Mục lục
STT Nội dung Trang
1 A. Phần nói đầu 2
2 B. Phần nội dung 4
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP, PHƯƠNG PHÁP LUẬN
1. Những vấn đề về Phương pháp
2. Phương pháp luận
II. NHỮNG NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN CHỈ ĐẠO VIỆC NGHIÊN CỨU NGÔN NGỮ HỒ CHÍ MINH
1. Dựa hẳn vào sự phát triển của ngôn ngữ học thế giới và Việt Nam để xác định đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu, đánh giá ngôn ngữ Hồ Chí Minh
2. Vận dụng phép biện chứng duy vật một cách thích hợp
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU NGÔN NGỮ HỒ CHÍ MINH
1. Xác định phạm vi của đối tượng nghiên cứu – phạm vi của ngôn ngữ Hồ Chí Minh
2. Tìm hiểu tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh đối với ngôn ngữ
3. Tổng kết đánh giá lại các công trình, các kết quả nghiên cứu trước đây về ngôn ngữ Hồ Chí Minh
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2061 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu một số phương pháp cơ bản trong việc nghiên cứu ngôn ngữ Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vực hoạt động của con người, từ lao động sản xuất đến nghiên cứu khoa học hay sáng tạo văn học nghệ thuật, từ những hoạt đọng chinh phục tư nhiên đến đấu tranh xã hội, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa, giáo dục… vấn đề phương pháp bao giờ cũng được đặt ra để lựa chọn, sử dụng nhằm thực hiện những ý tưởng, những mục tiêu đã định. Trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới, loài người đã sáng tạo ra rất nhiều phương pháp, bởi vì nhận thức và cải tạo thế giới chỉ có thể thực hiện được bằng những phương pháp nhất định.
Chính quá trình nhận thức và cải tạo ấy lại kiểm nghiêm phương pháp nào là đúng, phương pháp nào là sai, chỉ có phương pháp đúng đắng mới giúp cho con người có được những tư tưởng đúng đắn và thực hiện hóa những tư tưởng đúng đắn ấy trong đời sống của con người và xã hội, trong thực tiễn cải tạo thế giới khách quan. Từ đó đem lại sự phát triển không ngừng của khoa học tự nhiên. Phương pháp đúng đắn là công cụ để nhận thức thế giới ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn và cải tạo thế giới ngày càng hiệu quả hơn theo những quy luật khách quan của nó.
Vậy, phương pháp là gì? Từ trước đến nay đã có nhiều định nghĩa về phương pháp. Không ít người đã cho rằng phương pháp chỉ là sản phẩm thuần túy của tư duy, xuất phát hoàn toàn từ ý muốn chủ quan của con người, chỉ là những gì thuộc về chủ thể nhận thức và cải tạo thế giới khách quan… nhưng phương pháp mà con người tìm kiếm, lựa chọn, sử dụng lại nhất thiết phải xuất phát từ cơ sở khách quan đó chứ không thể khác được.
Phương pháp được con người xác định không có mục đích tự thân, không có phương pháp vì phương pháp, mà bao giờ cũng là nhằm tác động vào những đối tượng, khách thể nhất định. Chính mục tiêu tác động vào đối tượng, khách thể đã đòi hỏi con người tìm kiếm, lựa chọn sử dụng phương pháp đúng đắn, phù hợp. Sự phù hợp của hai mặt chủ quan và khách quan là điều kiện quyết định để có được phương pháp đúng đắn, khoa học và phương pháp sẽ là sai lầm nếu nó chỉ là kết quả của sự tìm kiếm chủ quan. N.K. Crupxcaia đã hoàn toàn có lý khi nêu ra luận điểm: Phương pháp, nếu được đặt ra một cách đúng đắn phải xuất phát từ chính bản thân đối tượng, dựa trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của lĩnh vực kiến thức ấy( N.K.Crupxcaia: Bàn về công tác huấn luyện, Mátxcơva, 1946, tr156
).
Nhà bác học nổi tiếng T. Páplốp đã đưa ra định nghĩa: phương pháp khoa học – đó là quy luật bên trong của sự vận động của tư duy con người xem như quy luật khách quan đã được “cấy lại” và “chuyển hóa” vào trong ý thức con người và được sử dụng một cách tự giác, có kế hoạch như công cụ để giải thích và biến đổi thế giới. “Phương pháp khoa học là những quy luật bản chất nội tại của vận động nhận thức khoa học được chúng ta sử dụng một cách có ý thức để đạt đến những thành tựu chân lý đúng đắn hơn, nhanh chóng hơn, đầy đủ hơn” ( T. Páplốp: Thuyết phản ánh, Mátxcơva, 1968, tr401
).
Từ những hoạt động hết sức đa dạng của con người, từ những chỉ dẫn của các nhà kinh điển mácxít, từ những kiến thức về phương pháp mà nhiều người đã đưa ra, có thể rút ra một số kết luận sau đây:
Hoạt động của con người trong bất cứ lĩnh vực nào đều là hoạt động có mục đích nhất định. Phương pháp chính là cách thức giúp cho con người định hướng và điểu chỉnh hoạt động để đi tới mục đích đó.
Cơ sở và cũng là điểm xuất phát của phương pháp phải là đối tượng, khách thể mà con người tác động bằng hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi đối tượng, khách thể ấy, chứ hoàn toàn không phải tư duy biện chứng của mình. Vì vậy, phải hiểu rõ đối tượng, khách thể với quy luật khách quan quy định sự tồn tại và vận động của nó, con người mới tìm được phương pháp đúng đắn, thích hợp để tác động vào đối tượng, khách thể có hiệu quả.
Phương pháp là cách thức, với tính chất là quy luật vận động nội tại của tư duy, phản ánh quy luật vận động của đối tượng, khách thể của thế giới khách quan, được con người sử dụng có ý thức.
Có phương pháp đúng đắn và phương pháp sai lầm, phương pháp đúng đắn còn được gọi là phương pháp khoa học.
Từ những nội dung được trình bày ở trên, có thể xác định:
Phương pháp là toàn bộ những cách thức với tính chất là một hệ thống các nguyên tắc xuất phát từ những quy luật tồn tại và vận động của đối tượng, khách thể đã được nhận thức, để định hướng và điều chỉnh hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người, nhằm tác động vào đối tượng, khách thể để thực hiện mục đích đã định.
2. Phương pháp luận
Phương pháp luận là phương thức luận giải, khái quát, lựa chọn và vận dụng các phương pháp, bảo đảm cho sự thiết lập mối quan hệ hài hòa giữ lý luận và phương pháp, giữa khách thể và chủ thể nghiên cứu. Do đó, cũng có thể nói phương pháp luận là cầu nối giữa lý luận và phương pháp. Đó là mối quan hệ ba chiều: giữa nhận thức về đối tượng nghiên cứu (lý luận) với công cụ tác động vào đối tượng (phương pháp) và những nguyên tắc lý thuyết giữ vai trò điểu chỉnh, giúp cho quá trình tấc động của công cụ vào đối tượng đạt kết quả tối ưu (phương pháp luận)…
Phương pháp luận nghiên cứu Hồ Chí Minh về cơ bản là thuộc phạm trù phương pháp luận của các khoa học xã hội. Các khoa học xã hội có cơ sở phương pháp luận chung cho nhận thức và hoạt động của nó là triết học Mác – Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử). Phương pháp luận nghiên cứu Hồ Chí Minh tất nhiên có vận dụng những nguyên tắc phương pháp luận của các khoa học xã hội như các nguyên tắc tính khách quan khoa học, tính toàn diện, tính hệ thống, nguyên tắc chủ nghĩa lịch sử… song không đồng nhất với nó.
Mặt khác, phương pháp luận nghiên cứu Hồ Chí minh, trong hệ thống cấu tạo các cấp độ của nó, cũng bao gồm sự vận dụng phương pháp luận của các khoa học cụ thể, chuyên biệt vào việc nghiên cứu từng lĩnh vực khác nhau trong di sản của Hồ Chí Minh, nhưng không phải là sự cộng lại giản đơn của các phương pháp đó…
Như vậy, nghiên cứu về Hồ Chí Minh phải biết vận dụng thấu đáo và nhuần nhuyễn những nguyên tắc, phương pháp luận chung của khoa học xã hội. Song, sự nghiệp nghiên cứu khoa học về Hồ Chí Minh chỉ có thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình, nếu nó biết xuất phát từ chính bản thân đối tượng và xây dựng được những nguyên tắc, phương pháp luận cụ thể trên cơ sở lý thuyết về đối tượng đó.
Tiểu sử - sự nghiệp – tư tưởng – lý luận… của Hồ Chí Minh đó là đối tượng nghiên cứu của chúng ta, một đối tượng có thể nói là đa dạng và phong phú bao gồm trong đó những vấn đề không phải chỉ thuộc về một khoa học mà của nhiều khoa học, không phải chỉ gồm một hệ thống mà nhiều hệ thống. Người vừa là một trong những tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa là người khai sinh cho một thời đại mới trong lịch sử dân tộc – thời đại Hồ Chí Minh. Người vừa là nhà tư tưởng, nhà lý luận cách mạng, vừa là người tổ chức, vị chỉ huy của cách mạng; vừa là chiến sĩ tiên phong của phong trào giải phóng dân tộc, vừa là nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vừa là nhà Chiến lược quân sự, nhà chính trị, nhà ngoại giao tài giỏi; vừa là nhà văn, nhà thơ, nhà báo xuất sắc…
Trên thực tế, sự nghiệp nghiên cứu về Hồ Chí Minh ở nước ta đang phát triển như một chuyên ngành nghiên cứu cụ thể, có tổ chức nghiên cứu với những mục đích và nhiệm vụ xác định, có đối tượng nghiên cứu xác định. Phương pháp luận nghiên cứu về Hồ Chí Minh phải xác lập được những nguyên tắc phương pháp luận của mình để giúp nhà nghiên cứu chiếm lĩnh được đối tượng về phương diện lý thuyết cũng như phương diện thực hành. Trên cơ sở đó hoàn thành được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra.
II. NHỮNG NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN CHỈ ĐẠO VIỆC NGHIÊN CỨU NGÔN NGỮ HỒ CHÍ MINH
1. Dựa hẳn vào sự phát triển của ngôn ngữ học thế giới và Việt Nam để xác định đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu, đánh giá ngôn ngữ Hồ Chí Minh
Nếu như trước đây việc nghiên cứu ngôn ngữ chủ yếu là hướng vào cấu trúc - nội tại của bản thân ngôn ngữ thì ngôn ngữ học hiện nay, một mặt vẫn nhằm vào cấu trúc mặt khác đã hướng vào hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Theo hướng này, ngôn ngữ được đặt trở lại trong lòng cái nôi đã sản sinh ra nó là xã hội cùng với các quan hệ tâm lý, ngôn ngữ, xã hội – ngôn ngữ, văn hóa – ngôn ngữ, dân tộc – ngôn ngữ, người sử dụng (nói và viết) – ngôn ngữ… đã có rất nhiều phát hiện mới mẻ, đầy hiệu lực và hấp dẫn, giúp chúng ta hiểu ngôn ngữ hơn và hiểu chính chúng ta hơn – chúng ta trong tư cách là người dùng ngôn ngữ. Chịu ảnh hưởng của khuynh hướng cấu trúc, các công trình viết về ngôn ngữ Hồ Chí Minh đã công bố thường mới nêu ra những đặc điểm của những đơn vị riêng rẽ như từ, ngôn ngữ cố định, câu và kiểu câu… trong ngôn ngữ Hồ Chí Minh, còn ít những bài viết về toàn bộ các văn bản, lối giải thích, lối trình bày sự kiện…
2. Vận dụng phép biện chứng duy vật một cách thích hợp
Phép biện chứng duy vật đã chứng tỏ hiệu lực phương pháp luận không thể chối của nó trong nghiên cứu khoa học, đặc biệt trong các khoa học xã hội và nhân văn. Tuy nhiên, vì mỗi ngành khoa học một khác, đối tượng nghiên cứu mỗi ngành một khác cho nên phải xác định cho được cách vận dụng và các phạm trù của phép biện chứng duy vật sao cho thích hợp với từng ngành, từng đối tượng nghiên cứu. Không thể có được một mô thức vận dụng nó chung cho tất cả các ngành. Vận dụng phép biện chứng duy vật vào nghiên cứu ngôn ngữ Hồ Chí Minh cần chú ý các nguyên tắc sau:
Thứ nhất; Nguyên tắc hệ thống. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng hàng đầu khia vận dụng phép biện chứng duy vật vào nghiên cứu ngôn ngữ Hồ Chí Minh. Theo nguyên tắc này phải xác lập cho được các mặt cấu thành ngôn ngữ Hồ Chí Minh và quan hệ quy định lẫn nhau giữa các mặt đó. Có thể nghiên cứu từng mặt một cách riêng rẽ như nghiên cứu câu, nghiên cứu từ ngữ, thậm chí nghiên cứu từng yếu tố nhỏ hơn: ngữ cố định, tính nhạc trong văn xuôi… nhưng tránh tình trạng thường gặp là rút ra kết luận về một đặc điểm nào đó từ sự nghiên cứu các mặt một cách cô lập.
Ví dụ, tính giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ… vốn là đặc điểm nổi bật nhất của ngôn ngữ Hồ Chí Minh, không phải là đặc điểm riêng về dùng từ, về đặt câu, mà là kết quả tổng hòa của từ, của câu, của cấu trúc văn bản, của cách phân đoạn văn bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phát hiện ra tính chất của từng mặt một là cần, nhưng chưa đủ để đi đến một kết luận khái quát nào đó về ngôn ngữ Hồ Chí Minh, mà chúng ta còn cần phải lưu ý phát hiện ra sự tác động, quy định và điều chỉnh lẫn nhau giữa từng đặc điểm khái quát.
Ví dụ, trong ngôn ngữ Hồ Chí Minh, ngoài tính giản dị, dễ hiểu, các nhà nghiên cứu còn nói tới tính sâu sắc, hàm nghĩa bao quát, tính dân tộc, tính hiện đại… Những tính chất đó không phải bao giờ cũng đi đôi với nhau. Những kết luận kiểu như “ngôn ngữ của Bác giản dị, dễ hiểu nhưng cao sâu, vừa có tính dân tộc đậm đà, vừa có tính hiện đại rõ rệt… chưa thể xem là những kết luận đủ sức thuyết phục. Đó mới chỉ là sự liệt kê đặc điểm chứ chưa phải là sự lý giải chúng. Vấn đề là ở chỗ Người đã làm thế nào phối hợp được các đặc điểm đó một cách nhuần nhuyễn, một cách rất Hồ Chí Minh, trong bất cứ văn bản nào, nói về bất cứ vấn đề gì.
Thứ hai; Nguyên tắc vận động. Khi tiến hành nghiên cứu ngôn ngữ của một dân tộc hay nghiên cứu đặc ngữ cá nhân có thể tiến hành theo nguyên tác tĩnh – đây là nguyên tắc đặc trưng cho ngôn ngữ học thời kỳ chủ nghĩa cấu trúc – tĩnh đang thịnh hành. Theo nguyên tắc này, người nghiên cứu xem đối tượng như là một sản phẩm tĩnh, cô lập với các nhân tố bên ngoài là động lực sản sinh ra nó, từ những sản phẩm đó mà thực hiện sự thống kê, phân loại để đi đến kết luận về những giá trị, đặc điểm của chúng. Ngoài ra, cũng cần đưa vận động vào quan điểm hệ thống, vào quan điểm cấu trúc – tĩnh. Cần vận dụng quan điểm hệ thống – động, cấu trúc – động vào nghiên cứu ngôn ngữ.
Nghiên cứu ngôn ngữ Hồ Chí Minh tự khắc phải đề cập tới hai lĩnh vực: ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam – tiếng Việt - như là sản phẩm chung của nước Việt Nam và ngôn ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh như là sự vận dụng cái tiếng Việt có tính khách quan, nó là một khách thể. Với tư cách là ngôn ngữ của dân tộc, tiếng Việt có tính khách quan, nó là một khách thể. Với tư cách là sản phẩm của sự vận dụng riêng của một cá nhân, ngôn ngữ Hồ Chí Minh có tính chủ quan, nó là một chủ thể. Ngôn ngữ của dân tộc (tiếng Việt) tồn tại trong Hồ Chí Minh, được Người vận dụng trở thành ngôn ngữ của chủ thể, ngôn ngữ cá nhân. Hai thứ ngôn ngữ này không đồng nhất với nhau, bởi có sự chuyển hóa từ ngôn ngữ của dân tộc thành ngôn ngữ của chủ thể…
Có điều nếu như ở những người bình thường, ngôn ngữ cá thể chỉ là sự vận dụng nghèo nàn không đầy đủ ngôn ngữ của dân tộc thì ở những vĩ nhân như Hồ Chí Minh, ngôn ngữ chủ thể là một cái gì khác, vừa là ngôn ngữ dân tộc, vừa là những cái mới, sáng tạo… Việc phát hiện ra cái độ chênh sáng tạo này giữa tiếng Việt và ngôn ngữ Hồ Chí Minh sẽ góp phần phát hiện ra con người Hồ Chí Minh trong ngôn ngữ.
Nói đến sự chuyển hóa ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ cá thể là nói đến kết quả của hoạt động thực hiện chức năng của tiếng Việt. Còn một mặt nữa trong hoạt động của tiếng Việt là sự phát triển của nó trong trục dọc thời gian, có nghĩa cần triệt để nắm vững nguyên tắc lịch sử khi nghiên cứu ngôn ngữ Hồ Chí Minh.
Ở nước ta hiện nay đang trong quá trình đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tiếng việt hiện nay cũng đang đổi mới trong cái quá trình chung đó. Từ tiếng Việt hiện nay, nhìn lại ngôn ngữ Hồ Chí Minh, chúng ta sẽ đánh giá được đúng sự đóng góp của Người đối với tiếng Việt.
Bên cạnh đó, cần lưu ý Hồ Chí Minh cũng như C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin không phải là nhà ngôn ngữ học, các vị ấy đều xuất phát từ học thuyết mácxit, xuất phát từ nhiệm vụ chính trị - lịch sử của giai cấp vô sản, đồng thời cũng xuất phát từ chủ nghĩa nhân văn vô sản mà nhìn vào ngôn ngữ của các dân tộc nói chung và của ngôn ngữ của một dân tộc nói riêng. Những ý kiến của các vị về ngôn ngữ có thể là những chân lý ngôn ngữ học phổ biến nhưng cũng chỉ hạn chế trong một lĩnh vực nào đó của hoạt động ngôn ngữ. Cần tránh khuynh hướng tuyệt đối hóa, cực đoan hóa ý kiến của cá nhân lãnh tụ.
Ví dụ, Lênin nói: ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất, điều đó đúng, nhưng không có nghĩa giao tiếp chỉ là chức năng duy nhất của ngôn ngữ, và cũng cần tìm hiểu thực tế sử dụng tiếng Nga của Lênin mà rút ra quan điểm của Người về giao tiếp là như thế nào…. Khuynh hướng cực đoan hóa dễ tuyệt đối hóa một ý kiến nào đó của các lãnh tụ theo một cách giải thích hạn hẹp của người nghiên cứu, khiến bị rơi vào phiến diện, không phát hiện được hết những phương diện khác, những chức năng khác của ngôn ngữ nằm ngay trong việc sử dụng ngôn ngữ của các vị…
Như vậy, thông qua phần trình bày ở trên, ta thấy được những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản trong chỉ đạo việc nghiên cứu ngôn ngữ Hồ Chí Minh. Điều đó đã khẳng định việc nghiên cứu ngôn ngữ Hồ Chí Minh không thể không sử dụng hai nguyên tắc phương pháp luận nêu trên. Thực hiện tốt những nguyên tắc này trong quá trình nghiên cứu sẽ đem lại kết quả cao, chính xác và đúng đắn hơn.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU NGÔN NGỮ HỒ CHÍ MINH
1. Xác định phạm vi của đối tượng nghiên cứu – phạm vi của ngôn ngữ Hồ Chí Minh
Thực tế cho thấy, phạm vi của ngôn ngữ Hồ Chí Minh rất đa dạng, phong phú, nhưng chủ yếu tập trung ở mây vấn đề sau:
Thứ nhất; Những văn bản viết và nói mà Hồ Chí Minh đã tạo ta trong suốt cuộc sống và hoạt động của Người. Những văn bản viết tương đối dễ xác định, nhưng những lời nói, những câu nói, khó tìm hơn, mặc dù có những trường hợp lời nói được ghi âm, nhưng rất ít. Còn đa số những trường hợp nói trong các cuộc giao tiếp, trong công tác, trong đời sống thường ngày… thì hầu như không thể tìm ra nguyên văn được nữa. Trong trường hợp này chỉ trông đợi vào hồi ký của những người được tiếp xúc với Người trong các hoạt động nói trên. Ví dụ: hồi ký Theo chân Bác của Hoàng Đạo Thúy đã ghi lại được lời nói của Hồ Chí Minh lúc làm việc, lúc giải trí với những người cộng sự cực kỳ hóm hỉnh, nhanh nhạy, đầy tính chiến đấu – Người luôn luôn dành phần chủ động trong mọi tình huống…
Việc tìm kiếm, thu thập những lời nói của Bác là việc làm rất khó khăn. Nhưng cho dù là khó khăn đến đâu, mảng tư liệu này cũng không được bỏ qua.
Thứ hai; trong các văn bản viết của Hồ Chí Minh, bộ phận bằng ngoại ngữ cần phải sưu tầm đầy đủ và xem xét riêng. Nghiên cứu các văn bản này không phải để tìm hiểu trình độ ngoại ngữ của Người như thế nào mà là để tìm hiểu tư tưởng cũng như quan điểm của Người về ngôn ngữ thể hiện trong các văn bản đó. Tuy nhiên, do chỗ Người viết văn bản bằng ngoại ngữ tùy thuộc vào thời gian, vào hoàn cảnh xã hội, vào sự quy định của ngoại ngữ mà Người dùng, cho nên các văn bản của ngôn ngữ Hồ Chí Minh bằng tiếng nước ngoài không đồng nhất với các văn bản bằng tiếng Việt. Nhưng con người – chủ thể của các văn bản viết bằng tiếng nước ngoài và tiếng Việt vẫn là một, nên vẫn tìm được cái chung giữa các văn bản thuộc các ngôn ngữ khác nhau.
Ví dụ: Lối viết trong cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp rất gần lối viết các tiểu phẩm ký tên CB, ĐX, TL… bằng tiếng Việt sau này.
Thứ ba; Đối với các văn bản bằng tiếng Việt cần hết sức chú ý đến các bản thảo gốc, trong đó Người tự chữa văn của mình hay chữa bản thảo của những người giúp việc viết trình Bác. Thông qua sự sửa chữa đó, dễ dàng tìm ra được cách nghĩ của Bác đối với từ ngữ, đối với câu văn. Đặc biệt là các bản Người chữa văn của người dự thảo trình lên. Điều đó thấy rõ, khi văn phòng ghi trong lịch làm việc hàng tuần: Ông K và LMK thảo bài phát thanh và đưa Chính phủ duyệt trước. Bác không đồng ý với cách viết đó, Người đã ghi nhận xét: “nói thế không nhã. Ra cách mình kiểm duyệt. Phải sửa chữa câu ấy lại”. “Rồi tự tay Bác sửa: “Ông K. và L.M.K thảo bài phát thanh và đưa cho Văn phòng Chủ tịch”” ( Xem: Bùi Khắc Việt: Suy nghĩ về phong cách ngôn ngữ của Bác qua các bản thảo trong Học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, H, 1890
).
Thông qua một ví dụ rất nhỏ. Cụ thể là thông qua cách sửa chữa đó ta thấy rõ tư tưởng, quan điểm, lòng nhân ái và cả sự nhạy bén về chính trị của Người trong ngôn ngữ. Đặc biệt, thông qua ví dụ này ta còn thấy được Bác rất chú ý không chỉ nội dung, mà cả thái độ, cả quan hệ giữa người với người trong ngôn ngữ.
2. Tìm hiểu tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh đối với ngôn ngữ
Đây là một trong những phương pháp quan trọng khi nghiên cứu ngôn ngữ Hồ Chí Minh, vì thế người nghiên cứu cần tập hợp cho được tất cả những điều Người đã viết, nói một cách hiển ngôn về ngôn ngữ. Những điều Người đã phát biểu về ngôn ngữ có thể phân thành từng khía cạnh:
Thứ nhất; Tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh về ngôn ngữ nói chung
Thứ hai; Tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh về tiếng Việt và về ngôn ngữ của các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam.
Thứ ba; Tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh đối với việc phát huy vai trò của các ngôn ngữ đó (bao gồm cả các chính sách đó của Đảng và Nhà nước đã được ban hành, thực hiện dưới ảnh hưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh về ngôn ngữ).
Thứ tư; Quan niệm của Hồ Chí Minh về việc sử dụng ngôn ngữ, chủ yếu bằng tiếng Việt. Những yêu cầu mà người nói, viết bằng tiếng Việt phải tuân thủ để cho ngôn ngữ của mình đạt được hiệu quả như Bác đã chỉ thị…
Khi nghiên cứu vấn đề này, cần tìm hiểu xem tư tưởng, quan điểm Hồ Chí Minh về ngôn ngữ đã tiếp nhận từ các nguồn ảnh hưởng nào. Hồ Chí Minh đã từng sống nhiều năm ở Pháp, đã tiếp thu khá sâu sắc nền văn hóa phương Tây. Nhưng điều quan trọng hơn, Hồ Chí Minh có một vốn Hán học sâu sắc, và một vốn văn học dân tộc, bao gồm cả văn học dân gian, với vô số những câu tục ngữ, ca dao về ngôn ngữ… Những hiểu biết đó không thể không góp phần hình thành nên tư tưởng, quan điểm Hồ Chí Minh về ngôn ngữ. Và cũng có thể hiểu tư tưởng, quan điểm Hồ Chí Minh về ngôn ngữ là sự tổng hòa các quan điểm Đông – Tây, Kim – Cổ, trong nước và ngoài nước về ngôn ngữ.
Trong quá trình sống và hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh phát biểu không nhiều về ngôn ngữ nói chung, chủ yếu Người nói nhiều, nhấn mạnh đến sự trong sáng của tiếng Việt. Do đó, nhiệm vụ đặt ra là làm thế nào vừa phát huy được khả năng của tiếng Việt, vừa xây dựng và làm nó trở thành một ngôn ngữ toàn năng. Hồ Chí Minh đã ý thức được cả chỗ mạnh và những chỗ còn bất cập của tiếng Việt. Vì thế, bên cạnh chủ trương chống sự vay mượn không phải lối, vay mượn đến nỗi bỏ cả tiếng ta “Vay mượn là cần, nhưng phải chống lạm dụng, chống lười biếng. Cần có cuộc vận động chống lạm dụng tiếng nước ngoài”( Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb Văn học, H, 1981, tr. 374
).
Bên cạnh đó, Người cũng chỉ rõ lí do thường xuyên phải vay mượn ngôn ngữ nước ngoài khi không cần thiết hoặc không đúng. Đó là, Không quý báu tiếng dân tộc, tự ti; Học tập không đến nơi, đến chốn…
Qua những lời phê phán, chỉ bảo đó, chúng ta đã thấy được ở Người sự nâng niu, trân trọng từng nét tinh tế của tiếng nói của dân tộc. Tình cảm hết sức nồng nàn ẩn sâu trong những từ ngữ đầy trí tuệ. Tuy nhiên, bên cạnh đó Người cũng chủ trương vay mượn khi thật cần thiết, trong đó có những gợi ý vay mượn khá mạnh dạn, táo bạo (vay mượn một số vần nước ngoài, cả một số yếu tố cú pháp nữa). Điều đó đã chứng minh một tầm nhìn rất sáng suốt, vượt thời đại rất xa, nghĩa là vừa quan tâm bảo vệ đặc sắc của tiếng Việt, vừa tiếp nhận các yếu tố bên ngoài, không hề có thái độ một chiều, cực đoan…
Một vấn đề quan trọng khác khi nghiên cứu ngôn ngữ Hồ Chí Minh, cần nghiên cứu thật kỹ với tinh thần đối chiếu những thành tựu của ngôn ngữ học hiện nay, với những tư tưởng của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực này. Bởi lẽ, ý kiến của Người không chỉ có tính ứng dụng mà còn có ý nghĩa khoa học sâu sắc. Điều đó được chứng minh qua một số yêu cầu của Người về cách nói, cách viết của cán bộ, đảng viên:
“1. Phải học cách nói của quần chúng, chớ nói như giảng sách. Mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết phải tỏ rã cái tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng.
2. Phải luôn luôn dùng những lời lẽ, những thí dụ giản đơn, thiết thực và dễ hiểu.
3. Khi viết, khi nói, phải luôn luôn làm thế nào cho ai cũng có thể hiểu được. Làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đêu quyết tâm theo lời kêu gọi của mình. Bao giờ cũng phải tự hỏi: “Ta viết cho ai xem? Nói cho ai nghe?”.
4. Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết.
5. Trước khi nói phải nghĩ cho chín, phải sắp đặt cẩn thận. Phải nhớ câu tục ngữ: “Chó ba quanh mới năm, người ba năm mới nói” sau khi viết rồi phải xem đi, xem lại ba bốn lần. Nếu là một tài liệu quan trọng, phải xem đi, xem lại chín mười lần”( Xem: Sửa đổi lối làm việc trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H, 1995, tr.306
).
Thông qua một số yêu cầu của Người về cách nói, cách viết của cán bộ, đảng viên đã thấy được yêu cầu đầu tiên là tránh lối viết lằng nhằng, trường giang đại hải, gây khó hiểu, khó nhớ. Vì mục đích mình viết ra cốt là để giáo dục, cổ động, nếu người xem mà không nhớ được, không hiểu được là viết không đúng, nhằm không đúng mục đích. Mà muốn cho người xem hiểu được, nhớ được, làm được thì phải viết cho đúng trình độ của người xem, viết rõ ràng, gọn gàng, không dùng chữ nhiều… Trong những yêu cầu mà Hồ Chí Minh đề ra, Người luôn luôn nhấn mạnh: người tiếp nhận là quần chúng nên yêu cầu nói và viết phải đơn giản, thiết thực và dễ hiểu. Điều đáng lưu ý hơn, nhiệm vụ lúc đó là tập trung sức người, sức của để kháng chiến, nói năng thế nào để cho quần chúng dễ hiểu, dễ hành động (mục đích cuối cùng của mọi lời nói, mọi câu văn của cán bộ là đích hành động, nói để dân có thể làm được).
Trên thực tế, Người đã từng nói và viết cho rất nhiều hạng người: cho cán bộ dân chính, cho các nhà khoa học, trí thức, cho các phụ lão, cho người nước ngoài… và tùy theo mỗi loại người nghe khác nhau mà lối nói, lối viết của Người cũng khác. Chúng ta cũng cần tránh cách hiểu khi chỉ thấy Người đặt ra yêu cầu nói cho quần chúng hiểu và hành động mà nghĩ rằng cách nhìn của Người là hẹp hòi, là không nghĩ đến những tầng lớp trên của xã hội, rằng tầm nhìn của Người chỉ là “công - nông - binh”…
Qua thực tế sử dụng ngôn ngữ của Hồ Chí Minh, chúng ta có thể rút ra những bài học quý báu: Bất kể người nghe là ai, tiêu chuẩn mà Người đặt ra cho văn phong là giản dị, ngắn gọn nhưng không hề nông cạn. Nó cũng chính là những tiêu chuẩn được các vĩ nhân hướng tới và là chân lý vĩnh hằng.
Ở ngôn ngữ Hồ Chí Minh chúng ta mới biết tiếng Việt được sử dụng một cách giản dị, dễ hiểu mà sâu sắc ở tất cả các lĩnh vực là như thế nào. Và chắc chắn rằng khó mà bắt chước được cái văn phong đó ( và cũng không nên bắt chước nguyên vẹn). Bởi chúng ta dược tiếp xúc với một văn phong giản dị nhưng mang dấu ấn riêng của người viết, một văn phong đầy cá tính. Điều cần khẳng định là sự giản dị, trong sáng nhưng rất có hiệu lực giao tiếp của ngôn ngữ Hồ Chí Minh là một thành công lớn của tiếng Việt.
Bên cạnh đó, không thể không nói đến quan điểm gắn liền ngôn ngữ với tư cách đạo đức của người nói, người viết, gắn liền sự rèn luyện văn phong với sự tu dưỡng. Người viết: “Làm được như thế - đảng viên và cán bộ ta quyết
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu luan hoc phan 1.doc