Trước hết, về căn cứ xác định tài sản chung, luật hôn nhân và gia đình hiện hành dựa vào “thời kỳ hôn nhân”, quy định những thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được tặng cho chung, tài sản không chứng minh được là tài sản riêng thì được coi là tài sản chung hợp nhất của hai vợ chồng. Nhưng nếu chỉ quy định về mặt nguyên tắc chung như vậy thì sẽ vướng phải một trở ngại khi gặp trường hợp “thời kỳ hôn nhân” không diễn ra liên tục. Về bản chất, ta hiểu “thời kỳ hôn nhân” là khoảng thời gian từ khi hôn nhân hợp pháp bắt đầu cho đến khi kết thúc. Tuy nhiên, khi một trong hai bên vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố chết thì về mặt pháp lý, quan hệ vợ chồng của họ chấm dứt, tài sản chung hợp nhất của hai vợ chồng sẽ được chia tách theo quy định của pháp luật. Vấn đề đặt ra là, khi một người bị tuyên bố chết mà trở về thì giải quyết tài sản chung đã phân chia cho họ như thế nào để đảm bảo quyền lợi cho họ
9 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2470 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu những vướng mắc, bất cập và hướng hoàn thiện quy định của luật hôn nhân và gia đình về chế độ tài sản vợ chồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Khi một đôi nam nữ tiến tới hôn nhân thì mối quan hệ giữa họ sẽ xuất hiện những ràng buộc nhất định, không chỉ mang tính quy phạm đạo đức xã hội mà còn mang tính pháp lý, được đảm bảo thực hiện bởi các quy định của pháp luật. Trong đó, những quy định về chế độ tài sản vợ chồng có tầm quan trọng hết sức đặc biệt, không chỉ trong phạm vi gia đình mà còn ảnh hưởng đến toàn xã hội. Bởi lẽ, mỗi gia đình là một tế bào của xã hội, kinh tế của mỗi người, mỗi nhà được đảm bảo thì nền kinh tế toàn xã hội mới có thể ổn định và phát triển bền vững. Vậy nên pháp luật rất cần phải chú trọng tới các chế định liên quan đến tài sản vợ chồng. Tuy nhiên, do pháp luật về hôn nhân và gia đình vẫn có nhiều điểm chưa cụ thể, rõ ràng, các văn bản hướng dẫn thi hành chưa đầy đủ… dẫn đến thực tiễn xét xử các vụ việc liên quan đến chế độ tài sản vợ chồng vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập; nhất là các vụ liên quan đến chia tài sản vợ chồng khi ly hôn, nghĩa vụ và quyền hạn của vợ, chồng đối với tài sản chung…
Để nghiên cứu sâu hơn và tìm hướng giải quyết cho vấn đề này, em xin chọn đề tài “Tìm hiểu những vướng mắc, bất cập và hướng hoàn thiện quy định của luật hôn nhân và gia đình về chế độ tài sản vợ chồng” cho bài tập lớn học kì. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy, cô để em có thể nâng cao kiến thức cũng như kiện toàn tiểu luận của em.
Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
1, Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình hiện hành.
Chế độ tài sản vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về (sở hữu) tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng theo luật định. Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật của Nhà nước là một tất yếu khách quan, nhằm điều chỉnh quan hệ tài sản giữa vợ chồng với nhau và với những người có liên quan, góp phần ổn định kinh tế gia đình, xã hội cũng như điều hòa các mối quan hệ xã hội.
Chế độ tài sản vợ chồng điều chỉnh quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, tạo điều kiện cho vợ chồng thực hiện các quyền và nghĩa vụ về tài sản trong suốt thời kỳ hôn nhân. Đồng thời đây còn là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau hoặc với người khác, nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng về tài sản cho các bên vợ, chồng hoặc người thứ ba tham gia vào giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành gồm hai phần cơ bản là chế độ tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng và chế độ tài sản riêng của vợ chồng.
1.1)Về chế độ tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng.
*Căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng được quy định tại Điều 27 – Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: “1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.”
*Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản chung quy định tại Điều 28 Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
1. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thoả thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.
*Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:
Điều 29. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.
2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận.
Điều 30. Hậu quả chia tài sản chung của vợ chồng
Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
*Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn: Dựa trên nguyên tắc thỏa thuận, nếu vợ chồng không tự thỏa thuận được thì Tòa giải quyết theo nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, quy định tại Điều 95 – Luật hôn nhân vả gia đình năm 2000.
1.2)Về chế độ tài sản riêng của vợ chồng.
*Căn cứ xác lập: Điều 32 – Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.
2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung.
*Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng: Điều 33. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng
1. Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 Điều này.
2. Vợ, chồng tự quản lý tài sản riêng; trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không uỷ quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó.
3. Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng.
5. Trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thoả thuận của cả vợ chồng.
Các Điều 96, 97, 98, 99 là những quy định cụ thể về việc chia tài sản của vợ chồng là bất động sản khi ly hôn đối với cả tài sản chung và tài sản riêng.
2, Những vướng mắc, bất cập còn tồn tại của luật hôn nhân và gia đình về chế độ tài sản vợ chồng.
2.1) Về chế độ tài sản chung.
Trước hết, về căn cứ xác định tài sản chung, luật hôn nhân và gia đình hiện hành dựa vào “thời kỳ hôn nhân”, quy định những thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được tặng cho chung, tài sản không chứng minh được là tài sản riêng thì được coi là tài sản chung hợp nhất của hai vợ chồng. Nhưng nếu chỉ quy định về mặt nguyên tắc chung như vậy thì sẽ vướng phải một trở ngại khi gặp trường hợp “thời kỳ hôn nhân” không diễn ra liên tục. Về bản chất, ta hiểu “thời kỳ hôn nhân” là khoảng thời gian từ khi hôn nhân hợp pháp bắt đầu cho đến khi kết thúc. Tuy nhiên, khi một trong hai bên vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố chết thì về mặt pháp lý, quan hệ vợ chồng của họ chấm dứt, tài sản chung hợp nhất của hai vợ chồng sẽ được chia tách theo quy định của pháp luật. Vấn đề đặt ra là, khi một người bị tuyên bố chết mà trở về thì giải quyết tài sản chung đã phân chia cho họ như thế nào để đảm bảo quyền lợi cho họ. Pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ quy định về việc khôi phục hôn nhân khi bên vợ hoặc chồng kia chưa kết hôn, quan hệ tài sản lại hợp nhất như ban đầu mà không nói rõ là hợp nhất lại như thế nào. Liệu hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chung trong thời gian từ lúc chia tài sản đến lúc khôi phục lại hôn nhân có được coi là tài sản chung hay không? Rồi thu nhập hợp pháp của vợ, chồng trong thời gian một bên bị tuyên bố chết có tính là tài sản chung hay không?...Để có thể đảm bảo được lợi ích chính đáng cho cả hai bên là điều vô cùng khó khăn.
2.2) Về chế độ tài sản riêng.
Một bất cập khác còn tồn tại trong luật hôn nhân và gia đình về chế độ tài sản vợ chồng, đó là căn cứ xác lập tài sản riêng. Theo Khoản 1 – Điều 32 – Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “đồ dùng tư trang cá nhân” được coi là tài sản riêng. Tuy nhiên, nếu chỉ quy định chung chung như vậy thì sẽ phát sinh một số vấn đề nan giải khi xét xử, bởi lẽ, có những tư trang cá nhân có giá trị rất lớn, hơn thế nữa lại không phải có nguồn gốc từ tài sản riêng mà là từ tài sản chung của cả hai vợ chồng. Giả sử như người vợ sử dụng thu nhập của chồng để mua nữ trang trong thời kỳ hôn nhân, giá trị của số nữ trang đó thậm chí còn tương đương với giá trị của một bất động sản, vậy khi Tòa xét ly hôn cho họ mà lại quyết định toàn bộ nữ trang đó thuộc tài sản riêng của vợ thì liệu có công bằng với người chồng hay không?
Một vấn đề nữa còn tồn tại gây nhiều tranh chấp về tài sản vợ chồng khi ly hôn, đó là thanh toán phần giá trị nhà ở mà bên không sở hữu nhà xứng đáng được hưởng do sự đóng góp của họ vào việc tu bổ, nâng cấp, sửa chữa ngôi nhà trong thời kỳ hôn nhân. Pháp luật hiện hành chưa quy định rõ về vấn đề này nên dẫn đến tình trạng mỗi tòa xử theo một cách. Tuy về căn bản, hiện nay hầu hết các vụ việc đều khá thỏa đáng, đương sự chấp thuận theo quyết định của tòa nhưng điều đó cũng không có nghĩa là tất cả các tòa đều xét xử hợp lý. Vấn đề đặt ra yêu cầu cần có một chế định rõ ràng về việc xác định mức đóng góp của bên không sở hữu nhà trong quá trình nâng cấp, sửa chữa cho ngôi nhà.
Chế độ tài sản vợ chồng của pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều thiếu sót trong mảng hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Giả sử một phụ nữ Việt Nam lấy chồng người nước ngoài tại Việt Nam, thời gian họ chung sống không nhiều, tuy rằng chồng vẫn chu cấp hàng tháng cho vợ rất đều đặn nhưng người vợ không thể nào biết được thu nhập cụ thể của chồng ra sao. Vậy nếu khi họ ly hôn thì làm sao để xác định lượng tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân của họ từ thu nhập của chồng là bao nhiêu? Nếu không xác định được thì làm sao để đảm bảo lợi ích hợp pháp cho người vợ? Cũng chính bởi hôn nhân có thêm yếu tố “nước ngoài” nên không thể cứ dùng luật “trong nước” mà điều chỉnh được. Các nhà làm luật Việt Nam cần rất chú trọng vấn đề này để có thể đưa ra những quy phạm phù hợp cho vấn đề này.
3, Hướng hoàn thiện những quy định của luật hôn nhân và gia đình về chế độ tài sản vợ chồng.
3.1) Về chế độ tài sản chung.
Nan giải này cũng bắt đầu xuất phát từ việc đương nhiên khôi phục quan hệ hôn nhân khi người vợ hoặc chồng bị tuyên bố chết trở về. Vậy có nên thay đổi quy định này hay không? Theo ý kiến cá nhân tôi cho thấy, một khi đã tuyên bố chết cho một người, cũng tức là nên chấm dứt hoàn toàn toàn bộ các quan hệ nhân thân và tài sản liên quan đến họ mà có gắn với quyền và lợi ích của các bên có liên quan. Như quan hệ hôn nhân, không nên quy định về việc đương nhiên khôi phục hôn nhân cho họ. Nếu hai người vẫn muốn tiếp tục quan hệ hôn nhân khi một bên đã được tuyên bố chết trở về thì cho họ đăng kí kết hôn lại từ đầu. Còn về vấn đề tài sản, chỉ cần quy định bên vợ hoặc chồng kia cùng các bên có quyền và lợi ích liên quan trả lại tài sản thuộc phần tài sản của người bị tuyên bố chết lúc chia, đền bù cho họ nếu có tổn thất; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản sau khi chia không quy định trả lại cho người bị đã tuyên bố chết, cũng đồng thời quy định thu nhập người bị tuyên bố chết trong thời gian đó không coi là tài sản chung của hai vợ chồng (vì về bản chất, khi tuyên bố chết cho họ là chấm dứt quan hệ hôn nhân thực sự giữa hai vợ chồng). Vậy xét lại rằng quy định như phương hướng trên liệu có làm mất quyền lợi của bên bị tuyên bố chết hay không vì bản thân họ không biết mình bị tuyên bố chết? Trả lời rằng, đây là vấn đề của phổ cập pháp luật. Một người đi khỏi nơi cư trú không khai báo liên tục trong 5 năm phải biết rõ rằng mình có thể sẽ bị tuyên bố chết và bản thân họ phải chấp nhận những bất lợi mà họ gặp phải nếu vướng phải trường hợp này, cho dù đó là rủi ro không lường trước được.
3.2) Về chế độ tài sản riêng.
Vấn đề quy định tư trang cá nhân là tài sản riêng cần phải xem xét lại. Không nên quy định chung như vậy cho tất cả các loại tư trang cá nhân. Cần phải xem xét tới nguồn gốc và giá trị của các loại tư trang đó. Nếu tư trang cá nhân có giá trị lớn và xuất phát từ tài sản chung vợ chồng thì nên xét vào tài sản chung và chia đều cho hai bên. Bên sở hữu ban đầu được tiếp tục sở hữu tư trang cá nhân đó và phải có nghĩa vụ thanh toán cho bên kia phần giá trị tương đương mà họ được hưởng.
Về chế định thanh toán giá trị nhà ở cho bên không sở hữu nhà nhưng có đóng góp trong quá trình nâng cấp, sửa chữa nhà, nên có một văn bản hướng dẫn cụ thể, phân chia các trường hợp tùy theo mức độ góp công góp sức của họ trong việc tu bổ nhà cửa mà đưa ra mức thanh toán hợp lý.
Về các trường hợp có yếu tố nước ngoài, cần có các quy định cụ thể hơn, chặt chẽ hơn không chỉ về chế độ tài sản mà ngay cả điều kiện kết hôn, bởi nó ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống hôn nhân sau này và nhất là vấn đề tài sản giữa vợ và chồng. Các quy định về chế độ tài sản vợ chồng có yếu tố nước ngoài cần phối hợp hài hòa với các công ước quốc tế mà Việt Nam kí kết, cũng cần đặt ra các tổ chức chuyên về “hôn nhân xuyên quốc gia” để đảm bảo quản lý hiệu quả cho các cuộc hôn nhân này cũng là bảo vệ lợi ích cho chính người trong cuộc lúc chia tài sản khi ly hôn.
KẾT LUẬN
Luật pháp hiện hành còn cô đọng, mang tính nguyên tắc chung, chưa có những quy định rõ ràng, cụ thể; nhiều trường hợp phức tạp mới phát sinh chưa được điều chỉnh đúng mức, chưa được thuận tình. Hệ thống quy phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình còn thiếu nhiều các văn bản áp dụng, hướng dẫn thi hành. Ngoài ra nghiệp vụ xét xử ở các tòa án cũng cần được nâng cao hơn nữa để giải quyết những bất cập pháp luật còn tồn tại.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu những vướng mắc, bất cập và hướng hoàn thiện quy định của luật hôn nhân và gia đình về chế độ tài sản vợ chồng.doc