MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU . 1
NỘI DUNG . 3
I.THUẾGIÁ TRỊGIA TĂNG LÀ GÌ ? . 3
1.Nguồn gốc vềthuếGTGT. 3
2.Một sốkhái niệm cơbản. 3
3. Đặc điểm của thuếGTGT. 4
4.Phạm vi áp dụng thuếGTGT. 5
4.1.Đối tượng chịu thuế. 5
4.2. Đối tượng nộp thuếGTGT. 6
4.3 Đối tượng không chịu thuếGTGT. 6
5.Căn cứtính thuế. 6
6. Phương pháp tính thuếGTGT. 7
6.1 Phương pháp khấu trừthuế:. 7
6.2 Phương pháp tính thuếGTGT trực tiếp trên giá trịgia tăng. 8
7.Sựcần thiết của thuếGTGT. 8
II. HOÀN THUẾGTGT . 12
III. NHỮNG TỒN TẠI TRONG VIỆC HOÀN THUẾGTGT . 12
1.Một sốvấn đềchung. 12
2.Hoá đơn, chứng từ. 13
3.Hoàn thuếGTGT đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu (XNK).14
4.Hoàn thuếGTGT đối với hàng nông lâm thuỷsản. 16
5.Tội phạm trong lĩnh vực hoàn thuếGTGT. 17
a) Những con số đáng báo động. 17
b) Những thủ đoạn của bọn tội phạm trong lĩnh vực hoàn thuế
GTGT. 18
IV.HƯỚNG HOÀN THIỆN HOÀN THUẾGTGT. . 20
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7265 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thuế giá trị gia tăng và hoàn thuế giá trị gia tăng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trực tiếp trên GTGT.
6.1 Phương pháp khấu trừ thuế:
a) Đối tượng áp dụng : là các đơn vị, tổ chức kinh doanh, doanh
nghệp thành lập theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Doanh nghiệp,
Luật Hợp Tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các đơn vị, tổ
chức kinh doanh khác trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp
tính thuế trực tiếp trên GTGT.
b) Xác định thuế GTGT phải nộp :
Số thuế
GTGT
phải nộp
=
Thuế
GTGT
đầu ra
-
Thuế
GTGT đầu vào
được khấu trừ
Trong đó:
Thuế
GTGT
đầu ra
= Giá tính thuế của
hàng hoá ,dịch vụ
chịu thuế bán ra
X
Thuế suất thuế
GTGT của hàng hóa ,
dịch vụ đó
Thuế GTGT đầu vào bằng tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn
GTGT mua hàng hoá, dịnh vụ (bao gồm cả tài sản cố định dùng cho sản
8
xuất, kinh doanh hàng hoá, dịnh vụ chịu thuế GTGT ), số thuế GTGT ghi
trên chứng từ nộp thuế của hàng hoá nhập khẩu, hoặc thuế GTGT được khấu
trừ khống đối với các trường hợp theo quy định với các tỷ lệ từ 2% -3% gía
trị hàng hoá mua vào.
6.2 Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng
a) Đối tượng áp dụng: là các cá nhân sản xuất, kinh doanh là người
Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về
kế toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu
trừ thuế.
b) Xác định thuế GTGT phải nộp:
Sốthuế
GTGT
Phải nộp
+=
Giá trị gia tăng của
hàng hoá dịch vụ
chịu thuế
C X Thuế suất thuế
GTGT của hàng hoá ,
dịch vụ đó
GTGT
củahàng hoá
dịch vụ
+ = Doanh số của
hàng hoá, dịch vụ
bán r a
-
Giá vốn của hàng
hoá, dịch vụ
bán ra
7.Sự cần thiết của thuế GTGT
Thuế GTGT khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp của TDT.
Thuế GTGT lẫn TDT đều là những sắc thuế gián thu, đều nhằm mục
tiêu chính là động viên một phần thu nhập của đông đảo người tiêu dùng tạo
nên nguồn thu lớn và ổn định cho NSNN. Nhưng trong nền kinh tế với sự
phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hoá sản xuất
ngày càng cao như hiện này thì TDT với đối tượng tính thuế là toàn bộ
doanh thu không còn thích hợp nữa.
9
Khi phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất chưa phát
triển, từ nguyên liệu thô, qua nhiều công đoạn chế biến để được thành phẩm
hữu ích đến với người tiêu thụ cuối cùng, có thể chỉ do một người hay một
đơn vị sản xuất thực hiện:
Trồn
g lúa và thu
hoạch lúa
Xay
xát gạo
Chế
biến gạo
thành bột gạo
Làm
bánh
Bán bánh
đến tay người tiêu
dùng
(toàn bộ quy trình nói trên do một người/một đơn vị sản xuất thực hiện)
Người bán bánh phải nộp TDT: toàn bộ doanh thu bán bánh x thuế
suất, điều này không làm phát sinh tình trạng thuế chồng lên thuế. Khi phân
công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất phát triển thì mỗi công
đoạn trong quy trình trên sẽ do những người khác nhau đảm trách, thậm chí
giữa những người sản xuất này còn có thể có ít nhất một nhà buôn làm trung
gian. Do đó, TDT được tính trên toàn bộ doanh thu của mỗi ngưòi cũng có
nghĩa là TDT được tính chồng lên TDT của những khâu sản xuất trước đó.
TDT mà mỗi nhà sản xuất kinh doanh phải nộp không phản ảnh được phần
giá trị mới sáng tạo mà họ đóng góp cho xã hội. TDT không khuyến khích
chuyên môn hoá sản xuất, hạn chế sự phát triển phong phú các ngành, nghề,
các loại hình kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Có ý kiến cho rằng, việc tính trùng TDT trong quá trình luân chuyển
hàng hoá nhằm hạn chế nhiều khâu trung gian không cần thiết. Tuy nhiên
thực tế, trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều khâu trung gian cần thiết;
hơn nữa, qua sự đào thải hoặc chấp nhận của thị trường bản thân từng nhà
kinh doanh tự xác định được là họ có cần thiết hay không. Về phía Nhà
nước, có thể hạn chế, điều chỉnh họ bằng một lại thuế nào đó thật rõ ràng,
với thuế suất cao, không cần phải làm cho thuế chồng lên thuế.
Thuế GTGT với đối tượng tính là phần giá trị gia tăng của hàng hoá
qua mỗi khâu sản xuất kinh doanh nên có thể khắc phục tính trùng lắp của
TDT.
10
Thuế GTGT mang tính trung lập về mặt kinh tế. Xét trong nội
bộ nền kinh tế, thuế GTGT, đánh vào người tiêu dùng, không đánh vào
người sản xuất,được áp dụng rộng rãi, có phạm vi đối tượng thu rất rộng
(Thu vào mọi tổ chức, cá nhân người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ) nên có
thể tạo ra nguồn thu ngày càng tăng cho NSNN. Các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh chỉ là khâu trung gian, thu thuế hộ Nhà nước rồi nộp vào KBNN
mà thôi. Đây là đặc điểm“cách mạng”của thuế GTGT nhờ phương pháp
khấu trừ của nó. Ngoài ra, tính trung lập còn được thể hiện trong các nghiệp
vụ chuyển dịch sản phẩm và dịch vụ cũng như đối với việc tập trung thu vào
Ngân sách. Một loại thuế được gọi là trung lập khi nó không nhằm vào hay
không được dẫn tới hậu quả sinh ra một áp lực trên người chịu thuế để họ
phải hoạt động hay không hoạt động theo một hướng đã định.
Thuế GTGT khuyến khích hoạt động xuất khẩu bằng việc áp
dụng thuế suất 0% và được thoái trả lại toàn bộ số thuế GTGT đã thu ở khâu
trước. Đồng thời có tác dụng bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước thông qua
việc đánh thuế vào hàng nhập khẩu (làm tăng giá vốn hàng nhập khẩu)sẽ
kích thích sản xuất trong nước phát triển tạo điều kiện hội nhập vào nền kinh
tế khu vực và kinh tế toàn cầu. Thuế GTGT còn mở rộng thị trường tiêu thụ
sản phẩm hàng hoá, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh, giải quyết nhu
cầu lao động ngày càng tăng của xã hội.
Thuế GTGT thúc đẩy hoạt động đầu tư mở rộng quy mô sản
xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ hiện đại, bởi lẽ thuế GTGT không đánh
vào hoạt động đầu tư tài sản cố định, toàn bộ số thuế GTGT phải trả khi mua
sắm tài sản cố định sẽ được Nhà nước cho khấu trừ hoặc hoàn lại cho doanh
nghiệp.
Thuế GTGT có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước thông qua
việc đánh thuế vào hàng hoá nhập khẩu. Điều này làm tăng khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước, bảo hộ được thị
trường tiêu thụ hàng hoá nội địa, kích thích sản xuất trong nước phát triển,
11
tạo điều kiện hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới khi buộc phải cắt
giảm thuế xuất nhập khẩu, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh
nghiệp nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước.
Khi được triển khai áp dụng, thuế GTGT sẽ góp phần đổi mới
tư duy về cơ chế thu nộp thuế. Đổi mới tư duy là vấn đề khó khăn lâu dài.
Tuy nhiên, nếu được áp dụng đúng, thuế GTGT sẽ phát huy bản chất trung
lập kinh tế, không ảnh hưởng đến kết quả quản lý của các doanh nghiệp. Cơ
chế thu thuế sẽ được đổi thành cơ chế tự động kê khai, nộp thuế, thực hiện
kiểm tra sau. Vấn đề này không được dễ hiểu và áp dụng đúng trong giai
đoạn đầu.
Việc ban hành luật thuế GTGT gắn với việc sửa đổi, bổ sung
luật thuế TTĐB, luật thuế XNK khiến hệ thống thuế của Việt Nam ngày
càng phù hợp với thông lệ quốc tế, cho phép chúng ta nối tiếng nói chung
với các nước trong khu vực và trên thế giới trong lĩnh vực thuế. Khi thuế
GTGT đi vào cuộc sống, các mặt hàng cùng loại sau khi chịu thuế NK sẽ
cùng chịu một mức thuế GTGT như nhau, không phân biệt hàng sản xuất
trong nước hay hàng nhập khẩu. Điều này giúp chúng ta nhìn nhận như một
nước có môi trường kinh doanh bình đẳng. Do vậy, thuế GTGT có tác dụng
thúc đẩy các doanh nghiệp vươn ra thị trường nước ngoài và thu hút vốn đầu
tư nước ngoài cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.
Thuế GTGT hạn chế được việc trốn thuế. Tự cơ chế tính thuế
mang lại cơ hội kiểm soát của cơ quan thuế bởi vì mỗi đơn vị nộp thuế phải
chịu trách nhiệm về số thuế phải nộp theo luật định và chỉ có thể nộp giảm
thuế khi chứng minh được rằng mình cũng đã nộp thuế khi mua các yếu tố
đầu vào. Đương nhiên, để chứng minh được số thuế đã nộp ở khâu trước,
doanh nghiệp phải lưu trữ đầy đủ hoá đơn mua hàng và hoá đơn bán hàng
cho khách hàng. Cơ chế thuế GTGT đòi hỏi các doanh nghiệp để bảo vệ
quyền lợi của mình phải hạch toán rõ ràng chính xác đầy đủ mọi khoản giao
dịch trên hoá đơn. Việc ghi chép sai lầm về kế toán có thể gây thiệt hại cho
12
chính đơn vị nộp thuế nhất là khi đơn vị phải ánh không đầy đủ phần mua
hàng. Do vậy doanh nghiệp phải sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, đổi mới trang
thiết bị, công tác quản lý, củng cố lại công tác kế toán, chú trọng đến việc
mở sổ, ghi chép kế toán, hoá đơn chứng từ. Nhìn bao quát chung do tác
đông tích cực của các luật thuế mới nên nhều doanh nghiệp năm trước bị lỗ
năm sau đã có hiệu quả khá hơn, nộp đủ thuế và có lãi.
Trên đây là một số ưu điểm của thuế GTGT và nhìn chung thuế
GTGT được đánh giá là sắc thuế tiến bộ nhất trong các sắc thuế gián thu.
Tuy vậy, đối với Việt Nam đây là một sắc thuế mới nên việc vận dụng nó
trong thực tiễn kinh doanh chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức đối
với nhà nước, doanh nghiệp cũng như xã hội, đòi hỏi phải có giải pháp thích
hợp khắc phục nhằm phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm của sắc thuế
này.
II. HOÀN THUẾ GTGT
1. Đối tượng và trường hợp được hoàn thuế GTGT.
2. Hồ sơ được hoàn thuế GTGT.
3. Trách nhiệm của đối tượng được hoàn thuế GTGT
4. Thẩm quyền và trình tự giải quyết hoàn thuế GTGT
Được quy định đầy đủ rõ ràng trong luật thuế GTGT, Nghị định số
79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ.
và các thông tư số 122 và 82.
III. NHỮNG TỒN TẠI TRONG VIỆC HOÀN THUẾ GTGT
1.Một số vấn đề chung.
Thủ tục hoàn thuế còn rất phức tạp. Hồ sơ hoàn thuế tưởng chừng rất
đơn giản nhưng đơn vị phải chạy đi chạy lại rất nhiều lần mới có thể hoàn
tất được hồ sơ. Hiện nay tại cục thuế Hà Nội, 1 hồ sơ hoàn thuế phải có đủ 8
chữ kỹ thì mới được thực hiện.
13
Do bản thân các doanh nghiệp chưa hiểu rõ chính sách thuế, trình tự
thủ tục hoàn thuế ...nên phải mất rất nhiều thời gian để hoàn tất các thủ tục.
Chẳng hạn một số DN chưa hiểu rõ chính sách thuế nên đã kê khai khấu trừ
để hoàn thuế đầu vào cả tiền lệ phí, tiền thuê đất, cá biệt có cả DN kê khai
cả thuế NK vào thuế đầu vào để xin khấu trừ.
Do trình độ của một số cán bộ thuế còn hạn chế nên hướng dẫn các
đơn vị chưa đầy đủ, chính xác... vì vậy phải mất nhiều thời gian mới hoàn
tất thuế vị sợ số liệu trong hồ sơ xin hoàn thuế không chính xác(do DN chế
biến số liệu tinh vi, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp ...)
2.Hoá đơn, chứng từ.
Như chúng ta đã biết, các chứng từ, hoá đơn, sổ sách là cơ sở để DN
có thể được hoàn thuế. Chính vì vậy, đối với những DN làm ăn không minh
bạch thì đây là cơ hội để “móc tiền” của NSNN thông qua những hành vi
gian lận như khai khống hoá đơn đầu vào, mua bán bất hợp pháp hoá đơn.
Hiện nay, theo cán bộ ngành thuế cho biết, thị trường mua bán hóa đơn
khống cũng hết sức sôi động và đa dạng bao gồm :
Hoá đơn giả: rất dễ nhận biết qua các công cụ kiểm tra như đèn
chiếu ...
Hóa đơn giả như thật: là hoá đơn thật 100% nhưng bằng con
đường hợp pháp nào đó tuồn ra ngoài hoặc do một số DN giải thể, mất tích
bán ra thị trường.
Hoá đơn thật: là hoá đơn được cung cấp có địa chỉ, có dấu
nhưng khi hoàn thuế phải rà soát đối chiếu kỹ, mà nhân lực và kinh phí có
hạn, nên nhiều khi bị bỏ sót.
Vấn đề này đã làm đau đầu cơ quan thuế hơn bao giờ hết. Trước đây
khi sử dụng thuế DT, sử dụng hoá đơn giả chỉ có thể ăn gian thuế trên số
hàng bán ra, còn bây giờ với hoá đơn giả Nhà nước không những không thu
được một khoản thuế nào mà ngược lại còn phải chi thêm tiền để hoàn thuế.
Bên cạnh đó, việc sử dụng hoá đơn bất hợp pháp tạo ra sự cạnh tranh không
14
lành mạnh giữa các DN. DN nào không trốn thuế được sẽ mất dần sức cạnh
tranh, những cơ sở trốn thuế sẽ có điều kiện hạ giá thành để cạnh tranh, hậu
quả là những đơn vị làm ăn chân chính lại bị thua thiệt, sân chơi giữa các
DN trở nên bất bình đẳng. Nếu tình trạng này không được ngăn chặn và xử
lý kịp thời sẽ làm cho nguồn ngân sách nhà nước bị thâm hụt một khoản rất
lớn và tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta, làm giảm hiệu lực của luật
thuế.
3.Hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu (XNK).
Điều 1 Chương 1 Luật thuế GTGT quy định: “Thuế GTGT là thuế
tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá
trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Đồng thời quy định hàng NK về
đến cửa khẩu là đối tượng chịu thuế GTGT (trừ một số trường hợp đặc biệt)
và giá tính thuế GTGT đối với hàng NK là: “giá nhập tại cửa khẩu cộng với
thuế NK”. Không ai có thể chứng minh được rằng, toàn bộ giá trị của hàng
NK tại cửa khẩu là giá trị tăng thêm của hàng hoá. Song theo luật, việc thu
thuế GTGT tại các cửa khẩu vẫn cứ phải tiến hành. Việc “tiền, hậu bất nhất”
như trên đã được các quan chức ngành Thuế giải thích nhiều, song những lý
giải ấy đã không xuất phát từ các căn cứ khoa học của một sắc thuế mà chỉ
xuất phát từ những ý chí chủ quan. Các DN kinh doanh XNK cũng có ý kiến
rất nhiều về vấn đề này ngay khi luật Thuế GTGT được ban hành. Mặc dù
vậy luật vẫn được thực thi, các DN vẫn phải nộp thuế GTGT ngay tại cửa
khẩu và chờ đợi để được hoàn thuế. Như vậy, rõ ràng là, các DN đã phải
ứng trước một số tiền vào ngân sách nhà nước và chỉ thu lại được khi đã
được hoàn thuế. Từ đó có thể thấy rằng, hoàn thuế GTGT cho các DN là vấn
đề đặc biệt quan trọng.
Thông tư 89/1998/TT-BTC ngày 27/6/1998 của Bộ Tài chính đã quy
định về hồ sơ hoàn thuế GTGT gồm có: Công văn đề nghị hoàn thuế GTGT
đầu vào đã nộp có nêu lý do xin hoàn thuế và số thuế xin hoàn kèm theo.
15
Bảng kê khai tổng hợp số thuế phát sinh đầu ra, số thuế đầu vào được
khấu trừ, số thuế đã nộp, số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra đề nghị
hoàn lại.
Bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra trong kỳ liên quan đến
việc xác định thuế GTGT đầu vào, đầu ra (mẫu số 09/GTGT kèm theo thông
tư này).
Những thủ tục hành chính của việc rút tiền từ ngân sách nhà nước
hoàn lại cho DN như nêu trên là cần thiết. Song, tốc độ của việc hoàn thuế
cho các DN trong thời gian qua lại quá chậm. Theo một nguồn tài liệu đã
công bố, số thuế GTGT của hàng NK dự kiến phải hoàn cho các DN trong
năm 1999 là khoảng 5 ngàn tỷ đồng và đến hết tháng 6/1999, số thuế đã
được xét hoàn mới là 350 tỷ đồng. Điều đó chứng tỏ, các DN đã và đang bị
chiếm dụng một lượng vốn quá lớn. Hậu quả tất yếu là kinh doanh của các
DN bị lỗ vị phải trả lãi tiền vay để nộp thuế GTGT.
Những dẫn chứng điển hình nêu trên cho thấy, các DN nói chung, đặc
biệt là các DN kinh doanh XNK đang gặp khó khăn quá lớn phát sinh từ
việc thực hiện hoàn thuế GTGT. Trong bối cảnh khó khăn về thị trường tiêu
thụ, sản xuất kinh doanh bị giảm sút, những khó khăn trên lại càng nghiêm
trọng hơn. Vì vậy, tìm ra những nguyên nhân để tháo gỡ khó khăn này đang
là nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Vấn đề quan trọng là giải đáp câu hỏi: vì sao
việc hoàn thuế GTGT cho các DN lại rơi vào tình trạng nêu trên. Theo
chúng tôi có những nguyên nhân cơ bản sau:
Một là bản thân việc thu thuế GTGT với hàng hoá nhập khẩu ngay tại
cửa khẩu, khi những hàng hoá này chưa hề có một chút giá trị tăng thêm là
không hề có căn cứ khoa học.
Hại là, ngành Thuế chưa có phương án giải quyết tối ưu, chưa thực sự
xuất phát từ lợi ích của các DN. Nhiều vấn đề trong chỉ đạo thể hiện sự lúng
túng:“chữa cháy” do đó càng gỡ lại càng bí.
16
Ba là việc quản lý hoá đơn, chứng từ còn nhiều sơ hở. Tình trạng gian
lận về hoá đơn chứng từ và hoá đơn giả còn xảy ra rất nghiêm trọng. Công
tác kiểm tra phát hiện còn thủ công, thô sơ vì vậy tốc độ xét giải quyết một
hồ sơ xin hoàn thuế còn quá chậm.
Bốn là dù được quán triệt đến mức nào thì việc hoàn thuế cho DN
cũng là phục hồi cơ chế “xin – cho” vì vậy, sẽ không tránh khỏi những tác
động ngược phát sinh từ cơ chế này. DN bỏ tiền ứng trước nộp thuế vào
ngân sách và ngay sau đó đã ở vị thế “người đi xin”, ngược lại người có
trách nhiệm hoàn thuế cho DN lại ở vị thế “người cho”. Do vậy, nếu những
người trách nhiệm không công tâm thì ảnh hưởng tiêu cực rất lớn đến việc
hoàn thuế.
4.Hoàn thuế GTGT đối với hàng nông lâm thuỷ sản
Trong những năm qua để tạo điều kiện cho kinh tế nông thôn phát
triển, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ và chính sách tài chính khuyến khích
việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá nông nghiệp, đặc biệt là việc
miễn thuế GTGT đầu ra và khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào đối với hàng
nông lâm thuỷ sản.
Thuế GTGT là loại thuế gián thu tính trên giá trị tăng thêm của hàng
hoá, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đén
tiêu dùng hàng hoá. Thuế GTGT được thu trong tất cả các khâu của quá
trình sản xuất, lưu thông và được nộp vào NSNN dựa trên cơ sở giá trị tăng
thêm của mỗi khâu và không đánh vào phần giá trị đã chịu thuế ở khâu
trước. Vì vậy, nguyên tắc cơ bản của thuế GTGT là “đầu ra” chịu thuế thì
“đầu vào” mới được khấu trừ. Như vậy, về mặt nguyên tắc, DN khi mua
hàng nông, lâm, thuỷ sản về sản xuất, chế biến không được khấu trừ thuế
GTGT“đầu vào“ vì mặt hàng này “đầu vào” được miễn thuế. Nhưng để
khuyến khích các cơ sở sản xuất chế biến hàng nông lâm thuỷ sản, Nhà
nước đã áp dụng biện pháp gián tiếp cho khấu trừ khống thuế GTGT đầu
vào với tỉ lệ 1% đối với hàng hoá là đối với hàng nông lâm thuỷ sản (thông
17
tư số 82/2002/TT/BTC ngày 18/9/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn sửa đổi,
bổ sung một số nội dung của Thông tư số 122/2000/TT/BTC ngày
29/12/2000.)
Chưa qua chế biến khi mua của người bán không có hoá đơn, không
phân biệt kinh doanh trong nước hay xuất khẩu (theo quy định tại Tiết b
Điểm 1 mục III Thông tư 122/2000/TT/BTC hướng dẫn thi hành Nghị Định
79/2000/NĐ-CP của Chính Phủ. Điều này đã tạo điều kiện hỗ trợ giá, giảm
bớt chi phí, tăng sức cạnh tranh, từng bước hội nhập thị trường khu vực và
thế giới cho các cơ sở sản xuất chế biến, đặc biệt đối với các doanh nghiệp
sản xuất chế biến hàng đối với hàng nông, lâm, thuỷ sản xuất khẩu.
Tuy nhiên, có không ít DN lợi dụng chính sách này, tìm cách kê khai
gian lận tăng thuế GTGT khấu trừ khống để nộp thuế GTGT thấp hoặc
chiếm dụng của NSNN thông qua việc hoàn thuế GTGT đồng thời tăng chi
phí sản xuất kinh doanh, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp gây thất
thu cho NSNN cả về thuế gián thu (thuế GTGT ) và thuế trực thu (thuế
TNDN).
5.Tội phạm trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT
Luật thuế GTGT mới ra đời và có hiệu lực trong vòng ba năm, bên
cạnh những ưu việt không thể phủ nhận trong việc huy động các đơn vị, cá
nhân tích cực đóng góp vào nhân sách Nhà nước, thì trong quá trình thực
hiện luật thuế này cũng đã và đang bộc lộ những tiêu cực đáng báo động.
Hàng loạt các doanh nghiệp, cá nhân lợi dụng chính sách hoàn thuế GTGT
để lập hồ sơ khống “rút ruột” Ngân sách nhà nước hàng trăm tỷ đồng.
a) Những con số đáng báo động
Nếu như năm 1999, (năm đầu tiên thực hiện Luật Thuế GTGT), lực
lượng công an trong cả nước mới chỉ phát hiện 3 vụ vi phạm, trong đó có
một vụ lớn nhất với số tiền chiếm đoạt 7,2 tỷ đồng; năm 2000 phát hiện 17
vụ thì năm 2001đã phát hiện 64 vụ và 6 tháng đầu năm 2002 đã xảy ra 22
vụ, trong đó có nhiều vụ chiếm đoạt từ 10 đến 20 tỷ đồng ....thậm chí có
18
doanh nghiệp năm 2000 đã vi phạm, nay lại tái phạm với số tiền chiếm đoạt
lớn hơn nhiều.
Ngành thuế đã phải xác nhận trong ba năm thực hiện Luật Thuế
GTGT, cả nước có 23799 bộ hồ sơ xin hoàn thuế GTGT với tổng số tiền xin
hoàn là 15600 tỷ đồng, đã giải quyết 20347 bộ hồ sơ của 12567 doanh
nghiệp với số thuế đã hoàn 14530 tỷ đồng. Năm 2001, Tổng cục Thuế kiểm
tra điểm 1262 doanh nghiệp, phát hiện 493 đơn vị vi phạm quy định về hoàn
thuế GTGT đã thu về ngân sách Nhà nước 39,9 tỷ đồng ...Nhưng những con
số thống kê của lực lượng công an trong cả nước mới làm dư luận ngỡ
ngàng. Tính đến tháng 5/2002 đã phát hiện 160 vụ vi phạm về hoàn thuế
GTGT, với doanh số xuất khẩu khống hơn 2000 tỷ đồng, tổng số tiền bị
chiếm đoạt khoảng 300 tỷ đồng, đã khởi tố 29 vụ và đang tiếp tục điều tra
46 vụ.
Có quá nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng đáng lo ngại này. Công
tác quản lý nhà nước của các ngành chức năng còn nhiều sơ hở, nhất là
trong các văn bản pháp luật hướng dẫn việc hoàn thuế GTGT trong công tác
kiểm tra, kiểm soát. Luật Doanh nghiệp “quá thoáng”, như chưa tạo cơ chế
ràng buộc pháp nhân với thể nhân; gắn trách nhiệm cá nhân với pháp nhân,
trách nhiệm của tổ chức cấp giấy đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận
thành lập doanh nghiệp ...Từ đó nhiều cá nhân đứng ra thành lập doanh
nghiệp “ma” không nhằm mục đích kinh doanh mà chỉ để mua bán hoá đơn
GTGT, tiếp tay hoặc trực tiếp làm hồ sơ khống để “móc túi” ngân sách Nhà
nước. Luật Doanh nghiệp không đặt ra quy định phải xác nhận lý lịch tư
pháp nên một số đối tượng hình sự, nghiện ngập bị cấm kinh doanh cũng có
thể dễ dàng thành lập một doanh nghiệp “ma”, đăng ký mã số thuế, mua vài
cuốn hoá đơn GTGT rồi biến mất một cách khó hiểu....Tất cả những sơ hở
trên đã và đang tạo nên một mảnh đất màu mỡ cho bọn tội phạm trong lĩnh
vực hoàn thuế GTGT sinh sôi và phát triển đến mức đáng báo động đỏ.
b) Những thủ đoạn của bọn tội phạm trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT.
19
Theo nhận định của Bộ Công an thực trạng vị phạm trong lĩnh vực
hoàn thuế GTGT ngày càng diễn biến phức tạp, với nhiều thủ đoạn tinh vi,
sảo quyệt hơn. Tình trạng này đang làm cho hoạt động XNK bị lệch lạc, tiền
hoàn thuế của Nhà nước không đến đúng địa chỉ mà rơi vào tay các tổ chức
và cá nhân phạm tội; làm cho chính sách hoàn thuế không được thực thi một
cách hiệu quả, cũng như không khuyến khích được các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh đúng pháp luật.
Bọn tội phạm thường tạo dựng nguồn hàng khống bằng cách kê khai
các điểm mua hàng không có thật, không rõ địa chỉ, trôi nổi; lập hợp đồng
mua bán nội địa khống với các phương thức thanh toán trực tiếp, không qua
ngân hàng, hợp thức hoá việc mua bán này bằng các hợp đồng chứng từ mua
bán giả gồm nhiều cung đoạn, qua nhiều doanh nghiệp. Tạo dựng nguồn tiền
mua hàng xuất khẩu bằng cách lập ra các hợp đồng vay tiền khống. Làm giả
hợp đồng vận chuyển, thanh toán cước vận chuyển hàng hoá trong nội địa
và ra cửa khẩu; tạo dựng hợp đồng mua bán ngoại thương và thanh toán trực
tiếp giả; quay vòng hàng nông sản ...
Nghiêm trọng hơn, bọn tội phạm còn móc nối với một số cán bộ hải
quan cửa khẩu để xác nhận khống bộ hồ sơ xuất khẩu (như vụ Hải quan Cửa
khẩu Tân Thanh, Lạng Sơn) khai tăng giá và khối lượng, giá trị hàng xuất
khẩu, bố trí hàng thật trên hàng giả hoặc chỉ có một xe hàng nhưng có đến 5-
7 doanh nghiệp nhận là hàng của mình.
Thực tế cho thấy, bọn tội phạm đã lập ra các đường dây gồm một số
cá nhân, chi nhánh, văn phòng công ty chuyên làm dịch vụ hoàn thuế GTGT
bằng hồ sơ giả với tỷ lệ ăn chia 40-60% tuỳ thoả thuận, khi bị phát hiện lập
tức giải tán doanh nghệp, đốt sổ sách để phi tang.
Dù đã thống kê được những thủ đoạn phương thức, thủ đoạn cũng
như “điểm huyệt“ được những trò phù thuỷ của bọn tội phạm chuyên lập hồ
sơ khống xin hoàn thuế GTGT, rút tuột ngân sách Nhà nước, nhưng dường
như các cơ quan chức năng vẫn đang trĩu nặng âu lo về diễn biến phức tạp
20
của loại tội phạm này. Ngân sách Nhà nước đã bị “móc túi” hơn 300 tỷ đồng
kể từ ngày chính sách hoàn thuế GTGT ra đời và không cơ quan quản lý nào
dám bảo đảm tương lai con số ấy sẽ không tăng lên gấp nhiều lần.
IV.HƯỚNG HOÀN THIỆN HOÀN THUẾ GTGT.
1.Hoá đơn sổ sách kế toán là căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xác
định được doanh thu, tiền thuế đầu ra, đầu vào phục vụ việc tính thuế, kê
khai thuế chính xác và cung cấp tài liệu cho công tác kiểm tra thanh tra của
cơ quan thuế. Cần phải kiên quyết chống việc sử dụng hoá đơn giả. Để phát
hiện hoá đơn giả ngoài việc dùng kỹ thuật đèn chiếu, đòi hỏi phải nhanh
chóng hoàn thiện việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý
các hoá đơn do Bộ Tài chính phát hành và mã số đăng ký thuế của các đơn
vị kinh doanh. Khi bán hoá đơn cho mã số nào, sẽ đưa ký hiệu hoá đơn đó
vào trong máy vi tính. Trước tình trạng hoá đơn bất hợp pháp lưu hành trên
phạm vi cả nước thì việc kết nối mạng vi tính thông suốt, hữu hiệu, nhanh
nhạy giữa 61 tỉnh thành phố đang là một đòi hỏi bức bách. Trước mắt, do
hạn chế về kinh phí, chúng ta có thể nối mạng vi tính giữa Tổng cục Thuế
với một số cục thuế của các tỉnh và thành phố lớn trước sau đó tiến tới nối
mạng vi tính giữa tất cả các cục thuế trong toàn quốc. Phương pháp sử dụng
công nghệ thông tin sẽ giúp kiểm soát hoá đơn bất hợp pháp nhanh hơn
nhiều lần so với phương pháp thủ công, giúp phần ngăn chặn những loại hoá
đơn này lưu hành trên thị trường, gây thất thu cho NSNN.
Mặt khác các DN phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hoá đơn, kế
toán tạo thành thói quen bán hàng xuất hoá đơn, mua hàng đòi hoá đơn theo
đúng quy định của Bộ Tài chính. Phải làm cho DN thấy việc đi mua hoá đơn
của người khác, mua lầm hoá đơn gi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thuế giá trị gia tăng và hoàn thuế giá trị gia tăng.PDF