MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1.Tên đề tài: “Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn ban học của học sinh THPT” 1
2.Lý do chọn đề tài 1
3.Lịch sử nghiên cứu đề tài 2
4.Đối tượng nghiên cứu 3
5.Phương pháp nghiên cứu 3
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH 4
I. Vài nét về phân ban 4
1.Khái quát chung về phân ban: 4
2. Lịch sử phân ban ở nước ta: 5
2.1 Trước cách mạng Tháng Tám 1945 5
2.2 Sau cách mạng Tháng Tám 1945 5
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP 18
a.Kết luận 18
b.Kiến nghị, Giải pháp 18
2.1 Về phía bản thân học sinh 18
2.4. Về phía giáo viên 19
2.5. Về phía gia đình 19
2.6. Về phía các nhà hoạch định giáo dục 19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 20
PHỤ LỤC 21
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2467 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn ban học của học sinh THPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ả năng, sở thích, nhu cầu điều kiện học tập tương đối giống nhau thì Dạy học tự chọn hướng đến từng cá nhân học sinh.
Dạy học tự chọn cho phép mỗi học sinh, ngoài việc học theo chương trình chung còn có thể học một chuơng trình học với các môn học khác nhau, hoặc có thể học các chủ đề khác nhau trong một môn học.
Như vậy, ta thấy rằng: các hình thức học tập này đều là những hình thức học tập tiên tiến phát huy tối đa khả năng của người học, tạo cho người học điều kiện học tập tốt nhất. Hiện nay, các hình thức dạy học này đã và đang được các nước tiên tiến trên thế giới áp dụng để nâng cao chất lượng giáo dục nhưng nó đòi hỏi điều kiện cơ sở vật chất cao và đội ngũ giáo viên trình độ cao mà những điều kiện này hiện nay chúng ta chưa thể đáp ứng ngay được.
2. Lịch sử phân ban ở nước ta:
- Phân ban ra đời từ khoảng Thế kỷ XVIII ở nhiều nước Châu Âu, sau đó hình thức này càng được hoàn thiện và áp dụng rộng rãi ở các nước Châu Âu và các nước thuộc địa chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Pháp.
2.1 Trước cách mạng Tháng Tám 1945
Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, phân ban THPT đã có từ thời Pháp thuộc. Năm 1906, với cải cách của Toàn quyền Paul Beau Paul Beau - người Pháp giữ chức Toàn quyền Đông Dương từ 1902-1907
bậc trung học được chia làm hai: trung học đệ nhất cấp và trung học đệ nhị cấp, trong đó trung học đệ nhị cấp được phân làm hai ban là Ban văn học và Ban khoa học. Hình thức phân ban này nhằm đào tạo ra những nhân viên phục vụ cho nền thông trị của Pháp.
Năm 1917, Toàn quyền Albert Saurraut 6 Albert Saurraut – Toàn quyền Đông dương từ 1912-1919
lại tiến hành cải cách giáo dục lần hai, vẫn chia giáo dục trung học làm hai ban Cao đẳng Tiểu học và Trung học nhưng không phân ban.
2.2 Sau cách mạng Tháng Tám 1945
Sau cách mạng Tháng Tám 1945, ta tiếp quản nền giáo dục của Pháp. Hệ thống giáo dục Phổ thông được sửa đổi thành hệ 11 năm trong đó bậc Trung học được chia làm 3 ban: ban Toán- Lý-Hoá, ban Lý- Hoá- Sinh, ban Văn-Sử-Địa. Năm 1950, ta tiến hành cải cách giáo dục lần thứ nhất chia làm 3 cấp học: Cấp I, CấpII, Cấp III không phân ban.
Từ 1954 đến 1975, khi đất nước bị chia cắt, ở miền Nam vẫn duy trì chương trình phân ban gồm 4 ban: mỗi ban có 3 môn chính: ban khoa học thực nghiệm- Ban A gồm Sinh-Hoá-Lý, ban toán- ban B gồm Toán-Lý-Hoá, ban Ngôn ngữ hiện đại- ban C gồm Văn-Sử-Địa-Ngoại ngữ và ban Cổ ngữ gồm Hán Nôm-Văn-Ngoại ngữ.
Đến năm 1981-1982, Bộ Giáo dục bỏ chương trình phân ban cũ và cả nước thống nhất chương trình Phổ thông 12 năm không phân ban.
Năm 1993- 1994, phân ban lại tiếp tục được thực hiện, lần này Bộ Giáo dục Đào tạo chỉ chia thành 3 ban: Ban A(KHTN), Ban B (KHTN-KT), Ban C (KHXH) thực hiện ở 214 trường với gần 2000 học sinh (chiếm gần 20% tổng số trường toàn quốc) Nhưng trong quá trình thực hiện rất ít học sinh chọn ban B lại thêm nhiều rắc rối trong thi cử năm 1998 nên Bộ quyết định dừng tuyển sinh lớp 10 chuyên ban. Thủ tướng đã có chỉ thị số 30 về việc điều chỉnh chủ trương phân ban ở PTTH và đào tạo 2 giai đoạn ở đại học.
Năm 2003-2004, một chương trình phân ban THPT mới lại được thí điểm tại 48 trường THPT thuộc 11 tỉnh, thành phố với 2 ban KHTN (ban A) và KHXH(ban C) và dự kiến 2005-2006 sẽ triển khai đại trà chương trình này. Nhưng sau 2 năm thí điểm chương trình phân ban đã bộc lộ nhiều khuyết điểm. Cụ thể là số học sinh vào ban KHXH rất thấp(23,3%) nhiều trường chỉ có 10% học sinh học ban C và có tới 60% học sinh không đủ trình độ học ban A lẫn ban C nhưng không biết chọn chương trình nào khác để học.
Trước tình hình đó, tại hội nghị giao ban giám đốc Sở giáo dục-đào tạo năm 2005 diễn ra tại Hà Nội từ ngày 23- 24/3/2005, Ban chỉ đạo về chuơng trình phân ban đã đưa ra 3 phương án:
+ Phương án 1: thực hiện phân thành hai ban từ lớp 10 gồm 2 ban (KHTN, KHXH-NV) như hiện nay và có điều chỉnh kế hoạch giảng dạy của 2 ban, điều chỉnh số tiết học tự chọn.
+ Phương án 2: thực hiện phân 4 ban ở lớp 12. Theo đó, học sinh lớp 10 và 11 cùng học theo chương trình chuẩn gồm 12 môn và các hoạt động giáo dục kết hợp với chủ đề tự chọn. Đến lớp 12, học sinh được chọn 1 trong 4 ban: KHTN I- ban A với các môn nâng cao Toán, Lý, Hoá; KHTN II- ban B với các môn nâng cao Toán, Hoá, Sinh; KHXH-NV- ban C với các môn nâng cao Văn, Sử, Địa; ban Tổng hợp- ban D với các môn nâng cao Toán, Ngoại ngữ, Văn
+ Phương án 3: phân ban sớm và sâu dần ở cuối cấp. Theo đó, học sinh lớp 11 và 12 được phân thành 2 ban như đang thí điểm (KHTN, KHXH). Lớp 12 phân thành 4 ban (KHTN I, KHTN II, KHXH I, KHXH II). Mức độ phân hoá ở một số môn lớp 12 sâu hơn nhiều so với phân ban thí điểm, so với phương án 1,2 được đề xuất ở trên.
Mỗi phương án trên đều có những ưu điểm, thuận lợi cũng như những hạn chế khó khăn khi thực hiện trong đó phương án 3 phân ban sớm và sâu dần ở cuối cấp được nhiều người lựa chọn vì phương án này bắt đầu từ lớp 10 sâu dần ở lớp cuối cấp vừa tránh đột ngột cho học sinh, chuẩn bị tốt hơn cho thi CĐ, ĐH đồng thời nó đảm bảo sự ổn định và kế thừa được những gì đã chuẩn bị cho thí điểm ở lớp 10,11.
Năm học 2006-2007, chương trình phân ban được đưa vào thực hiện đại trà với nội dung phân ban như sau: học sinh học phân ban ngay từ lớp 10 với 3 ban: KHTN học theo chương trình nâng cao của 4 môn Toán, Lý, Hoá, Sinh và chương trình chuẩn của các môn còn lại; KHXH học theo chương trình nâng cao của 4 môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Ngoại ngữ và chương trình chuẩn của các môn còn lại; KH Cơ bản học sinh sử dụng thời lượng dạy học tự chọn 4 tiết/ tuần để học theo chương trình và sách giáo khoa nâng cao của một số môn có nội dung nâng cao Toán, Lý, Hoá, Sinh, Văn, Sử, Địa, Ngoại ngữ và học chủ đề tự chọn thuộc một số môn học. Các môn còn lại học SGK biên soạn theo chương trình chuẩn.
Thực trạng lựa chọn ban học hiện nay
Khi chương trình phân ban được đưa vào thực hiện đại trà thì có một thực tế đang diễn ra ở nhiều trường phổ thông trong toàn quốc đó là số học sinh chọn ban KHXH rất ít thậm chí không có, còn số học sinh chọn ban KH Cơ bản là khá cao. Có thể dẫn ra đây một vài số liệu thống kê như sau:
Đơn vị %
KHTN
KHXH
KHCB
KHTN
KHXH
KHCB
Cả nước
19,77
6,47
73,76
Cả nước
Hà Nội
29
10
51
Hà Nội
30
8
62
Tp HCM
21,9
4,51
75
Tp HCM
23,2
3
73,8
Hà Nam
24
11
65
Hà Nam
20
4
85,9
Bảng 1: Tỷ lệ tham gia ban học của học sinh năm học 2006-2007
Cà Mau
9,5
4,51
85,99
Bảng 2:Tỷ lệ tham gia ban học của học sinh năm học 2007-2008(chưa thống kê đ ược số liệu của cả nước)
Cà Mau
11
7,3
81,7
Trên đây là số liệu về sự lựa chọn ban học của học sinh THPT qua 2 năm thực hiện phân ban đại trà. Nhìn vào bảng số liệu trên, ta có thể thấy tỷ lệ lựa chọn giữa các ban rất chênh lệch nhau. Ban cơ bản được lựa chọn nhiều hơn cả (chiếm tỷ lệ cao nhất) còn ban KHXH có ít sự lựa chọn nhất. Điều đáng chú ý là tỷ lệ chênh lệch nhau giữa hai ban này rất lớn 73,76/6,7(năm 2006-2007). Trên địa bàn Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh hầu hết các trường THPT đều không có ban KHXH vì số học sinh lựa chọn không đủ để thành lập một lớp. Đây là một bất cập mà hiện nay chúng ta chưa giải quyết được.
Hiện nay đang có rất nhiều ý kiến xung quanh vấn đề phân ban nhưng hầu hết đều chưa đánh giá cao chương trình phân ban hiện nay (từ ban học chưa hợp lý, chưa phong phú đến chương trình học quá nặng, phương pháp giảng dạy chưa hiệu quả, cơ sở vật chất không đáp ứng được nhu cầu của học sinh và giáo viên….) Nhìn chung, đây là một vấn đề đang được xã hội quan tâm và là một vấn đề còn gây nên nhiều tranh cãi.
Khái quát chung về tâm lý học sinh THPT
Yếu tố tâm lý lứa tuổi cũng có tác động rất lớn đến sự lựa chọn ban học của học sinh THPT. Để thấy được sự tác động này trước hết ta đi tìm hiểu một số đặc điểm tâm lý lứa tuổi THPT.
Học sinh THPT là học sinh lứa tuổi từ 15-18. Đặc điểm nổi bật nhất của thời kỳ này là các em đã đạt đến sự trưởng thành về mặt cơ thể, có sức lực dồi dào và hệ thần kinh khoẻ mạnh. Chính sự phát triển khá hoàn thiện về mặt thể chất ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tâm lý giai đoạn này.
Đặc điểm về nhận thức và sự hình thành thế giới quan7 Thế giới quan của các em đã được hình thành từ rất sớm tuy nhiên đến giai đoạn này mới có tính hệ thống, quy tắc và chuẩn mực.
Nhận thức của các em đã khác về chất so với tuổi thiếu niên, ví dụ như khi nhìn nhận một sự vật hiện tượng các em không chỉ dừng lại ở đánh giá bề ngoài mà đã có những nhận xét về bản chất bên trong của sự vật hiện tượng. Ở giai đoạn này cảm giác và tri giác đã đạt đến mức độ tinh nhạy, tư duy logic, tư duy lý luận phát triển cao, các em đã biết xâu chuỗi các sự kiện để đưa ra kết luận cuối cùng. Giai đoạn này là giai đoạn quyết định sự hình thành thế giới quan, do sự phát triển tương đối cao về mặt nhân cách những nguyên tắc chuẩn mực đã có từ trước được đưa vào hệ thống toàn vẹn.
Sự hình thành thế giới quan trong giai đoạn này quy định tính tích cực về nhận thức. Hoạt động chủ đạo của các em vẫn là hoạt động học tập, sự phát triển về mặt nhận thức giúp cho quá trình lĩnh hội tri thức tốt hơn, các em chủ động hơn trong việc tìm tòi khám phá tri thức mới. Học sinh THPT đã có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan vận động: mắt nhìn- tai nghe- tay viết- óc suy nghĩ; khả năng quan sát tốt theo một kế hoạch chung. Ngoài ra, các em đã có những khám phá hiểu biết về thế giới xung quanh và từ đó có thể xây dựng lên quan điểm của riêng mình, các em muốn sống tích cực vì xã hội.
Về tính cách và đời sống tình cảm
Các em ở giai đoạn này luôn có xu hướng thoát khỏi những sự ràng buộc, muốn hoà nhập vào cuộc sống tập thể, luôn muốn tìm hiểu khám phá cái mới và muốn khẳng định “cái tôi” của bản thân, khẳng định vị trí xã hội của mình với các bạn cùng trang lứa. Đời sống tình cảm của các em cũng phong phú hơn trước rất nhiều bao gồm cả tình bạn và tình yêu……các quan hệ xã hội được mở rộng, kỹ năng giao tiếp xã hội của các em ngày càng được hoàn thiện thông qua các mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp. Các em có nhiều bạn hơn không chỉ bạn cùng học trên lớp mà còn nhiều bạn khác lớp và chịu ảnh hưởng rất lớn từ bạn bè. Hầu hết các em thích trò chuyện tâm sự với bạn bè hơn là đối với cha mẹ và người thân trong gia đình.
Lứa tuổi này ngoài tình bạn đã xuất hiện tình yêu , đây hầu hết là những rung động đầu đời trong sáng vô tư. Tình yêu ở lứa tuổi này là một hiện tượng hoàn toàn khách quan và thể hiện sự hoàn thiện về mặt tâm sinh lý của cá em. Tuy nhiên, các em còn nông nổi và thiếu hiểu biết chưa xác định được đó đã là tình yêu đích thực chưa? Vì vậy cần có sự quan tâm giúp đỡ của cha mẹ, thầy cô…
3. Vấn đề định hướng nghề nghiệp
Các em học sinh lứa tuổi này rất quan tâm đến việc lựa chọn cho mình một nghề nào đó phù hợp với điều kiện và khả năng của bản thân. Việc chọn nghề đối với học sinh THPT có ý nghĩa nghiêm túc, trực tiếp và cấp bách.
Như Mác đã nói “ Cân nhắc cẩn thận vấn đề này là trách nhiệm đầu tiên của một thanh niên bước vào đời mà không muốn coi việc quan trọng nhất của mình là ngẫu nhiên”. Học sinh THPT đã bắt đầu hiểu rõ ràng rằng cuộc sống tương lai của bản thân phụ thuộc vào chỗ các em có biết lựa chọn nghề nghiệp một cách đúng đắn không? “ dù chàng thanh niên là người nhẹ dạ và vô tư thì thì việc lựa chọn nghề nghiệp vẫn là mối quan tâm chính và thường xuyên của anh ta” Tâm lý học sư phạm và lứa tuổi-Petrovoski-Nxb GD năm 1982. Trang 42
Và để lựa chọn được một nghề phù hợp cho bản thân thì trước hết các em phải lựa chọn được thế mạnh của mình trong học tập, có thái độ học tập đúng đắn lĩnh hội được tri thức nhân loại vì trong bất kỳ lĩnh vực nào tri thức hiểu biết và kỹ năng cũng là những tiêu chí hàng đầu. Nhưng thực tế học sinh THPT hiện nay vẫn còn rất thiếu hiểu biết về các nghề nghiệp trong tương lai, thiếu hiểu biết về những thuộc tính của nghề và những yêu cầu mà nghề đưa ra để có những lựa chọn hợp lý về môn học cách học trong quá trình học tập nên dễ mắc phải những sai lầm trong việc lựa chọn môn học có thể phát huy tối đa khả năng của bản thân. Vì vậy, chúng ta phải có sự định hướng cho học sinh trong việc lựa chọn môn học ban học ngay từ đầu khi các em mới bước vào lớp 10.
Như vậy, ta thấy rằng lứa tuổi THPT là lứa tuổi tâm sinh lý phát triển rất phức tạp nên chúng ta cần tôn trọng và vận dụng hợp lý những quy tắc quy luật phát triển
tâm lý của trẻ để có những định hướng phương pháp giáo dục phù hợp. Cần phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình- nhà trường-xã hội để giúp các em phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tâm hồn, có những định hướng đúng đắn cho tương lai.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Vì thời gian nghiên cứu còn hạn hẹp nên chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực tế ở khối lớp 10 và 11 Trường THPT Nhân Chính - Hà Nội để bước đầu đưa ra những yếu tố tác động đến sự lựa chọn ban học của học sinh.
Vài nét về địa bàn nghiên cứu
Trường THPT Nhân Chính là một ngôi trường trẻ mới thành lập cách đây 5 năm. Được thành lập khá muộn nên Trường THPT Nhân Chính có những lợi thế về cơ sở vật chất, hệ thống cơ sở vật chất của nhà truờng khá rộng và hiện đại. Trong những năm học gần đây số lượng học sinh của nhà trường ngày càng tăng lên và điểm tuyển sinh đầu vào lớp 10 khá cao. Trong năm học 2006-2007, tỷ lệ học sinh đạt khá giỏi chiếm 59,4% trường nằm trong tốp 20 trường có tỷ lệ tốt nghiệp cao nhất thành phố. Đây là sự nỗ lực cố gắng hết mình của cả thầy và trò nhà trường.
Khi Bộ GD-ĐT tiến hành chủ trương phân ban đại trà thì nhà trường đã có những biện pháp cụ thể và tích cực để hướng dẫn cho học sinh và phụ huynh trong việc lựa chọn ban học phù hợp với khả năng và điều kiện của các em đồng thời tổ chức những buổi tập huấn chuyên môn nâng cao nghiệp vụ cho giáo viên để có thể đáp ứng được yêu cầu mới của chuơng trình phân ban.
Kết quả nghiên cứu
- Số phiếu phát ra: 180
- Số phiếu thu về : 171
Sau khi phân tích, tổng hợp số phiếu khảo sát thực tế chúng tôi đưa ra những yếu tố tác động đến sự lựa chọn ban học của học sinh THPT như sau:
Về tỷ lệ học sinh tham gia các ban học
Trong số 171 em được điều tra thì có 101 em học ban KHCB chiếm 59,06%; 64 em học ban KHTN chiếm 37,42%; 6 em học ban KHXH chiếm 3,52%. Như vậy cũng giống như tình hình chung của các trường THPT trên cả nước số học sinh theo học ban CB tại trường Nhân Chính chiếm tỷ lệ cao nhất và số học sinh theo học ban KHXH chiếm tỷ lệ thấp nhất. Tại sao lại có sự lựa chọn chênh lệch như vậy? Chúng tôi có thể đưa ra những lý do sau:
So với hai ban KHTN và KHXH, học sinh ban CB sẽ được học chương trình chuẩn nhẹ nhàng hơn. Thêm vào đó ban CB vẫn có các môn học tự chọn dành cho học sinh học nâng cao trong suốt 3 năm học ở bậc THPT. Khi phỏng vấn cô giáo Hiệu phó nhà trường chúng tôi được biết rằng : trong đơn nhập học của học sinh hầu hết các em hầu hết các em lựa chọn ban CB vì có thể học được các môn tự chọn theo khối thi ĐH. Chẳng hạn, học sinh có thể học 3 môn tự chọn là Toán-Lý-Hoá nều thi khối A, học 3 môn Văn-Toán-Ngoại ngữ nếu thi khối D… Học sinh học ban CB sau đó nâng cao ở các môn học tự chọn để thi vào ĐH-CĐ thuận lợi hơn. Rõ ràng động cơ chọn ban CB của học sinh là để thi ĐH.
Hơn nữa nhiều học sinh ngại học ban A vì phải học nâng cao 4 môn trong khi thi ĐH chỉ có 3 môn từ đó học sinh e ngại ban A qúa nặng học sẽ vất vả và nhiều áp lực. Những học sinh thật sự có khả năng và yêu thích những môn học này thì mới ưu tiên lựa chọn nó. Còn ban C có rất ít lựa chọn vì đường vào ĐH quá hẹp, phải học thuộc nhiều vất vả (mà hầu hết học sinh đều ngại việc học thuộc) việc chọn ngành nghề hạn chế lại không được xã hội ưa chuộng. Chỉ những học sinh thật sự đam mê những môn học thuộc lĩnh vực KHXH mới theo học. Như thực trạng các trường THPT hiện nay thì các em muốn học ban KHXH cũng rất khó khăn vì số lượng lựa chọn quá ít không đủ điều kiện để nhà trường thành lập lớp. Vì vậy tỷ lệ lựa chọn thấp nhất cũng là điều có thể lý giải được.
Những vấn đề liên quan khác
Ở phần này chúng tôi đưa ra các câu hỏi như sau:
Đơn vị %
Tiêu chí
có
không
1. Bạn có thích ban mình đang học không?
25.73
74.27
2. Nếu được lựa chọn bạn có chọn lại ban học không? Nếu chọn lại thì bạn sẽ chọn ban nào?
87.71
12.29
3. Sau khi tốt nghiệp THPT bạn có thi ĐH- CĐ không?
91.2
8.8
4. Nếu thi ĐH bạn có thi đúng ban mình đang học không?
72.06
27,94
5. Khi học THCS bạn có được nhà trường hướng dẫn chọn ban không?
75,1
24,9
6. Chương trình Giáo dục hướng nghiệp có giúp bạn trong việc lựa chọn ban học không?
69,94
30,06
7 .Chương trình phân ban có nặng không?
35,03
64,97
8. SGK phân ban có hay, phù hợp không?
60,3
39,7
9. Theo bạn có nên phân ban ngay từ đầu không?
59.73
40,27
2.2.1 Nhóm câu hỏi 1,2 cho ta thấy một sự mâu thuẫn, không phải tất cả các em đều thích ban mình học(27,53%) nhưng khi cho lựa chọn lại thì chỉ có 12,29% đồng ý còn 87,71% vẫn chọn ban mình đang học. Chứng tỏ rằng khi đã chọn ban các em đều không muốn thay đổi ban học của mình.
Đối với câu hỏi phụ của câu hỏi số 2 : chọn ban khác là ban nào? Chúng tôi đã nhận được những ý kiến phản hồi rất đa dạng, có em thích chuyển từ Ban D sang Ban A, có em thích ngược lại, đáng chú ý là có nhiều em muốn học những môn như: Toán-Tin-Anh, Văn-Anh-Sử,…. những môn học này không biết nên xếp vào ban nào. Điều này cho thấy phân ban của chúng ta hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu của học sinh. Tại Pháp có tới 16 ban cho học sinh lựa chọn. Một câu hỏi đặt ra là thực hiện 3 ban như chúng ta hiện nay có quá gò bó và hạn chế lựa chọn của học sinh không?
Nhóm câu hỏi 3,4 cho thấy mục tiêu trước mắt của các em đều là cổng trường ĐẠI HỌC có 91,2% số em được hỏi cho biết sẽ thi Đại học sau khi tốt nghiệp THPT. Mặc dù ai cũng biết xã hội ngày nay đang thừa thầy thiếu thợ nhưng bậc phụ huynh nào cũng muốn con em mình có một nghề nghiệp nhàn nhã, hơn nữa do tâm lý trọng danh của người Việt, việc con cái đỗ Đại học là một niềm vinh dự tự hào lớn đối với cả gia đình và dòng họ. Ngoài ra, trong suy nghĩ của một học sinh cấp III thì hình ảnh một sinh viên rất đẹp và các em đều muốn hướng tới.
Khi phỏng vấn sâu một học sinh lớp 10 em cho biết “ học ban nào cũng được miễn là đỗ được Đại học” như vậy có một số lượng không nhỏ sinh gắn chặt ban ban học của mình với mục tiêu Đại học. Đây là một điều dễ hiểu vì sự lựa chọn này sẽ làm cho khả năng thành công của các em khi thi ĐH cao hơn nhiều.
2.2.3 Nhóm câu hỏi 5,6 cho thấy hầu hết các em học sinh đã được hướng dẫn chọn ban từ bậc THCS. Đây là một điều đáng mừng mà các nhà trường THCS đã làm được và cần phải phát huy tốt hơn nữa trong thời gian tiếp theo.
Nhóm câu hỏi 7,8,9: ở các đối tượng điều tra hầu hết các em đều có những đánh giá khá tốt về chương trình phân ban. Điều này chứng tỏ Trường THPT Nhân Chính đã làm khá tốt trong việc phân loại học sinh, tổ chức dạy học phân ban dựa trên nguyện vọng của học sinh và đặc trưng của nhà trường mang lại hiệu quả khá tốt. Như vậy, nhìn một cách khách quan nếu nhà trường đưa ra được những biện pháp tổ chức dạy học phân ban hợp lý thì hiệu quả mang lại sẽ khả quan.
Các yếu tố tác động đến việc lựa chọn ban học của học sinh THPT
Đây là vấn đề quan trọng nhất . Chúng ta có thể thấy được qua bảng số liệu và biểu đồ sau:
Các yếu tố tác động
Gia đình
Sở thích
GD hướng nghiệp
Bạn bè rủ rê
Năng lực bản thân
Phương tiện TT đại chúng
Lý do khác
Tỷ lệ
(%)
11,11
24,56
4,09
10,52
39,18
1,75
20,16
Bảng3: Một số yếu tố tác động đến việc lựa chọn ban học của học sinh THPT
Biểu đồ thể hiện tỷ lệ một số yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn ban học của học sinh THPT.
Dựa vào các tiêu chí ở bảng trên chúng tôi chúng tôi chia yếu tố tác động tác động đến việc chọn ban của học sinh THPT làm hai nhóm chính đó là yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan.
Yếu tố chủ quan
Yếu tố chủ quan chính là sự tự xác định và phân loại của học sinh về việc lựa chọn ban học của học sinh dựa trên một phức hợp các yếu tố như tình cảm (có hứng thú với môn học hay không), động cơ ( có thi đại học theo đúng ban mình chọn học hay không?), năng lực( có học tốt tất cả các môn đó hay không?) Ở Trường THPT Nhân Chính- Hà Nội có 39,18% số học sinh được hỏi chọn ban học dựa vào năng lực bản thân. Đây là yếu tố /chiếm tỷ lệ cao nhất trong số 7 yếu tố mà chúng tôi đưa ra. Như vậy chứng tỏ học sinh Trường Nhân Chính đã chọn ban dựa vào năng lực của bản thân. (Nhìn vào biểu đồ ta có thể dễ dàng nhận ra điều này).
Yếu tố sở thích chiếm tỷ lệ khá cao 24,56%. Lựa chọn ban học dựa vào sở thích của bản thân là một điều dễ hiểu và nên khuyến khích vì khi thích thú với ban học của mình các em mới say mê học tập và học có hiệu quả được. Tuy nhiên phải có sự định hướng của thầy cô, gia đình tức là sở thích cảu các em nên đặt trong mối tương quan với những điều kiện thực tế của bản thân. Ví dụ có những học sinh thích học các môn thuộc lĩnh vực KHTN nhưng khả năng của các em trong lĩnh vực này kém thì nên có sự cân nhắc kỹ lưỡng khi chọn ban
Yếu tố khách quan là các yếu tố như gia đình, bạn bè., giáo dục hướng nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng…
- Về yếu tố gia đình (ông bà, cha mẹ, anh chị em…). Các quyết định liên quan đến hướng nghiệp (chọn ngành đào tạo, nghề nghiệp và việc làm) của thế hệ con cháu thường được thực hiện ở những giai đoạn khi họ còn khá trẻ chưa tích luỹ được nhiều và chưa khẳng định được mình, do đó họ có khuynh hướng lệ thuộc nhất định vào gia đình ( những người lớn) bởi trong suy nghĩ của thế hệ con cháu: Người lớn (ông bà, cha mẹ đã có một vị trí nhất định trong xã hội, đặc biệt là họ có nhiều kinh nghiệm sống hơn. Ngoài ra, giữa các thành viên trong gia đình còn có các quan hệ tâm lí, tình cảm tạo điều kiện cho việc trao đổi giữa các thế hệ về vấn đề hướng nghiệp.Các yếu tố này đứng sau uy tín và tạo sức nặng cho việc người lớn đưa ra các lời khuyên nhủ về hướng nghiệp tới các thành viên trẻ hơn trong gia đình của họ.
Như vậy, truyền thống, văn hoá, các quy ước ngầm ở Việt Nam về trách nhiệm của thế hệ cha ông trong quan tâm, chăm sóc thế hệ con cháu mở đường cho việc người lớn khi có điều kiện đều có thể tác động, can thiệp sâu, nông, ít, nhiều vào các quyết định, dự định về nghề nghiệp, học hành, việc làm của con cháu. Đến lựơt mình cung cách và nội dung tác động này có thể ít nhiều chịu sự chi phối của các giá trị xã hội rộng lớn hơn như tính thực tiễn, tính thức thời…Chẳng hạn trong bối cảnh xã hội đang cần những nguồn nhân lực trong các lĩnh vực khoa học Công nghệ thông tin, Công nghệ sinh học, Tài chính, Ngân hàng, Chứng khoán… Những ngành này đem lại nguồn thu nhập cao, một cuộc sống khá giả và ổn định, còn những ngành thuộc lĩnh vực KHXH nhu cầu hiện nay ít hơn so với những ngành kể trên và thu nhập có phần thấp hơn so với các ngành trên mà cha mẹ nào cũng mong muốn con mình sau này sẽ có một cuộc sống ổn định, sung túc. Do vậy, khi các con chọn trường thi, chọn ban học đã có những định hướng cho con theo nhu cầu của xã hội .
Yếu tố thứ ba tác động đến việc chọn ban của học sinh trung học phổ thông nữa là do bạn bè rủ rê (Tại Trường THPT Nhân Chính yếu tố này chiếm 10,52% đây là một tỷ lệ không nhỏ). Tình bạn thuở Trung học phổ thông rất được các em coi trọng, các em rất tin tưởng vào bạn bè. Các em thích tâm sự với bạn hơn là tâm sự với những người thân trong gia đình, thường hành động theo những sở thích giống nhau và cho đó là một cách thể hiện tình bạn thân thiết. Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên khi những nhóm học sinh chơi thân với nhau sẽ đăng ký học cùng một ban, một lớp để được gần gũi và giúp đỡ nhau.
Như vậy, có rất nhiều yếu tố tác động đến sự lựa chọn ban học của học sinh. Trên đây, chúng tôi mới đưa ra một số yếu tố tiêu biểu và phân tích sự tác động của nó đến sự lựa chọn ban học của học sinh. Các yếu tố này không tồn tại rời rạc mà có sự tác động qua lại lẫn nhau, một học sinh có thể lựa chọn ban học của mình dựa trên năng lực và sở thích của bản thân, định hướng của gia đình …
KẾT LUẬN , KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP
Kết luận
Việc triển khai chương trình phân ban là cần thiết trong bối cảnh hiện nay khi mà nền giáo dục nước nhà cần phải nhanh chóng hội nhập cùng Thế giới. Nó cũng đã bước đầu đáp ứng được nguyện vọng và phát huy được năng lực học tập, xu hướng lựa chọn ngành nghề của học sinh.
Tuy nhiên vẫn còn tồn tại rất nhiều bất cập như:
Nội dung chương trình SGK lớp 10 phân ban thực sự còn quá tải, nặng nề khiến người dạy không đủ thời gian đầu tư nghiên cứu ( có nhiều kiến thức mới được cập nhật) còn người học không kịp tiếp thu đủ lượng kiến thức trên lớp và cả thời gian làm việc ở nhà cho một môn học. Mặt khác, kiến thức trong sách của chương trình chuẩn và chương trình nâng cao còn chưa thống nhất.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng dạy học còn thiếu, chưa đáp ứng được với yêu cầu của chương trình học.
Việc phân làm 3 ban như hiện nay vẫn chưa thật hợp lý và linh hoạt, chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của học sinh. Ví dụ có những học sinh thích học ban KHXH nhưng vì số lượng học sinh đăng ký quá ít nhà trường không thể thành lập một lớp riêng nên đã ghép các em vào lớp học khác. Thực tế tại trường Nhân Chính một số em thích học Toán- Tin-Anh không biết học ban nào cho phù hợp…
Kiến nghị, Giải pháp
Qua việc tìm hiểu nghiên cứu về các yếu tố tâm lý tác động đến sự l
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- GD0005.doc