Tiểu luận Tìm hiểu một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU: 0

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 0

I. Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra: 0

1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ và trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra: 0

a) Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ: 0

b) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra: 1

c) Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ: 2

2. Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra: 3

2.1 Hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại trái pháp luật: 4

2.2 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh”. 5

2.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra: 6

2.4 Lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. 6

3. Xác định chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : 7

II. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật : 11

1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra: 11

2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra: 15

KẾT LUẬN: 18

 

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1991 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sức khỏe, tính mạng của cá nhân chứ không bao gồm thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư của cá nhân. Thiệt hại xảy ra do chính sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, mà không cần có lỗi của con người tác động đến. Để xác định được khi nào trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm được đặt ra, cần xem xét các điều kiện làm phát sinh nên trách nhiệm đó. 2.1 Hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại trái pháp luật: Thiệt hại là điều kiện quan trọng trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại, với mục đích là nhằm bù đắp, khắc phục những tổn thất đã xảy ra cho người bị thiệt hại, do đó nếu không có thiệt hại thì cũng không phát sinh trách nhiệm bồi thường. Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có những yếu tố không giống như thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra, thiệt hại này xảy ra phải do chính hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, hoàn toàn độc lập và nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát của con người. Hoạt động được hiểu là “vận động, vận hành để thực hiện chức năng nào hoặc gây ra tác động nào đó,…”, khi xảy ra thiệt hại, thì nguồn nguy hiểm cao độ đó phải đang trong tình trạng “ đang hoạt động”, ví dụ như xe ôtô đang đi trên đường thì bị mất phanh, nổ lốp; nhà máy công nghiệp đang trong quá trình vận hành, sản xuất. Nếu thiệt hại xảy ra mà không do tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, hoặc nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trong trạng thái “tĩnh” không hoạt động như xe ô tô dừng đỗ trên đỉnh dốc nhưng theo quán tính trượt xuống chân dốc gây thiệt hại; cột điện bị đổ trong lúc đang thi công, chưa có điện; thú dữ chết thối rữa gây dịch bệnh thì không thể coi đó là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, khi đó thì trách nhiệm bồi thường sẽ xác định theo trách nhiệm phát sinh thông thường. Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ phải có tính trái pháp luật. Có nhiều trường hợp do đặc tính của nguồn nguy hiểm cao độ mà việc gây thiệt hại của những phương tiện này không bị coi là trái pháp luật. Ví dụ, để bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, những thiệt hại trên đường sắt do tàu hỏa gây ra cho các chủ thể khác không bị coi là trái pháp luật và ngành đường sắt không có trách nhiệm bồi thường hoặc như hoạt động của xe cần trục, xe ủi… khi phá dỡ các công trình xây dựng trái phép không thể coi là trái pháp luật. Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng loại trừ các trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ. Như vậy, có thể khẳng định rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là trách nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ chứ không phải thiệt hại do hành vi của con người. 2.2 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh”. Do tính chất nguy hiểm của nguồn nguy hiểm cao độ có thể gây thiệt hại cho bất kỳ ai: chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành, những người không có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ… Có những chủ thể do mối quan hệ sở hữu, lao động mà họ trực tiếp tiếp xúc với nguồn nguy hiểm cao độ. Đối với chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đối với người bị thiệt hại trong khi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động, họ sẽ được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh” - là những người khi xảy ra thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này. Việc xác định người xung quanh và người không được coi là người xung quanh của nguồn nguy hiểm cao độ có ý nghĩa về mặt pháp lý trong việc xác định người bị hại do sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ được hưởng bồi thường theo trách nhiệm dân sự hay theo chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức bị nguồn nguy hiểm gây ra thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ hoặc điều khiển, vận hành, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ. Do đặc điểm của nguồn nguy hiểm cao độ là những loại tài sản có khả năng gây ra thiệt hại trong quá trình vận hành, sử dụng chúng, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ có thể là những thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm – là những thiệt hại chỉ có thể phát sinh do hành vi của con người nên không thuộc phạm vi tác động của nguồn nguy hiểm cao độ. 2.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra: Quan hệ giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra có mối quan hệ phổ biến, biện chứng, sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân trực tiếp gây thiệt hại, mà không có yếu tố lỗi của con người. Việc xác định này có ý nghĩa pháp lý quan trọng vì nó là bằng chứng để xác định có hay không trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu chủ sở hữu mà có lỗi, thì ngoài trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự, người chủ sở hữu của nguồn nguy hiểm cao độ hoặc người có lỗi trong việc sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà gây thiệt hại cho người khác phải chịu trách nhiệm hình sự. 2.4 Lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Thông thường, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi có điều kiện lỗi. Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà gây thiệt hại, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường, cơ sở để người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường là họ phải chứng minh lỗi của người gây thiệt hại. Để bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ nạn nhân chống lại việc gây ra tai nạn, có quan điểm cho rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp có thể phát sinh mà không cần điều kiện lỗi. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những trường hợp đặc biệt, theo đó, trách nhiệm bồi thường phát sinh khi không cần xem xét đến điều kiện lỗi. Khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi”. Quy định này trên thực tế hiện nay dẫn đến những cách hiểu khác nhau. Như vậy, yếu tố lỗi không phải là một điều kiện tiên quyết làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra do đó có thể thấy dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người (như xe đang đi trên đường bất ngờ nổ lốp trước dẫn đến mất lái đột ngột gây thiệt hại) hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều khiển, tuy nhiên lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại (như trước khi xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa thay do chủ quan nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt…). Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi, do hành vi của người điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này. Xác định chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : Trường hợp 1: Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ: “ Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác” 5 Trích Điều 165 Bộ luật dân sự năm 2005. đó là nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu được ghi nhận tại Điều 165 BLDS 2005. Đồng thời, với ý nghĩa luôn tiềm ẩn nguy cơ, khả năng gây thiệt hại cho con người và thế giới xung quanh của nguồn nguy hiểm cao độ nên đoạn 2 khoản 1 Điều 623 BLDS 2005 cũng đưa ra quy định: “ Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.” 6 Trích khoản 1 Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2005. Do đó, khi có thiệt hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị thiệt hại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trước hết được đặt ra cho chủ sở hữu, trừ trường hợp chủ sở hữu chứng minh được trách nhiệm thuộc về người khác. Nếu chủ sở hữu đã chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao cho người khác theo ý chí của mình theo các giao dịch dân sự như cho thuê, cho mượn hoặc chuyển giao theo nghĩa vụ lao động phải chịu trách nhiệm bồi thường khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, trừ khi có thỏa thuận khác ví dụ“ thỏa thuận cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại...” 7 Trích khoản b Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp chủ sở hữu chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác nhưng trên thực tế, chủ sở hữu vẫn có quyền kiểm soát về mặt pháp lý (chiếm hữu pháp lý) đối với tài sản. Khi đó, mặc dù không trực tiếp khai thác công dụng của tài sản nhưng đó cũng là một hình thức chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản, cụ thể là khai thác lợi ích kinh tế từ tài sản. Do đó, trường hợp nguồn nguy hiểm đã được chủ sở hữu giao cho người khác thì cần xác định, ví dụ Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ theo hợp đồng lao động thì trong trường hợp này, người được chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ là những người làm công, ăn lương, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ để thực hiện nghĩa vụ lao động. Nếu thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đang trong thời gian thực hiện nghĩa vụ lao động thì chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường khi có thiệt hại xảy ra. Còn nếu, người làm công đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà gây tai nạn nhưng không nằm trong thời gian thực hiện nghĩa vụ lao động thì người làm công phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 623 BLDS 2005. Nếu chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đã chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác nhưng sự chuyển giao này không tuân theo đúng các quy định của pháp luật và chủ yếu thường thông qua các giao dịch dân sự như cho thuê, cho mượn... thì khi có thiệt hại xảy ra trên thực tế do hoạt động nội tại của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ thì căn cứ khoản b Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP, thì chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ sẽ là người phải chịu trách nhiệm bồi thường. Bởi khi chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ, chủ sở hữu đã biết trước tính nguy hiểm mà tài sản của mình có thể gây ra đồng thời, về ý chí, chủ sở hữu hoàn toàn nhận thức được việc chuyển giao là không đúng quy định của pháp luật. Ví dụ: A biết B thuê xe máy của mình nhưng chưa có giấy phép lái xe nhưng vẫn cho B thuê và trong quá trình B sử dụng xe máy đã bị nổ lốp gây ra thiệt hại cho C. Trong trường hợp này, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là A- chủ sở hữu chiếc xe máy. Trường hợp 2: Bồi thường thiệt hại trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật : Chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ là hành vi chiếm hữu không có những căn cứ pháp luật quy định tại Điều 183 BLDS 2005 như chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản thông qua giao dịch dân sự vi phạm các điều kiện có hiệu lực theo Điều 122 BLDS 2005; nguồn nguy hiểm cao độ có được do trộm, cướp, hoặc các hành vi chiếm đoạt tài sản khác;... Khi nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật, thì xảy ra hai trường hợp sau : Thứ nhất, nếu nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng thông qua hành vi trái pháp luật bao gồm trộm, cướp hoặc các hình thức chiếm đoạt tài sản khác ví dụ như xe máy có được do trộm cắp, tàu thuyền cướp được ... thì khi thiệt hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ thì người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ bất hợp pháp phải chịu trách nhiệm bồi thường. Thứ hai, nếu chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đã không thực hiện đúng các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ dẫn đến việc nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật. Trong trường hợp này, thiệt hại xảy ra ngoài nguyên nhân chính là do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ còn có lỗi của chủ sở hữu cũng như có dấu hiệu chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật. Do đó, việc xác định trách nhiệm pháp lý liên đới được phát sinh trong trường hợp này là hợp lý. Trường hợp 3: bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng, do lỗi cố ý của người bị thiệt hại: Trách nhiệm bồi thường của các chủ thể này sẽ không được đặt ra khi thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi cố ý của người bị thiệt hại. Thứ nhất, “ Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không con cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn cần ngăn ngừa.” Do đó, để bảo vệ một lợi ích khác lớn hơn, để tránh những thiệt hại lớn hơn có thể xảy ra, luật đã quy định tại khoản 3 Điều 623BLDS quy định thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp thiết thì không phải bồi thường. Thứ hai, sự kiện bất khả kháng là những sự kiện phát sinh bất ngờ, đột xuất, nằm ngoài ý thức, sự kiểm soát của con người nói chung và của chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền sở hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nói riêng. Trong tình huống bất khả kháng, con người chỉ có thể lựa chọn cách một cách xử lí nhất định nhằm giải quyết, khắc phục tương đối ổn thỏa nhất sự kiện đó. Ví dụ như, A đang đi xe máy trên đường, vô tình bánh xe vấp vào 1 viên sỏi trên đường, làm viên sỏi bắn vào mắt của B, gây thiệt hại cho B, thì khi này A không phải bồi thường cho B vì đây là sự kiện bất ngờ, không do nguồn nguy hiểm cao độ cũng như hành vi trái pháp luật của anh A gây ra. Đồng thời, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng nằm ngoài tầm kiểm soát của con người, do đó để đảm bảo quyền lợi cho chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, khoản 3 Điều 623 BLDS 2005 quy định trường hợp này những chủ thể này không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, đối với trường hợp thiệt hại xảy ra trong tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng mà những văn bản pháp luật khác vẫn yêu cầu trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại lúc này phải áp dụng theo các quy định tại các văn bản pháp luật đó. Nếu trường hợp lỗi xuất phát từ phía người bị thiệt hại, thì trách nhiệm bồi thường sẽ không đặt ra cho chủ sở hữu hay người được chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo khoản 3 Điều 623 BLDS 2005. Ví dụ: Xe ôtô đang tham gia giao thông với tốc độ cho phép thì bất ngờ có người lao vào xe với ý định tự tử thì khi người này bị thương nặng hay thậm chí tử vong, chủ sở hữu hay người đang trực tiếp điều khiển xe lúc đó không phải bồi thường. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật : Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra: Một số tình huống trên thực tế và việc áp dụng các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Tình huống 1: chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Ông Nguyễn Hoàng Giang trú tại Đông Anh, Hà Nội có thuê anh Trần Văn Sơn làm người lái xe chuyên chở hàng cho gia đình ông với mức lương là 5 triệu đồng/ tháng. Ngày 15/3/2010, trong chuyến hàng từ Hà Nội đến Hà Nam, chiếc xe tải mang biển kiểm soát 29H – 2244 do anh Trần Văn Sơn điều khiển đang lưu thông trên đoạn đường Pháp Vân – Cầu Giẽ thì đột nhiên nổ lốp, vì xe đang đi với tốc độ nhanh, nên mặc dù anh Sơn đã rà phanh, kiểm soát vô lăng, nhưng chiếc xe vẫn bị mất lái, đâm sầm vào chiếc xe máy đang đi ngược chiều do chị Nguyễn Thị Loan điều khiển đi đúng làn đường của mình. Va chạm xảy ra, chiếc xe tải đi thêm 10m nữa thì dừng hẳn, còn chiếc xe máy mang biển kiểm soát 30Y2 – 1245 của chị Loan bị văng ra xa, hư hỏng nặng. Do kịp thời được đưa đi cấp cứu nên chị Loan chỉ bị tổn thương 31% về sức khỏe. Ngày 17/3/2010, gia đình chị Nguyễn Thị Loan yêu cầu bồi thường thiệt hại về tai nạn xảy ra cho chị Loan. Sau khi sự việc xảy ra, anh Sơn có đến trao đổi với ông Giang về việc xảy ra tai nạn, ông Giang chủ của chiếc xe cho rằng do anh Sơn là người điều khiển chiếc xe đi gây tai nạn nên ông chỉ chịu bồi thường một nửa khoản bồi thường cho chị Loan, phần còn lại do anh Sơn chịu trách nhiệm.Vậy trong tình huống trên, ai sẽ là người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho chị Loan? Giải quyết tình huống: Trong tình huống này, thiệt hại xảy ra là được xác định là do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Theo khái niệm, nguồn nguy hiểm cao độ được hiểu là những vật chất nhất định do pháp luật quy định luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho con người, con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối. Tại điều 623 BLDS 2005 có quy định “ nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm các phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động…” Ở tình huống này, thiệt hại xảy ra là do chiếc xe tải bị nổ lốp gây nên, chiếc xe tải là phương tiện giao thông vận tải cơ giới được quy định tại khoản 8, Điều 3 Luật giao thông đường bộ năm 2008 quy định “ phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe ôtô; máy kéo;…” Như vậy, trường hợp gây thiệt hại xảy ra trên không phải do hành vi trực tiếp của con người, cụ thể là của anh Trần Văn Sơn gây ra, mà là do hoạt động lâu ngày, nên chiếc lốp xe bị mài mòn xảy ra sự cố, mặc dù anh Sơn đã cố kiểm soát để hạn chế bằng cách rà phanh, kiểm soát vô lăng nhưng thiệt hại vẫn xảy ra. Đối với trường hợp thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, thì trách nhiệm bồi thường sẽ phát sinh theo quy định tại Điều 623 BLDS 2005, người được chủ sỡ hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm (như cho thuê, cho mượn…) phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra kể cả khi không có lỗi. Ở đây, anh Sơn chỉ là người lái xe thuê chở hàng cho gia đình ông Giang, và được nhận tiền lương chứ không phải là người được chủ sở hữu là ông Giang giao sử dụng bằng cách cho thuê, cho mượn. Mặt khác, căn cứ điểm đ điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: “... Ví dụ : A là chủ sở hữu xe ô tô đã giao xe ô tô đó cho B. B lái xe ô tô tham gia giao thông đã gây ra tai nạn và gây thiệt hại thì cần phải phân biệt : - Nếu B chỉ được A thuê lái xe ô tô và được trả tiền công, có nghĩa B không phải là người chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà A vẫn chiếm hữu, sử dụng; do đó, A phải bồi thường thiệt hại...” thì có thể xác định rằng ông Nguyễn Hoàng Giang là chủ sở hữu của chiếc xe tải sẽ là người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho chị Loan. Nên việc ông Giang cho rằng ông chỉ chịu bồi thường một nửa, phần còn lại thì anh Sơn phải tự chịu là không đúng quy định của pháp luật. Tình huống 2: Bồi thường thiệt hại trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật. Ngày 12/4/2010, Nguyễn Văn Hưng trú tại xã Tây Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội, đã lẻn vào nhà anh Hoàng Phú Tài, sống cùng xóm và lấy đi chiếc xe máy Wave S của anh Tài với biển kiểm soát 29X2 – 3436. Trên đường đem xe đi tiêu thụ, chiếc xe vô tình đã đâm vào chiếc đinh trên đường gây ra nổ lốp, và đã đâm vào em Tú là học sinh lớp 8 đi ngược chiều, đang trên đường đi học về. Tai nạn xảy ra, khiến em Tú bị ngã gãy chân và một số tổn thương ngoài da khác. Những người dân gần đó, đã ra giữ xe và Hưng ở lại, sau đó đưa em Tú đến bệnh viện gần đó. Tại trụ sở Hưng khai là chiếc xe mang biển kiểm soát 29X2 – 3436 là do Hưng đã trộm được của anh Tài cùng xóm, và thiệt hại xảy ra là do chiếc xe gây ra, không phải do Hưng, nên tiền bồi thường phải do anh Tài chịu trách nhiệm. Giải quyết tình huống: Tình huống này cũng là một trường hợp gây thiệt hại do tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ, mà cụ thể là xe máy mang biển kiểm soát 29X2 – 3436. Nguyên nhân xảy ra thiệt hại là do chiếc xe đâm phải đinh, nên nổ lốp, dẫn đến thiệt hại cho em Tú đang đi ngược chiều. Việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong tình huống này, cần chú ý rằng, mặc dù chủ sở hữu của chiếc xe này là anh Hoàng Phú Tài, nhưng chiếc xe máy này đã bị Nguyễn Văn Hưng lấy trộm khi anh Tài không biết, và gây ra thiệt hại. Vậy nên, chủ thể xác định bồi thường thiệt hại ở đây áp dụng theo đoạn 1 khoản 4 Điều 623 BLDS “ trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại”. Như vậy, Nguyễn Văn Hưng đã lấy trộm chiếc xe máy của anh Tài, đây là trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng thông qua hành vi trái pháp luật bao gồm trộm, cướp,...gây ra, do vậy người chiếm hữu sử dụng trái pháp luật là anh Nguyễn Văn Hưng sẽ phải bồi thường thiệt hại cho em Tú, chứ không phải anh Hoàng Phú Tài là chủ sở hữu. Tình huống 3: bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại: Anh Trần Văn Sơn là người quê Hải Phòng là người lái xe tải chuyên chở hàng đông lạnh lên Hà Nội, ngày 12/1/2011 đang đi trên đường với tốc độ 60km/h, bỗng nhiên có một người chạy ra từ một nhà dân gần đó lao vào trước mũi xe với mục đích tự tử, thấy vậy anh Sơn vội kéo phanh để hãm tốc độ xe lại nhưng phanh xe không kịp, theo đà chiếc xe tiến về phía trước, đâm thẳng gây ra tai nạn cho chị Nguyễn Thúy Hà. Sau tai nạn, gia đình chị Hà yêu cầu anh Sơn phải bồi thường thiệt hại do gây ra cái chết của chị Hà, với số tiền là 50 triệu đồng, nếu không sẽ kiện ra tòa , nhưng anh Sơn khẳng định rằng, việc dẫn đến cái chết của chị Hà, không phải do lỗi của anh, mà do chị Hà cố ý tự tử, nên anh không phải bồi thường số tiền đó. Giải quyết tình huống: Trong tình huống này, nguyên nhân dẫn đến cái chết của chị Hà là do chị cố tình lao vào xe ôtô để tự tử. Ở đây chiếc xe ôtô là nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng vấn đề bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ không được đặt ra. Bởi theo khoản 3 điều 623 BLDS “ Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây: a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại…”. Xét thấy, anh Sơn đi xe đúng tốc độ cho phép, đi đúng làn đường và tuân thủ các quy định về an toàn giao thông, và khi chị Hà lao vào xe để tự tử, anh Sơn cũng áp dụng các biện pháp để tránh gây ra thiệt hại như vội kéo phanh để hãm tốc độ xe, nhưng hậu quả thiệt hại vẫn xảy ra, ở đây không có yếu tố lỗi của anh Sơn, mà là do chị Hà có ý định tự tử. Như vậy, anh Sơn không phải bồi thường thiệt hại cho chị Hà trong tình huống này. Cụ thể quy định tại Nghị quyết số 03/2006/HĐTP “về nguyên tắc chung chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây: Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; Ví dụ: Xe ô tô đang tham gia giao thông theo đúng quy định của pháp luật, thì bất ngờ có người lao vào xe để tự tử và hậu quả là người này bị thương nặng hoặc bị chết. Trong trường hợp này chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó không phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ (xe ô tô) gây ra”. Vậy nên, tình huống này anh Sơn không phải bồi thường. 2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra: Mặc dù Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành bộ luật như Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP) đều dành ra những quy định riêng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, tuy nhiên vẫn còn nhiều quy định bất cập, gây ra các quan điểm khác nhau trên thực tế áp dụng, vậy nên qua các điểm hạn chế đó, cần có các ý kiến để hoàn thiệt hơn các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Một là, cần xem xét về “ khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ”. Như đã phân t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuật Dân Sự- Nguồn nguy hiểm cao độ ( học kỳ ).doc