN bằng các công cụ của chính sách tiền tệ hiện có, đặc biệt là điều chỉnh linh hoạt khả năng tạo tiền của các NHTM bằng giới hạn sử dụng vốn và hạn mức tái cấp vốn trong tái chiết khấu khế ước nợ và tín dụng thế chấp đối với giấy tờ có giá đảm bảo chất lượng.
Cần có một sự điều tra cơ bản của NHTW về mức chi phí quản lí bình quân của các ngân hàng ở các vùng khác nhau để lãi suất có thể bù đắp chi phí trung bình của các NHTM thành phố. Chính sách lãi suất có đảm bảo cho các NHTM kiếm được tỉ suất lợi nhuận bình quân của các ngành, các ngân hàng mới đủ sức đối phó được ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ và có đủ sức cạnh tranh khi hội nhập với ASEAN.
Các tiền gửi dự trữ bắt buộc phải thật sự là khoản dự trữ an toàn của ngành Ngân hàng. Không thể hiểu lầm phải đóng băng nó lại, nghĩa là không cho vay ra tức thời cho các NHTM khi họ thiếu khả năng chi trả tạm thời có thể dẫn tới phải khất chi tiền gửi cho khách hàng. Dùng loại tín dụng điều chỉnh với điều kiện NHTM không được tăng dư nợ khi đang vay loại này sẽ hoàn toàn khống chế việc dùng khoản vay này để kinh doanh(tăng dư nợ). Được vay ngay khi tạm thời thiếu khả năng chi trả, các NHTM có thể giảm bớt dự trữ an toàn sơ cấp rất cao hiện nay làm tăng chi phí và kéo theo tăng chênh lệch lãi suất.
Phân định rõ chức năng kinh doanh và chức năng xã hội trong hoạt động của các NHTM và các TCTD theo hướng xoá bỏ dần cơ chế bao cấp qua lãi suất tín dụng. Với hướng này các NHTM và các TCTD chỉ làm chức năng kinh doanh tiền tệ theo Luật Ngân hàng. Chuyển chức năng xã hội cho các tổ chức tài chính khác như Kho bạc, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng phục vụ người nghèo. Muốn vậy, cần phải hạn chế và tiến tới xoá bỏ dần cơ chế bao cấp qua tín dụng. Chừng nào còn tồn tại sự bao cấp của Nhà nước qua tín dụng thì các NHTM chưa thể thực hiện được chức năng kinh doanh tiền tệ đúng luật Ngân hàng. tính chủ động trong kinh doanh của các chủ nhà băng vẫn bị hạn chế, hiệu quả của hoạt động ngân hàng không thể hạch toán rõ ràng cả về kinh tế cũng như xã hội. Yêu cầu tạo sân chơi bình đẳng giữa các NHTMQD với NHTMCP và NHTM liên doanh với nước ngoài.
Tạo lập môi trường pháp lí lành mạnh để khuyến khích sự cạnh tranh giữa các NHTM và các TCTD phù hợp với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước.
Từng bước điều chỉnh cơ chế lãi suất, tiến dần theo hướng tự do hoá.
Thứ nhất: Trước mắt vẫn sử dụng trần lãi suất cho vay tối đa làm lãi suất cơ bản và cơ sở để chuyển sang tự do hoá lãi suất dựa trên mặt bằng giá vốn sẽ có những bước thuận lợi hơn so với việc điều hành theo lãi suất cơ bản sử
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72385.DOC