Tiểu luận Tìm hiểu nội dung của chế độ khoán chi hành chính và khả năng áp dụng phương thức này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Đến hết năm 2008, theo số liệu chưa đầy đủ đã có 22 Bộ, cơ quan ở trung ương triển khai chế độ tự chủ cho 100% các đơn vị trực thuộc, có 44 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện chế độ tự chủ cho 100% cơ quan, đơn vị thuộc cấp tỉnh Năm 2008 thấy, các cơ quan thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm đã triển khai nhiều biện pháp để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và sử dụng kinh phí được giao đúng mục đích, có hiệu quả, một số cơ quan trung ương báo cáo có số tiết kiệm tương đối cao (đạt trên 10%) như: Bộ Ngoại giao đạt 26,67%; Kiểm toán Nhà nước đạt 19,86%; Bộ Công Thương đạt 14,22%; Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đạt 10,97%; Bộ Thông tin và Truyền thông đạt 14,44%; Nhờ nguồn kinh phí tiết kiệm, một số cơ quan đã có nguồn để chi tăng thu nhập cho cán bộ công chức như: Cục trợ giúp pháp lý Bộ Tư pháp là 2.516.000 đồng (0,6 lần), Bộ Ngoại giao là 1.830.000

doc13 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2834 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu nội dung của chế độ khoán chi hành chính và khả năng áp dụng phương thức này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đơn vị cấp dưới trực thuộc gửi đơn vị dự toán cấp I. Cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương (đơn vị dự toán cấp I) xem xét dự toán do các đơn vị trực thuộc lập, tổng hợp và lập dự toán chi ngân sách thuộc phạm vi quản lý gửi cơ quan tài chính cùng cấp để trình cấp có thẩm quyền quyết định. Các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ phải có trách nhiệm trong hoạt động của mình, trong đó Thủ trưởng cơ quan thực hiện chế độ tự chủ chịu trách nhiệm trước pháp luật về các quyết định của mình trong việc quản lý, sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính được giao. Các cơ quan quản lý cấp trên, cụ thể là Bộ tài chính, Bộ nội vụ có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với nhau để hướng dẫn thực hiện cho các đơn vị tự chủ, thường xuyên tổ chức chỉ đạo, kiểm tra giám sát việc thực hiện chế độ tự chủ tại các đơn vị , quy định cụ thể tại Điều 12, 13 Nghị định này. Ngoài ra các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương cũng có trách nhiệm liên quan đến việc thực hiện tự chủ của các đơn vị (quy định cụ thể tại Điều 11 Nghị định này) thường xuyên chỉ đạo hướng dẫn cho các đơn vị thực hiện chế độ, ban hành các tiêu chí đánh giá cho các đơn vị, tổ chức kiểm tra giám sát việc thực hiện, hàng năm có tổ chức báo cáo đánh giá việc thực hiện của các đơn vị, đánh giá kiến nghị đề xuất tháo gỡ các khó khăn trong việc thực hiện. Về biên chế. Căn cứ số biên chế được giao, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ được quyền chủ động trong việc sử dụng biên chế như sau: Được quyết định việc sắp xếp, phân công cán bộ, công chức theo vị trí công việc để bảo đảm hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của cơ quan. Được điều động cán bộ, công chức trong nội bộ cơ quan. Trường hợp sử dụng biên chế thấp hơn so với chỉ tiêu được giao, cơ quan vẫn được bảo đảm kinh phí quản lý hành chính theo chỉ tiêu biên chế được giao. Được hợp đồng thuê khoán công việc và hợp đồng lao động đối với một số chức danh theo quy định của pháp luật trong phạm vi nguồn kinh phí quản lý hành chính được giao 3.2 Nguyên nhân phải thực hiện. Một số thực trạng về vấn đề chi tiêu và biên chế của cơ quan nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp có thu. Những vấn đề chi tiêu không đúng chế độ; sử dụng tài chính không đúng mục tiêu; không đúng nguồn tình trạng; lãng phí và thất thoát đã diễn ra một cách phổ biến trong các cơ quan hành chính theo như dân gian ta hay nói cha chung không ai khóc. Cuối năm 2008, kiểm toán nhà nước công bố những con số giật mình. Bộ nông nghiệp phát triển nông thôn phản ánh thiếu tài sản, ôtô, máy móc,… lên tới gần 10 tỉ đồng. Tại 8 bộ, ngành địa phương, qua kiểm toán phát hiện số tài sản mua sai chế độ mục đích…lên tới 95 tỷ đồng...Số tiền chi tiêu công mà kiểm toán nhà nước kiến nghị xử lý lên tới 13.000 tỷ đồng – tương ứng thu ngân sách của 13 tỉnh thành. Không những thế với 1 luợng lớn biên chế mỗi năm chúng ta mất một lượng lớn tiền chi cho họ mà nhiều khi không cần thiết nhiều đến thế, mọi người thi nhau chạy vào biên chế, vào cơ quan nhà nước rồi sau khi được biến chế lại chạy chỗ khác làm thêm những việc khác, một thực trạng kéo dài trong nhiều năm liền mất một lượng tiền lớn để trả cho họ mà có khi hiệu quả thu được không nhiều. Nguyên nhân nhà nước ta thực hiện chế độ khoán chi hành chính. -Để giảm thiểu gánh nặng chi tiêu công, các cơ quan, đơn vị với quan niệm trước đây thiếu đâu đã có nhà nước no, cơ chế xin-cho tồn tại trong một thời gian dài đi sau vào tư tưởng ý thức, mọc rể trong suy nghĩ của họ, nhà nước ta mỗi năm phải chi 1 khoản tiền lớn cho chi tiêu : tiền lương, tiền công, phụ cấp lương, chi phí thuê mướn, chi nghiệp vụ chuyên môn của từng ngành, mua sắm, sửa chữa thường xuyên tài sản cố định;…giả sử như biên chế tăng không có hạn mức cụ thể thì nhà nước ta phải chi một số tiền cho số biên chế này. Lượng biên chế đông mỗi năm nhà nước ta phải chi 1 số tiền khổng lồ cho chi trả lương, khi thực hiện tự chủ buộc các cơ quan, đơn vị phải xem xét đến lượng biên chế sao cho đủ người đúng việc. - Thực hiện khoán chi hành chính thì buộc các đơn vị sử dụng NSNN chủ động trong việc chi hơn, không còn mang tính thụ động, ỷ lại nữa, mà sẽ phải tự điều tiết, có kế hoạch tính toán chi tiêu sao cho với khoản chi đó thu được hiệu quả, bởi nếu chi mà không phù hợp dẫn đến lãng phí không đủ thì không có chuyện hết là xin và chính thủ trưởng cơ quan đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những quyết định của mình. - Thúc đẩy sự năng động của các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp trong việc chủ động tìm kiếm và tăng những nguồn thu, các khoản phí, lệ phí được để lại theo chế độ quy định, các khoản thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Nâng cao hiệu suất hoạt động để tăng thêm thu một cách hiệu quả. Tăng tính năng động trong việc điều tiết cán bộ biên chế sao cho hiệu quả, do ý thức làm việc thiếu trách nhiệm của cán bộ công chức trong chế độ cũ. Trước đây khi nhà nước thực hiện biên chế hưởng lương theo cấp bậc, ý thức làm việc chưa cao của cán bộ công chức luôn nghĩ rằng lương đã có nhà nước trả. Lương bình quân như nhau làm nhiều hay ít cũng vậy nhưng với khoán chi sẽ tạo ra 1 môi trường mới người làm hiệu quả sẽ nhận được phần lương tương ứng với phần mình làm. -Đảm bảo cho nguồn nhân lực đầu vào ổn định hơn khi mà trong thời gian trước lượng người vào làm và biên chế cứ xin vào rồi đi học thêm lấy bằng, hoặc trình độ không cao.. nhưng với thực hiên chế độc khoán chi hành chính này thì phải cân nhắc sao cho nguồn nhân lực đầu vào chất lượng để thu được hiệu quả cao không gây lãng phí thất thoát nguồn kinh phí được cấp. 4. Ưu điểm và nhược điểm thực hiện khoán chi hành chính. 4.1 Ưu điểm của khoán chi hành chính. Việc khoán chi hành chính tạo ra tính chủ động, sáng tạo trong việc sử dụng ngân sách ở các cấp địa phương. Giảm gánh nặng cho ngân sách trung ương. Điều tiết vấn đề chi tiêu, các cơ quan sẽ phải tự sắp xếp nguồn nhân lực sao cho hợp lí. Tạo ra tính năng động trong việc tìm kiếm nguồn thu đảm bảo cho quỹ tiền của cơ quan, chủ động đi tìm kiếm những khoản thu sao cho một phần nào đó có thể đáp ứng nhu cầu chi tiêu của địa phương mình. đơn vị đó. Xoá bỏ sự bình quân chủ nghĩa, xoá bỏ sự thiên vị trong quá trình phân bổ ngân sách khiến cơ chế xin - cho không còn môi trường tồn tại. Áp dụng chế độ khoán chi hành chính góp phần làm cho bộ máy hành chính nước ta được hiệu quả. Khoản chi thường xuyên về lương cho đội ngũ nhân viên nhà nước được sử dụng hiệu quả, lượng biên chế được bảo đảm. Việc áp dụng chế độ khoán chi hành chính làm cho bộ máy hành chính hoạt động có hiệu quả hơn, giúp việc kiểm soát chi hành chính thuận lợi hơn, khi đã giao cho các cơ quan, đơn vị này tự chủ thì công việc sẽ giảm bớt và giảm bớt gánh nặng cho cơ quan cấp trên, ngày trước thì các cơ quan, đơn vị này kêu rồi lại phản ánh nên trên, trên có chưa giải quyết kịp lại gâp ra khó khăn cho dưới thế là bài toán đặt ra trên lại trách dưới sao chi tiêu lại tốn nhiều thế, dưới lại phản ánh nên trên chi nhiều vấn đề lương rồi phụ cấp..khúc mắc sao lâu có tiền, thế là thiếu tiền chi cho khoản này khoản kia, đưa ra họp thì bên nào cũng kêu cũng đổ lỗi cho nhau, đặt ra vấn đề giao kinh phí tự chủ về biên chế và kinh phí quản lí hành chính, thủ trưởng, người đứng đầu tự phải biết quản lí điều tiết nguồn kinh phí chi cho cơ quan, đơn vị của mình. Thực hiện tự chủ tốt sẽ đem lai lợi ích cho chính cơ quan, đơn vị đó: ví dụ kết thúc năm ngân sách, sau khi đã hoàn thành các nhiệm vụ công việc được giao, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ có số chi thực tế thấp hơn dự toán kinh phí quản lý hành chính được giao thực hiện chế độ tự chủ thì phần chênh lệch này căn cứ theo nghị định 130 và văn bản hướng dẫn nghị định 130 thì có thể thực hiện tăng lương cho cán bộ, chi khen thưởng, hoặc chuyển sang năm sau sử dụng tiếp… 4.2 Nhược điểm của khoán chi hành chính. Thứ nhất: Nếu trong các đơn vị không có nguồn thu nào khác ngoài nguồn thu từ ngân sách nhà nước cấp hoặc nguồn các thu đó không đủ, thì vấn đề đặt ra các đơn vị đành phải tự chủ. Vậy tự chủ phải được thực hiện như thế nào cho hợp lý, vấn đề này gây khó khăn cho các đơn vị, có thể dẫn đến chi trả không đủ gây nhiều khó khăn. Trên thực tế, thủ trưởng không có quyền chấm dứt một cán bộ biên chế không có năng lực hay phẩm chất đạo đức không tốt mà chỉ là sắp xếp họ vào một công việc khác. Hay với một nhiệm vụ mới phát sinh, đòi hỏi phải tăng cán bộ nhưng thủ trưởng đơn vị vẫn không thể quyết định, nếu được thì cũng mất nhiều thời gian. Như vậy, kinh phí, biên chế đều chỉ là tự chủ trong tổng cố định, tự chủ mang tính tương đối nhưng công việc vẫn phải làm. Thứ hai: Nếu trong các đơn vị người đứng đầu kém sáng tạo, thì khoán chi cho rồi mà lại không phân bổ đúng, phân bổ vào những khoản không cần thiết, không hợp lý thì cũng dẫn đến tình trạng ngân sách chi trả trong đơn vị thiếu thốn, lãng phí.    * Mục tiêu của việc thực hiện khoán chi hành chính là đổi mới cơ chế quản lý nhằm nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các cơ quan hành chính trong việc sử dụng biên chế và kinh phí quản lý; khuyến khích cơ quan chủ động sắp xếp tổ chức và biên chế được giao; sử dụng lao động và kinh phí có hiệu quả; nâng cao hiệu suất, chất lượng công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng kinh phí, tăng thu nhập cho cán bộ, công chức. II: Tổng quan phương thức này trong giai đoạn hiện nay. 1: Thực trạng áp dụng thực hiện khoán chi qua các năm. Đối với khoán chi hành chính mà nói không phải bây giờ chúng ta mới thực hiện theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP mà trong thời gian trước chúng ta cũng đã thực hiện cụ thể là trước khi có nghị định 130 đã có Quyết định số 230/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 17 tháng 12 năm 1999 về việc thực hiện thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với một số cơ quan thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 17-12-2001, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg về việc mở rộng khoán biên chế và khoán biên chế quản lý hành chính nhà nước với các cơ quan hành chính nhà nước sử dụng ngân sách nhà nước ở Trung ương. Thực hiện khoán chi hành chính trong thời gian trước: (1999-2005).   Sau hơn một năm thực hiện, tháng 5/2001, Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức sơ kết triển khai Quyết định số 230/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ có sự tham gia của Bộ Tài chính, Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ). Qua đánh giá của UBND thành phố, việc thực hiện cơ chế khoán đã đạt được một số kết quả bước đầu khả quan.  Từ thực tiễn triển khai cơ chế khoán theo Quyết định số 230/TTg của Thủ tướng Chính phủ tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 17/12/2001 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg về mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan hành chính nhà nước. Tính đến tháng 9/2004 đã có 55/64 tỉnh, thành phố thực hiện khoán, với 991 cơ quan hành chính trực thuộc thực hiện khoán, đạt tỷ lệ 31,59% tổng số cơ quan hành chính thuộc tỉnh. Đổi mới tổ chức bộ máy và sắp xếp biên chế hợp lý báo cáo thực hiện năm 2003 của 50 tỉnh, thành phố với 399 cơ quan quản lý hành chính thực hiện thí điểm khoán đã giảm biên chế 1.512 người, đạt tỷ lệ giảm 7,7% so với tổng biên chế được giao khoán. Thực hành được tiết kiệm báo cáo thực hiện 2 năm 2002, 2003 của 50 tỉnh, thành phố cho thấy: Năm 2002, với 116 cơ quan thực hiện thí điểm khoán đã tiết kiệm được 14.988 triệu đồng bằng 16,7% tổng kinh phí khoán; năm 2003 với 399 cơ quan thí điểm khoán đã tiết kiệm được 39.737 triệu đồng bằng 9,1% tổng kinh phí khoán. Tăng thu nhập cho cán bộ, công chức… Tuy nhiên, song song với những kết quả đạt được, vẫn còn một số tồn tại và khó khăn. Những vướng mắc về cơ chế chính sách. Quyết định số 192/2001/QĐ-TTG ngày 17/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ là mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính, Quyết định này chưa mang tính bắt buộc đối với tất cả các cơ quan hành chính nên số lượng cơ quan đăng ký thực hiện khoán còn hạn chế. Trên thực tế rất ít cơ quan thoả mãn điều kiện trên không tăng biên chế và tổng kinh phí của các khoản chi thực hiện khoán so với trước khi thực hiện khoán, đối với đa số các địa phương khi xây dựng đề án khoán các cơ quan cấp trên mới rà soát lại và giao chính thức số biên chế và kinh phí cần thiết cho các cơ quan nhận khoán. Có nhiều công việc phát sinh đột xuất. Việc quy định như trên làm cho các cơ quan e ngại khi thực hiện đề án khoán. Đối với các cơ quan đã thực hiện khoán thì một số cơ quan gặp khó khăn trong quá trình thực hiện. Chế độ hiện hành vẫn còn thiếu những quy định xác định tiêu thức đánh giá, làm căn cứ để lượng hoá việc hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thực hiện khoán. Do các văn bản hướng dẫn hiện hành chưa có hướng dẫn rõ về việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ nên trong quá trình thực hiện một số cơ quan thực hiện khoán vẫn còn lúng túng, và còn 1 số quy định vướng mắc trong thực hiên việc khoán chi hành chính. Vẫn còn nhiều cơ quan chưa thấy được sự cần thiết thực hiện thí điểm cơ chế này, còn e ngại khi chuyển sang thực hiện cơ chế khoán nên chưa triển khai thực hiện. Một số cơ quan và cán bộ, công chức nhận thức chưa đúng tinh thần quyết định số 192 / 2001/QĐ-TTg…. Sau hơn 4 năm thực hiện Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg cho thấy chủ trương khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính là đúng đắn. Việc triển khai bước đầu đã đạt được những kết quả tích cực, đáng khích lệ, các đơn vị đã triển khai có điều kiện quản lý, nâng cao chất lượng công việc, biên chế giảm, tiết kiệm kinh phí, thu nhập của cán bộ, công chức tăng, cán bộ, công chức thực sự phấn khởi. Thực hiện khoán chi hành chính trong thời gian gần đây: (2005-hiện nay). Trước thực tế cần khắc phục những hạn chế, thiếu sót của quyết định 192 đó, nhà nước đã ban hành chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ và các Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTC-BNV ngày 17/01/2006, số 71/2007/TTLT-BTC-BNV ngày 26/6/2007 của Liên Bộ Tài chính - Bộ Nội vụ. -Sau khi được ban hành, việc thực hiện theo nghị định 130/2005/NĐ-CP cho đến nay đã đem lại những kết quả nhất định. Qua nhiều năm thực hiện, sự phù hợp và hiệu quả của cơ chế mới đã được khẳng định rõ rệt, đó là: Từng bước hạn chế tình trạng cơ quan chủ quản cấp trên can thiệp quá sâu vào công việc của cơ quan cấp dưới; sử dụng kinh phí đúng mục đích, tiết kiệm, có hiệu quả hơn, không còn tình trạng “chạy” kinh phí còn dư cuối năm để chi tiêu cho hết, mặc dù việc chi tiêu đó chưa thực sự cần thiết; thực hiện công khai dân chủ trong việc sử dụng kinh phí quản lý hành chính đã tạo sự đồng thuận cao trong đơn vị, đội ngũ cán bộ biên chế được đảm bảo hơn về cả số lượng và chất lượng… Đến hết năm 2008, theo số liệu chưa đầy đủ đã có 22 Bộ, cơ quan ở trung ương triển khai chế độ tự chủ cho 100% các đơn vị trực thuộc, có 44 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện chế độ tự chủ cho 100% cơ quan, đơn vị thuộc cấp tỉnh …Năm 2008 thấy, các cơ quan thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm đã triển khai nhiều biện pháp để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và sử dụng kinh phí được giao đúng mục đích, có hiệu quả, một số cơ quan trung ương báo cáo có số tiết kiệm tương đối cao (đạt trên 10%) như: Bộ Ngoại giao đạt 26,67%; Kiểm toán Nhà nước đạt 19,86%; Bộ Công Thương đạt 14,22%; Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đạt 10,97%; Bộ Thông tin và Truyền thông đạt 14,44%; …Nhờ nguồn kinh phí tiết kiệm, một số cơ quan đã có nguồn để chi tăng thu nhập cho cán bộ công chức như: Cục trợ giúp pháp lý Bộ Tư pháp là 2.516.000 đồng (0,6 lần), Bộ Ngoại giao là 1.830.000 … Tuy nhiên qua quá trình thực hiện cơ chế tự chủ cũng cho thấy một số hạn chế nhất định trong công tác quản lý, sử dụng kinh phí của các cơ quan nhà nước và trong việc đánh giá hiệu quả quản lý, sử dụng kinh phí của các cơ quan quản lý thể hiện ở các mặt như sau: -Thứ nhất: Vẫn chưa có một căn cứ xác đáng để quy định tỉ lệ giữa khối lượng công việc chuyên môn của mỗi cơ quan so với số lượng biên chế như thế nào là phù hợp. Theo một khía cạnh nào đấy, việc phân bổ NSNN theo định mức biên chế sẽ có tác động tiêu cực đến việc thực hiện tinh giản biên chế, khuyến khích các cơ quan nhà nước tăng số lượng biên chế so với nhiệm vụ được giao. -Thứ hai: Một trong những mục tiêu cơ bản của chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước đã được quy định tại điều 2, Nghị định số 130/2005/NĐ-CP là thực hiện quyền tự chủ đồng thời gắn với trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị. Tuy nhiên điều này chưa được thể hiện rõ nét: Về sử dụng kinh phí được giao, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ được vận dụng các chế độ chi tiêu tài chính hiện hành để thực hiện, nhưng không được vượt quá mức chi tối đa do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.  Kinh phí tiết kiệm cũng đcược quy định rõ đc chi cho những khoản gì theo điều 8 nghị định 130….  -Thứ ba: Theo quy định, các cơ quan chủ quản cấp trên, UBND các cấp ban hành các tiêu chí cơ bản để làm căn cứ đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan trực thuộc khi thực hiện chế độ tự chủ, trong đó phải có các tiêu chí đánh giá về các nội dung khối lượng, chất lượng công việc thực hiện, thời gian giải quyết công việc, tình hình chấp hành chính sách, chế độ và quy định về tài chính. Tuy nhiên, đến nay hầu như các cơ quan chủ quản cấp trên, UBND các cấp đều chưa ban hành được tiêu chí cơ bản, nên chưa có căn cứ để đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan trực thuộc, do đó việc xác định kinh phí tiết kiệm cũng chỉ được thực hiện thông qua công tác xét duyệt, thẩm định quyết toán ngân sách hàng năm… 2.Đánh giá chung về việc thực hiện khoán chi hành chính. Tuy còn 1 số hạn chế nhất định nhưng việc thực hiên khoán chi hành chính đã đem lại nhiều đổi thay trong cả cái cách hành chính và tài chính công. Nghị định 130/2005/NĐ-CP là một bước ngoặt lớn về tư duy và nhận thức trong việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính công, góp phần cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan hành chính trong việc sử dụng biên chế và kinh phí. Ngoài ra còn nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc, tiết kiệm tạo được nguồn kinh phí để tăng thu nhập cho cán bộ, công chức. Thực hiện khoán chi phí quản lí hành chính và khoán biên chế còn có tác dụng sắp xếp lại cơ cấu tổ chức theo hướng tinh gọn, đa ngành, đa lĩnh vực gắn với cải cách thủ tục hành chính, do đó, không chỉ tinh giản biên chế mà còn nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc. Mặc dù khoán chi hành chính có rất nhiều ưu điểm nhưng trên thực tế, vẫn có nhiều cơ quan hành chính vẫn chưa thực hiện chỉ mang tính tương đối. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này mà nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức về mục tiêu và yêu cầu khoán biên chế và kinh phí của nhiều công chức hành chính mới chỉ dừng lại ở việc khoán chi hành chính là việc tăng thu nhập cho cán bộ công chức mà chưa chú trọng đến các yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường tự chủ và tự chịu trách nhiệm của cơ quan trong việc sắp xếp bộ máy, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả công việc quản lý hành chính cũng như quản lý chi ngân sách nhà nước. Ý thức của con người là chủ yếu sợ mình không làm hiệu quả sẽ phải chịu trách nhiệm, rồi thiếu xin sẽ khó khăn, trong 1 thời gian dài cơ chế xin-cho đã ăn sâu vào gốc rể nhận thức của họ, có khi thực hiên còn ảnh hưởng đến lợi ích của mình thử hỏi ý thức không có thì lam sao giám nhận và thực hiện. Theo Vụ Tài chính (Bộ NN- PTNT), việc tự chủ biên chế, thật ra đây là cách gọi cho ý tưởng mới nhưng bản chất là chưa triệt để. Tự chủ trong tổng số cố định, tự chủ nhưng thật ra chỉ là việc sắp xếp, phân công nhiệm vụ…Và ở chính nghị định 130 cũng còn những thiếu xót khoán chỉ chỉ dừng lại ở lương, phụ cấp lương, các laoại văn phòng phẩm..nhứng đối với những khoản chi cho xây dựng cơ bản hay chi cho một số hạn mức nhất định nào đó thì chưa có, với định mức cao nhất hiện nay là 48 triệu đồng/biên chế/năm (áp dụng cho đơn vị có số biên chế dưới 101 người), trung bình một tháng mỗi biên chế được hưởng 3,6 triệu đồng/người bao gồm tiền lương, tiền văn phòng phẩm, tiền thông tin liên lạc...Như vậy, tiền dành cho công tác phí chỉ là con số 0 và các nội dung chi khác đều không được đáp ứng... Những bất hợp lý này dẫn tới ở một số đơn vị đã “linh hoạt” trong việc sử dụng nguồn kinh phí không tự chủ để giải quyết cho một số nội dung chi mà theo qui định hiện hành kinh phí tự chủ phải chi trả. Từ đó, đơn vị sẽ dành ra được một khoản tiết kiệm để tăng thu nhập, thật ra kinh phí tiết kiệm được chỉ là thủ thuật xử lý về nghiệp vụ, chứ không phải do sắp xếp hiệu quả công việc mang lại. Việc thực hiện Nghị định 130 nhiều khi đã không mang lại mục đích như mong muốn. Thêm vào đó, đối tượng thực hiện Nghị định 130 là tất cả cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên, thực tế như tại Cục Thú y, Cục Quản lý chất lượng, ATVS NLS và thuỷ sản, Cục BVTV thì chức năng về quản lý nhà nước và chức năng phục vụ quản lý nhà nước chưa được tách bạch rõ. Cả 3 Cục này đều có nguồn thu phí, lệ phí lớn. Như vậy, sẽ nảy sinh sự mất cân bằng về lợi ích (thu nhập, công tác phí...) giữa cán bộ công chức của đơn vị này với cán bộ, công chức của đơn vị khác, do không hẳn vì hiệu quả công việc mang lại của đơn vị, mà chính là do nhà nước đã cho 3 Cục này một quyền nhất định và đơn vị được hưởng lợi từ những quyền đó. Tổng quan chung lại thì việc thực hiên khoán chi hành chính từ năm 1999 đến nay đã thu được nhiều thành quả, tuy nhiên cũng còn nhiều cơ quan chưa thực hiên khóan chi chủ yếu về nhận thức và ý thức của họ. Khả năng áp dụng phương thức này ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là có thể mặc dù còn nhiều khó khăn trọng việc thực hiện rộng đầy đủ, tuy nhiên cái gì cũng cần phải có thời gian để kiện toàn, không thể vội vàng mà thành công ngay toàn bộ, đối với những gì chúng ta đã thực hiện được có thể tin tưởng rằng phương thức này sẽ ngày được nhân rộng ra thực hiện. III: Giải pháp và phương hướng. Giải pháp: Để nâng cao việc thực hiện tự chủ trong khoán biên chế và chi phí quản lí hành chính, nhóm chúng em xin đề xuất một số giải pháp sau: Một là: Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ nhiệm vụ chuyên môn của mỗi cơ quan, đối với các cơ quan nhà nước, định mức phân bổ NSNN ngoài căn cứ theo biên chế được phê duyệt cần phải có thêm các căn cứ khác như: chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao, quy mô, cơ cấu tổ chức bộ máy của mỗi cơ quan, hệ thống công sở, trang thiết bị... Bên cạnh đó, để đảm bảo thuận lợi trong quản lý và xác định kinh phí tiết kiệm, trong kinh phí quản lý hành chính giao thực hiện chế độ tự chủ chỉ bao gồm các nội dung chi hoạt động thường xuyên của cơ quan, không bao gồm kinh phí mua sắm tài sản cố định. Hai là: Để đảm bảo cho việc thực hiện chế độ tự chủ về ngân sách nhà nước được thực hiện có hiệu quả, cần nâng cao năng lực cho người đứng đầu các cơ quan, đơn vị sự nghiệp. Cụ thể là nâng cao trình độ quản lý tài chính của đội ngũ cán bộ, thủ trưởng các đơn vị, giúp cho các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ về ngân sách nhà nước có thể quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn ngân sách được giao vào thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Ba là: Để đảm bảo thống nhất trong việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, Nhà nước cần ban hành các tiêu chí khung đánh giá các nội dung cơ bản như: khối lượng, chất lượng công việc thực hiện, thời gian giải quyết công việc, tình hình chấp hành chính sách, chế độ và quy định về tài chính. Xây dựng hệ thống các tiêu chí phản ánh hiệu quả sử dụng các nguồn chi từ ngân sách trên tất cả các lĩnh vực. Dựa vào tiêu chí khung, các cơ quan chủ quản cấp trên, ủy ban nhân dân các cấp có cơ sở ban hành được tiêu chí cơ bản là căn cứ đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan trực thuộc. Bốn là: Các đơn vị tự chủ về ngân sách cần xây dựng cơ chế giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng nguồn ngân sách được giao, đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm, chống lãng phí. Các đơn vị cần xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế quản lý và sử dụng tài sản công, thực hiên công khai dân chủ trong cơ quan về sử dụng biên chế và kinh phí được giao, quy trách nhiệm cho tất cả các đối tượng sử dụng nguồn ngân sách. Năm là: Thực hiện tốt công tác quản lý ngân sách ở tất cả các khâu của chu trình ngân sách. Các cơ quan chủ quản cấp trên cần tăng cường công tác hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra các đơn vị trực thuộc thực hiện chế độ tự chủ về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hảnh chính theo quy định. Kho bạc nhà nước, cơ quan tài chính có trách nhiệm tạo điều kiện cho các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ trong quá trình rút kinh phí, đồng thời thực hiện việc kiểm soát chi theo quy định (kiểm soát các hồ sơ, chứng từ và thực hiện chi trả, thanh toán kịp thời các khoản chi ngân sách nhà nước đủ điều

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu nội dung của chế độ khoán chi hành chính và khả năng áp dụng phương thức này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.doc
Tài liệu liên quan